Khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ: Nguyên nhân và tác động

Quốc tế
Căng thẳng ngân hàng tại Mỹ bắt đầu xảy ra vào tháng 3/2023, khi Ngân hàng Silicon Valley (SVB) sụp đổ, sau đó lan truyền sang một số ngân hàng khác, làm dấy lên lo ngại về tính ổn định trong khu vực tài chính. Do đó, việc nghiên cứu các yếu tố dẫn đến khủng hoảng ngân hàng, biện pháp xử lí của cơ quan quản lí, tác động của nó cũng như bài học kinh nghiệm rút ra là hết sức cần thiết.
aa

Căng thẳng ngân hàng tại Mỹ bắt đầu xảy ra vào tháng 3/2023, khi Ngân hàng Silicon Valley (SVB) sụp đổ, sau đó lan truyền sang một số ngân hàng khác, làm dấy lên lo ngại về tính ổn định trong khu vực tài chính. Do đó, việc nghiên cứu các yếu tố dẫn đến khủng hoảng ngân hàng, biện pháp xử lí của cơ quan quản lí, tác động của nó cũng như bài học kinh nghiệm rút ra là hết sức cần thiết.

Các yếu tố dẫn đến khủng hoảng ngân hàng

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự sụp đổ của SVB là do cách thức lựa chọn phương thức quản lí rủi ro, sai lầm trong cơ cấu quản lí và giám sát ngân hàng, các động thái chính sách của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed). Một yếu tố quan trọng dẫn đến hoạt động liều lĩnh tại các ngân hàng và khủng hoảng ngân hàng gần đây bắt nguồn từ các quyết định của Fed về việc duy trì lãi suất gần bằng “0” trong thời gian dài từ năm 2009 đến năm 2022, áp dụng mức dự trữ bắt buộc gần bằng “0” đối với các ngân hàng sau đại dịch Covid-19 và tạm hoãn tăng lãi suất chính sách trong năm 2021, cho dù áp lực lạm phát có dấu hiệu leo thang. Quyết định của Fed trong năm 2021 cũng chệch hướng khỏi quy định của Quy luật Taylor, vốn được áp dụng từ năm 1995.


Trong môi trường lãi suất thấp, SVB đã sử dụng lượng tiền gửi tăng cao nhanh chóng (chủ yếu của các quỹ đầu tư mạo hiểm) để đầu tư vào chứng khoán dài hạn với hi vọng sẽ thu lợi nhuận cao. Năm 2021, với trên 95% tổng tiền gửi tại SVB là tiền gửi không kì hạn và 90% tiền gửi vượt giới hạn bảo hiểm 250.000 USD theo quy định của Công ty Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC). Vào thời điểm cuối năm 2022, có tới 96% trong số 173 tỉ USD tiền gửi là tiền gửi không bảo đảm, cũng do vượt ngưỡng 250.000 USD theo quy định của FDIC. Khi lãi suất tăng cao và khách hàng rút tiền gửi ồ ạt khỏi SVB để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn bên ngoài ngân hàng này, SVB không thể đáp ứng kịp nhu cầu và phải bán tháo chứng khoán với mức thua lỗ rất lớn (do giá trị của những chứng khoán này bị sụt giảm mạnh trong bối cảnh lãi suất tăng cao). Dẫn đến tình trạng mất niềm tin của người gửi tiền, làm trầm trọng thêm làn sóng rút tiền khỏi ngân hàng này.

Tại SVB, chênh lệch kì hạn mở rộng do nó hình thành theo thời gian cùng với xu hướng gia tăng bảng cân đối kế toán. Với tổng tài sản khoảng 209 tỉ USD vào cuối năm 2022, SVB là ngân hàng lớn thứ 16 tại Mỹ, chiếm trên 0,9% tổng tài sản của khu vực ngân hàng, cung cấp trên 50% vốn đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và các sản phẩm dịch vụ cho hàng loạt start-ups công nghệ và y tế. Trong ba năm qua, bảng cân đối tài chính của SVB tăng gấp ba lần, cao hơn nhiều so với mức tăng trung bình 39% của hệ thống ngân hàng Mỹ. Cũng trong thời gian này, SVB tiếp nhận lượng tiền gửi khổng lồ từ những start-ups này, chủ yếu dưới dạng tiền gửi không kì hạn. SVB cũng xây dựng danh mục đầu tư gián tiếp rất lớn với trái phiếu kho bạc kì hạn dài và chứng khoán cầm cố (120 tỉ USD), với mức thua lỗ trên sổ sách vào khoảng 17 tỉ USD (14,8%) và có thể được hấp thụ hoàn toàn bằng nguồn vốn của ngân hàng này. Sau tháng 12/2022, những khoản đầu tư này không được bảo lãnh trước rủi ro do lãi suất tiếp tục tăng cao.

Làn sóng rút tiền gửi ồ ạt của các nhà đầu tư tập trung đã kích hoạt sự sụp đổ của SVB, gây áp lực lên thanh khoản của ngân hàng này: Động thái bán 21 tỉ USD trái phiếu dự kiến gây tổn thất 1,8 tỉ USD. Để tự tái cấp vốn, SVB đã cố gắng bổ sung 2,25 tỉ USD vốn trực tiếp vào bảng cân đối tài chính, nhưng nỗ lực này thất bại, nguyên nhân có thể là do các nhân viên quản lí chủ chốt của SVB đã bán cổ phiếu từ hai tuần lễ trước đó. Ngày 10/3/2023, căng thẳng tài chính mới tại SVB đã dẫn đến làn sóng rút tiền trực tuyến khỏi ngân hàng này, một sự kiện được cho là kết hợp với những yếu kém trong việc phân bổ nguồn vốn. Một vài doanh nghiệp không kịp phân tán rủi ro thông qua gửi tiền ở nhiều ngân hàng khác nhau, trong đó một số doanh nghiệp gửi toàn bộ tiền dư thừa vào SVB. Hôm đó, SVB mất 25% tiền gửi (42 tỉ USD). Cuối cùng, cơ quản quản lí Mỹ quyết định thu hồi giấy phép và đóng cửa SVB.

Dư luận cho rằng, các cơ quan quản lí Mỹ có vẻ ưu tiên “chữa cháy hơn phòng cháy”. Sau đó, một ngân hàng lớn khác đổ vỡ, Ngân hàng Signature (Signature Bank - SB). Đây là ngân hàng lớn thứ ba (với tổng tài sản 110 tỉ USD) phải đóng cửa trong lịch sử nước Mỹ, và sự cố diễn ra chỉ sau hai ngày SVB bị phá sản. Khi đó, Fed, Bộ Tài chính và FDIC mới bắt đầu có động thái ngăn ngừa rủi ro lan truyền và duy trì ổn định tài chính. Cụ thể là, Bộ Tài chính Mỹ quyết định bảo lãnh toàn bộ tiền gửi của khách hàng tại hai ngân hàng này. Ngoài ra, Fed đã triển khai Chương trình Tài trợ ngân hàng có kì hạn (BTFP) để các ngân hàng có thể tiếp cận thanh khoản mà không phải bán rẻ chứng khoán. Với động thái can thiệp kịp thời này, các nhà tạo lập chính sách tại Mỹ khẳng định hệ thống ngân hàng Mỹ vẫn an toàn.

Bên cạnh các yếu tố chủ quan, quản lí rủi ro “nghèo nàn” của SVB cũng bắt nguồn từ những thiếu sót trong cơ chế quản lí. SVB là ngân hàng thương mại đa quốc gia do nhà nước quản lí và chịu sự giám sát trực tiếp của Fed. Tuy nhiên, ngân hàng này cũng nằm dưới sự giám sát của bang California, phân công lao động giữa hai cơ quan này được cho là chưa tối ưu. Thí dụ, SVB đã nâng sự lệ thuộc về nguồn vốn vay từ ngân hàng cho vay mua nhà liên bang (FHLB) tại San Francisco (từ 0 USD vào cuối năm 2021 lên 15 tỉ USD vào cuối năm 2022) mà không thông báo. Nghiệp vụ này được cho là cho vay cuối cùng lần hai (vô tình, hệ thống FHLB đã bán 88,7 tỉ USD tài sản nợ ngắn hạn để tăng vốn dự phòng).

Về bản chất, SVB là hình ảnh thu nhỏ về cách thức quản lí rủi ro sai lầm - tiếp nhận tiền gửi được đánh giá là rất hỗn độn từ start-ups (những start-ups này tạm gửi nguồn quỹ đầu tư mạo hiểm), sau đó sử dụng cổ phiếu của bên liên quan trong start-ups đó để vay thế chấp và đầu tư quá mức vào chứng khoán cầm cố dài hạn vào thời điểm đường cong lợi suất đảo chiều mạnh, chèn ép tỉ suất lợi nhuận ròng. Các đợt tăng lãi suất cấp tập của các NHTW để chống lạm phát đã gây tổn thương bảng cân đối tài chính (dẫn đến các khoản lỗ trên dự tính vượt quá cơ sở vốn của ngân hàng), nó cũng gây khó khăn kinh tế cho người gửi tiền tại các start-ups, vốn được cho là đã rút tiền từ lâu, trước khi nguồn tiền gửi tại SVB giảm.

Sau sự cố này, các nhà tạo lập chính sách và thị trường đã xác định nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng. Cụ thể là, đổ vỡ SVB bắt nguồn từ bốn yếu tố cơ bản: (i) Lãi suất chính sách tăng nhanh, gây tác động đảo ngược đến thu nhập của SVB và bảng cân đối kế toán; (ii) Sai lầm của SVB trong việc quản lí sai lệch kì hạn; (iii) Sai lầm của các cơ quan quản lí và giám sát trong việc phát hiện và xử lí các vấn đề xảy ra; (iv) Sai lầm bắt nguồn từ việc sửa đổi Đạo luật Dodd-Frank vào năm 2018, bắt buộc các ngân hàng trung bình phải đáp ứng yêu cầu khắt khe hơn, vốn trước đó chỉ áp dụng đối với những ngân hàng lớn. Ngoài ra phải kể đến một yếu tố nữa và cũng phổ biến tại các ngân hàng thời kì hậu đại dịch Covid-19, đó là đa phần nhân viên quản lí rủi ro đều làm việc trực tuyến từ nhà, có thể ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công việc.

Sau khủng hoảng SVB, nhiều người gửi tiền bắt đầu chuyển tiền gửi không bảo đảm từ các ngân hàng nhỏ và vừa tại Mỹ sang các ngân hàng lớn. Trong số này có First Republic Bank (FRB) - ngân hàng thương mại có trụ sở tại California - chuyên cung cấp dịch vụ cho các cá nhân có nhiều tài sản ròng. Đến cuối tháng 3/2023, người gửi tiền rút khoảng 105 tỉ USD khỏi FRB, gần bằng 50% tổng tài sản 213 tỉ USD của ngân hàng này. Lượng tiền gửi không bảo đảm chiếm khoảng 68% tỉ USD tiền gửi tại ngân hàng này, thấp hơn tỉ lệ 90% tại SVB. Giữa tháng 3/2023, Standard & Poor’s đã hạ mức tín nhiệm của FRB, dẫn đến việc thành lập nghiệp đoàn tạm thời của 11 ngân hàng lớn (bao gồm JPMorgan Chase và Bank of America) để cứu vớt ngân hàng này. Nghiệp đoàn đã nâng vốn của FRB với 30 tỉ USD tiền gửi, nhưng không chặn được đà sụt giảm giá cổ phiếu của FRB. Bản thân FRB cũng không thể tận dụng được BTFP, do gần 60% chứng khoán đầu tư của ngân hàng này là trái phiếu đô thị nên không thể đạt tiêu chuẩn thế chấp theo quy định. Cũng như SVB, ngày 28/4/2023, FRB bắt đầu bán tài sản dài hạn để cắt lỗ nhằm tăng cổ phần. Cũng trong ngày 28/4/2023, khi FDIC thông báo tiếp quản FRB, giá cổ phiếu giao dịch của FRB giảm tới 43%. Sau vài giờ giao dịch, giá cổ phiếu tiếp tục giảm sâu, FDIC đã tiếp cận một số ngân hàng khác nhau và tiến hành đấu giá FRB sau hai ngày chuẩn bị. Ngày 01/5/2023, FDIC đã tiếp quản FRB. Cùng ngày, Ngân hàng JPMorgan Chase đã thắng thầu và chi trả 10,6 tỉ USD để mua lại phần lớn tài sản của FRB.

FRB và SVB có nhiều đặc điểm giống nhau: (i) Cả hai ngân hàng có lượng tiền gửi không đảm bảo rất cao và người gửi tiền có thể rút tiền thông qua nghiệp vụ ngân hàng điện tử sau một thông báo ngắn gọn; (ii) Cả hai ngân hàng đều nắm giữ phần lớn tài sản dưới dạng trái phiếu dài hạn, nên rất dễ vấp phải rủi ro kì hạn nhưng cả hai ngân hàng đều không trích lập quỹ dự phòng rủi ro; (iii) Hai ngân hàng có nhóm khách hàng đặc biệt (tư bản mạo hiểm tại SVB và cá nhân có nhiều tài sản ròng tại FRB); (iv) Cả hai ngân hàng đối mặt với tình trạng giá cổ phiếu sụp đổ trước khi FDIC can thiệp.

Với tổng tài sản 212 tỉ USD, FRB là ngân hàng lớn thứ hai bị phá sản kể từ sự sụp đổ của ngân hàng Washington Mutual năm 2008, là ngân hàng hàng đầu thứ ba sụp đổ trong năm 2023, sau SVB và Signature Bank. Cả ba ngân hàng này đối mặt với tổn thất hạch toán theo giá thị trường về trái phiếu kho bạc và rủi ro cơ cấu về cơ sở tiền gửi. Mặc dù đa phần các chuyên gia kinh tế đều cho rằng, sự sụp đổ của ba ngân hàng này sẽ không ảnh hưởng đến khu vực tài chính, vốn được cho là vẫn bền vững sau các giải pháp củng cố hệ thống ngân hàng sau khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2007 - 2009, nhưng niềm tin của người dân đối với các ngân hàng nhỏ và vừa trong nước đã bị xói mòn và nguy cơ rút tiền gửi ồ ạt vẫn đe dọa khu vực ngân hàng.

Bên ngoài nước Mỹ, sau khi SVB phá sản, Credit Suisse (CS) - một trong số ngân hàng có tên tuổi tại Thụy Sỹ, đã bị bán cho UBS (ngân hàng lớn nhất Thụy Sỹ) nhằm tránh phá sản. Cuối năm 2022, tài sản của CS lên tới 1,5 nghìn tỉ USD với trên 50.000 nhân viên làm việc tại 150 chi nhánh tại 50 nước trên thế giới. Không như SVB và FRB, nguyên nhân đổ vỡ CS bắt nguồn từ những yếu tố hoàn toàn khác. CS từng dính nhiều bê bối và sai lầm về quản lí, dẫn đến những thua lỗ trầm trọng trước khi bán cho UBS. Năm 2020, giám đốc điều hành CS phải từ chức sau vụ bê bối gián điệp; năm 2021, CS tổn thất 1 tỉ USD do Quỹ đầu cơ Archegos sụp đổ. Năm 2022, Chủ tịch Ủy ban điều hành CS từ chức, đến cuối mùa hè, có tin đồn là ngân hàng này sắp vỡ nợ, dẫn đến làn sóng rút tiền ồ ạt với 119 tỉ USD trong quý IV/2022. Đầu năm 2023, CS lên kế hoạch vay vốn để hỗ trợ thanh khoản và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi ngân hàng hỗ trợ chủ chốt - Ngân hàng Quốc gia Ả rập không thể bơm vốn cho vay, cơ quan quản lí quốc gia cho phép UBS tiếp quản CS mà không cần cổ đông thông qua.

Sau khi SVB sụp đổ, Fed đã tiến hành rà soát tổng thể và chỉ ra bốn hạn chế cơ bản: Một là, sai lầm của lãnh đạo SVB và cách thức quản lí rủi ro; Hai là, cơ quan giám sát của Fed không đánh giá đầy đủ mức độ nghiêm trọng về quản trị SVB, thanh khoản và quản lí rủi ro lãi suất; Ba là, khi xác định mức độ tổn thương, cơ quan giám sát của Fed không tiến hành các biện pháp đủ mạnh để cải thiện tình hình tại SVB; Bốn là, trong vài năm vừa qua, Fed đã thay đổi chính sách quản lí và giám sát nhằm đối phó với sự kết hợp giữa những thay đổi pháp lí bên ngoài và các lựa chọn chính sách nội bộ.

Báo cáo không đầy đủ của Fed là yếu tố chủ chốt gây ra sự đổ vỡ SVB và các ngân hàng địa phương sau đó, nhất là quyết định của Fed duy trì lãi suất gần bằng “0” trong thời gian dài từ năm 2009 đến năm 2022 và lặp lại chu kì tăng lãi suất cấp tập trong 12 tháng bắt đầu từ tháng 3/2022 với 9 đợt tăng lãi suất, đưa mặt bằng lãi suất chính sách từ 0-0,25% lên 4,75-5,0%. Gần đây nhất, ngày 26/7/2023, Fed tiếp tục tăng lãi suất thêm 0,25% lên 5,25% - 5,5% - mức cao nhất trong 16 năm qua.

Việc duy trì mặt bằng lãi suất thấp trong thời gian dài và các giải pháp nới lỏng định lượng đã tạo ra kì vọng là lãi suất sẽ được duy trì ở mức thấp, gây ra hai tác động cơ bản đến nền kinh tế Mỹ. Thứ nhất, trong môi trường lãi suất thấp, tiền gửi không kì hạn tăng mạnh, nhưng các ngân hàng lại sử dụng để mua chứng khoán dài hạn với lợi suất cao nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Thứ hai, với mặt bằng lãi suất thấp trong thời gian dài, các ngân hàng và thị trường tin rằng, lãi suất tăng nhanh trong năm qua chỉ mang tính tạm thời, như trong giai đoạn 2016 - 2019. Trong khi đó, tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần rút ngắn thời gian rút tiền gửi, nghĩa là làn sóng rút tiền ồ ạt sẽ diễn ra nhanh hơn so với trong thập kỉ trước.

Tác động của khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ

Ngay sau khi SVB sụp đổ, các ngân hàng tại Mỹ bắt đầu thắt chặt tín dụng. Kế hoạch xử lí SVB đã gây tốn kém cho một số ngân hàng khác tại Mỹ, những ngân hàng này sẽ thanh toán hóa đơn để lấp lỗ hổng tiền gửi (mặc dù chi phí FDIC cao hơn); hoảng loạn tâm lí cũng gây ra một tác động gián tiếp khác trong khu vực ngân hàng, khi Fed có vẻ sẽ sẵn sàng ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ ngân hàng. Trong ngắn hạn, điều kiện tài chính trong nền kinh tế Mỹ và một số nước khác sẽ tiếp tục căng thẳng, khi các ngân hàng thắt chặt tiêu chuẩn cho vay và thận trọng trong việc duy trì vị thế thanh khoản, dẫn đến hệ quả tăng trưởng tín dụng thấp đi.

Một số chuyên gia cho rằng, Fed đang đối mặt với tình thế khó khăn giữa hai mục tiêu cốt lõi là ổn định tài chính và ổn định giá cả. Áp lực giá cả vẫn tăng cao, lạm phát lõi vẫn chưa quay đầu giảm. Mặt khác, lợi suất trái phiếu thấp và động thái hỗ trợ thanh khoản từ Fed (thông qua chương trình hỗ trợ có thời hạn cho các ngân hàng và công cụ mua lại hiện nay) có thể nới lỏng điều kiện tài chính. Điều kiện tài chính nới lỏng sẽ gây khó khăn cho Fed trong việc kéo giảm lạm phát, có thể khiến giá cả chao đảo mạnh hơn và kì vọng lạm phát tăng cao.

Trong chừng mực nào đó, khủng hoảng năng lượng và lạm phát có thể dẫn đến khủng hoảng tín dụng do các động thái thắt chặt tiền tệ đột ngột có thể tạo ra tình trạng phân bổ sai các nguồn vốn trên thị trường và gia tăng áp lực lên các ngân hàng, tăng thêm sai lệch kì hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Sự kiện SVB được nhìn nhận là chỉ báo sớm về xu hướng gia tăng cọ xát trong hệ thống tài chính. Trong trường hợp của Mỹ, biện pháp bảo vệ người gửi tiền đã củng cố niềm tin nhưng cũng dẫn đến những căng thẳng tài khóa tiềm tàng, nếu nhiều ngân hàng đối mặt với thách thức của thị trường về các khoản lỗ trên giấy bắt nguồn từ việc nắm giữ thu nhập cố định. Tuy nhiên, lo ngại về CS (một trong số đại lí sơ cấp của Fed) cho thấy, nguy cơ lan truyền rủi ro vẫn hiện hữu, thị trường vẫn căng thẳng cho đến khi có thông báo ngân hàng này sẽ được vay tới 50 tỉ CHF từ Ngân hàng Quốc gia Thụy Sỹ để đáp ứng nhu cầu cho vay và đảm bảo thanh khoản ngắn hạn. Áp lực lên CS tăng cao trong một thời gian, khi giá cổ phiếu của ngân hàng này giảm tới 80% so với đầu năm và tiếp tục giảm sâu. Vì thế, đổ vỡ CS có thể gây tác động lan truyền rất lớn.

Nỗ lực của các cơ quan quản lí Mỹ đã ngăn chặn được nguy cơ lan truyền rủi ro sang phần còn lại trên thế giới, trong bối cảnh các ngân hàng đã bền vững hơn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và những cú sốc gần đây, nhất là đại dịch Covid-19 và xung đột quân sự Nga - Ukraine.

Tại châu Âu, năng lực của các ngân hàng đã cải thiện đáng kể trong thập kỉ qua, nhờ đó đã giảm thiểu tác động lan truyền từ SVB. Nợ xấu giảm từ tỉ lệ trên 7% dư nợ cho vay xuống dưới 3%, trong khi tỉ trọng vốn cổ phần cấp 1 (CET1) tăng trên 2% (và đang tiến sát mức vốn của các ngân hàng ngang hàng tại Mỹ). Thanh khoản cũng cải thiện, với tỉ trọng thanh khoản an toàn (LCR) tăng từ 125% vào năm 2015 lên 150% vào năm 2022, vượt xa tỉ trọng bắt buộc tối thiểu 100%. Tuy nhiên, các ngân hàng chủ chốt tại Mỹ vẫn có tỉ lệ sinh lời trung bình cao hơn, với tỉ lệ lãi trên cổ phần (ROE) cao hơn 3%, hệ số giá (giá trị sổ sách P/B) cũng cao hơn. Khi mở rộng điều tra sang các ngân hàng nhỏ hơn, các ngân hàng châu Âu nhìn chung đều mạnh hơn.

Về cơ bản, các ngân hàng châu Âu đã rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng nợ quốc gia. Tuy nhiên, một số nước vẫn dễ bị tổn thương do các ngân hàng đang nắm giữ quá nhiều chứng khoán nợ trong nước trong khi các ngân hàng cần tài sản dễ chuyển đổi. Rủi ro này có thể trở thành hiện thực theo hai hướng: Khi khó khăn chuyển từ khu vực ngân hàng sang chi phí tài khóa và khi giá cả các khoản nợ quốc gia cản trở các ngân hàng trong việc nắm giữ nợ công trên bảng cân đối tài chính. Đây là vấn đề rất rõ ràng, khi việc nắm giữ nợ công được ghi chép theo giá thị trường. Mối liên hệ ngân hàng - quốc gia đặt ra những rủi ro trầm trọng đối với ổn định tài chính và mới chỉ được xử lí phần nào trong những năm gần đây.

Tại khu vực đồng Euro (Eurozone), khung khổ giám sát và xử lí ngân hàng đã cải thiện đáng kể. Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và khủng hoảng nợ quốc gia sau đó tại châu Âu đã nhấn mạnh sự cần thiết của Liên minh Ngân hàng (BU), với sự áp dụng thống nhất các quy định về ngân hàng nhằm ổn định tài chính và tăng cường tính bền vững ngân hàng.

Hoạt động của BU dựa trên hai trụ cột: Cơ chế Giám sát duy nhất (SSM - Single Supervisory Mechanism) và Cơ chế giải quyết độc lập (Single Resolution. Mechanism - SRM). Thành viên của SSM bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và các cơ quan giám sát quốc gia, về bản chất là hệ thống giám sát ngân hàng thống nhất tại châu Âu với mục tiêu là đảm bảo an toàn và bền vững hệ thống ngân hàng EU, tăng cường liên kết và ổn định tài chính. SRM bao gồm Ủy ban Xử lí độc lập (SRB), cơ quan xử lí trung tâm tại BU và các cơ quan xử lí quốc gia. Nhiệm vụ của SRM là xúc tiến ổn định tài chính, cung cấp các công cụ xử lí những ngân hàng yếu kém một cách trật tự (không gây tác động đáng kể đến tình hình kinh tế và nền tài chính công) và bảo vệ người nộp thuế liên quan đến sự tham gia của các nước EU vào việc cứu vớt ngân hàng khi có sự cố xảy ra. Tuy nhiên, trụ cột thứ ba của BU là Kế hoạch Bảo hiểm tiền gửi (EDIS), có thể sẽ đưa ra mức độ bảo hiểm tiền gửi đồng đều hơn so với các sơ đồ bảo lãnh tiền gửi quốc gia hiện nay, nhưng kế hoạch này chưa hoàn tất.

Quỹ xử lí độc lập (SRF) là cơ chế đầu tiên và cao nhất về “dập lửa” - nó trực thuộc SRM và là nguồn quỹ khẩn cấp, được sử dụng sau khi khai thác hết những lựa chọn khác. Thông qua SRF, ngành tài chính sẽ tự bảo đảm được ổn định hệ thống tài chính, không cần đến nguồn tiền nộp thuế của người dân. Hằng năm, các ngân hàng có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ này theo quy định pháp lí; năm 2022, SRF có 66 tỉ EUR. Đến cuối năm 2023, SRF cần đạt tối thiểu 1% lượng tiền gửi tại các ngân hàng thuộc BU.

Cải cách Cơ chế Ổn định châu Âu (ESM) đã tạo ra công cụ ngăn ngừa chung của BU, có tác dụng hỗ trợ “dập lửa” để quản lí ngân hàng yếu. Cơ chế hoạt động là, trong trường hợp SRF cạn kiệt nguồn vốn, ESM có thể cho SRF vay để xử lí sự cố ngân hàng. ESM là nguồn lực cuối cùng và sẽ cung cấp dòng tín dụng quay vòng, với mức vốn an toàn được ấn định khoảng 68 tỉ EUR. Công cụ ngăn ngừa và SRF sẽ giúp châu Âu xử lí khó khăn trong lĩnh vực ngân hàng, kể cả tình huống xảy ra khủng hoảng hệ thống trầm trọng.

Tác động đối với Việt Nam

Về cơ bản, khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ hầu như không gây tác động lan truyền đến những khu vực khác trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Thứ nhất, các ngân hàng thương mại Việt Nam nắm giữ ít trái phiếu chính phủ hơn nhiều so với các ngân hàng Mỹ với kì hạn 3 - 5 năm, trong khi trái phiếu chính phủ Mỹ có kì hạn tới 30 năm. Vì thế, mức độ rủi ro rất thấp; Thứ hai, Việt Nam đã nhanh chóng vượt qua đại dịch Covid-19 và GDP vẫn tăng khá cao, nên, về cơ bản, hoạt động của các doanh nghiệp và ngân hàng vẫn ổn định; Thứ ba, lạm phát tại Việt Nam không cao như tại nhiều nước khác trên thế giới, nên từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tiến hành 04 đợt điều chỉnh giảm lãi suất chính sách với mức giảm 0,5 - 2%/năm. Trên thực tế, NHNN vẫn còn dư địa để giảm lãi suất nhiều hơn. Vì thế, ngay cả trong trường hợp nắm giữ nhiều trái phiếu chính phủ, các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ chỉ chịu thiệt hại ở mức thấp.

Trong giai đoạn 2010 - 2015, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua nhiều khó khăn, buộc NHNN thắt chặt các quy định về hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhờ đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã ổn định và bền vững hơn nhiều so với trước đây. Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã áp dụng Basel II với nhiều công cụ, giải pháp để đảm bảo an toàn hệ thống. Thậm chí, một số ngân hàng đã tuân thủ các quy định Basel III. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động với chuẩn mực cao hơn chính là nền tảng quan trọng để củng cố niềm tin thị trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển và an toàn hệ thống ngân hàng.

Đáng chú ý là, NHNN luôn chủ động và sẵn sàng can thiệp để ổn định thị trường, phản ứng nhanh, hiệu quả khi một tổ chức tín dụng (TCTD) nào đó có dấu hiệu nghi ngờ. Năm 2022, SCB bộc lộ khó khăn, nhưng không gây đổ vỡ lan truyền, một phần nhờ phản ứng linh hoạt và kịp thời của Chính phủ và NHNN, một phần nhờ niềm tin thị trường đã được củng cố trong một thời gian khá dài.

Một số bài học kinh nghiệm

Mặc dù khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ không lan truyền sang Việt Nam, nhưng NHNN và các cơ quan quản lí liên quan vẫn cần chủ động để phòng tránh rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD. Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu rút ra qua sự đổ vỡ ngân hàng của Mỹ là:

Một là, các chính sách của Chính phủ và bộ, ngành ban hành phải hướng đến việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Coi đây là mục tiêu và nền tảng giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Kiểm soát lạm phát ở mức hợp lí, mặt bằng lãi suất, tỉ giá phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các biện pháp kích thích phục hồi kinh tế.

Hai là, luôn tăng cường các cơ chế quản lí, giám sát hoạt động ngân hàng cũng như theo dõi và đánh giá sát tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Rà soát lại các yếu tố đảm bảo an toàn theo các tiêu chuẩn Basel để sửa đổi, bổ sung những chỉ tiêu còn thiếu hoặc chưa phù hợp, kiểm soát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định thận trọng trong hoạt động ngân hàng.

Ba là, tăng cường công tác truyền thông kịp thời về các giải pháp “giải cứu” cũng như cam kết của Chính phủ và NHNN về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền khi có ngân hàng bị sự cố, để trấn an dư luận, ngăn chặn việc rút tiền hàng loạt. Đồng thời, phải xây dựng cơ chế xử lí ngân hàng đổ vỡ để tránh làn sóng rút tiền hàng loạt.

Bốn là, giám sát tác động của tiến bộ công nghệ đến hoạt động ngân hàng, nhất là dịch vụ ngân hàng trực tuyến, làm cơ sở để đưa ra biện pháp quản lí phù hợp, góp phần ổn định hệ thống ngân hàng. Về phía các TCTD, cần tiếp tục nâng cao năng lực về vốn và các biện pháp đảm bảo an toàn, hướng tới các chuẩn mực Basel mới...

Năm là, tăng cường hơn nữa vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (có thể trao thêm các công cụ giám sát, kiểm tra) để tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể can thiệp sớm hơn.

Việc nghiên cứu kinh nghiệm trên thế giới bao gồm cả những thành công và thất bại về vấn đề đảm bảo an toàn ngân hàng là hết sức cần thiết và hữu ích cho Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế.

Nguồn tham khảo:

1. Allianz Research: US bank failures - What’s next?
2. Policy Center for the New South: Khủng hoảng ngân hàng và chính sách tiền tệ của Mỹ.


Vũ Xuân Thanh (NHNN)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.
Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Đan Mạch là một trong những quốc gia đi đầu trong việc chuyển đổi nền kinh tế từ các hoạt động dựa trên năng lượng hóa thạch sang các công nghệ năng lượng tái tạo, giao thông bền vững và các quy trình sản xuất xanh. Học hỏi từ kinh nghiệm của Đan Mạch sẽ là một nền tảng quý giá, giúp Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn về một nền kinh tế xanh, công bằng và phát triển bền vững.
Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc và chiến lược ứng phó của ngành Ngân hàng

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc và chiến lược ứng phó của ngành Ngân hàng

Viễn cảnh về làn sóng thứ hai của xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc được dự báo trong năm 2025, không chỉ là một sự kiện kinh tế đơn lẻ mà là một yếu tố cấu trúc định hình lại bối cảnh hoạt động của ngân hàng toàn cầu. Bài viết xác định và phân tích sâu các cơ chế truyền dẫn quan trọng, bao gồm biến động thị trường tài chính, gián đoạn chuỗi cung ứng, sự chuyển hướng dòng chảy thương mại, biến động tiền tệ và rủi ro ngành cụ thể. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự thành công của ngành Ngân hàng trong việc duy trì sự ổn định và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh xung đột thương mại leo thang phụ thuộc vào khả năng kết hợp hài hòa giữa các biện pháp ứng phó ngắn hạn và điều chỉnh chiến lược dài hạn.
Phát triển kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, mô hình kinh tế truyền thống “tuyến tính” - khai thác, sản xuất, tiêu thụ và loại bỏ đang bộc lộ nhiều hạn chế. Các thách thức như khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học đòi hỏi các quốc gia phải chuyển đổi sang một mô hình kinh tế bền vững hơn. Kinh tế tuần hoàn nổi lên như một giải pháp khả thi với mục tiêu tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, giảm thiểu chất thải và tái tạo các hệ sinh thái tự nhiên.
Xem thêm
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc