Khi Việt Nam được công nhận là nền kinh tế thị trường

Nghiên cứu - Trao đổi
Việc Việt Nam được xem xét công nhận quy chế kinh tế thị trường góp phần cải thiện hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, giúp tháo gỡ nhiều trở ngại và rào cản, tạo sự bình đẳng và giảm thiểu các biện pháp phòng vệ thương mại của các nước khác đối với Việt Nam trong các mối quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư.
aa

Được sự đồng ý của Tổng thống Costa Rica Rodrigo Chaves, Bộ trưởng Ngoại thương Costa Rica Manuel Tovar đã trực tiếp thông báo và trao Công hàm về việc Costa Rica công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường tại trụ sở Bộ Công Thương vào ngày 05/8/2024. Costa Rica - thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và là thành viên của 38 quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã trở thành quốc gia thứ 73 công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam; trong số đó, có những nền kinh tế lớn đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường như Trung Quốc (2004); Nga và các thành viên ASEAN (2007); Úc, New Zealand (2008); Ấn Độ, Hàn Quốc (2009); Nhật Bản (2011); các thành viên của Hiệp hội Thương mại tự do châu Âu EFTA như Na Uy, Thụy Sỹ (2012); Canada (2016) và Vương quốc Anh (2023)… Đây là một động thái tích cực trong bối cảnh Việt Nam đang đề nghị một số đối tác thương mại công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam và việc ngày 02/8/2024, Hoa Kỳ thông báo chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam.



Việt Nam luôn nằm trong nhóm những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới
(Nguồn ảnh: Internet)


Việc Costa Rica công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường phản ánh đúng thực tế về những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong quá trình phát triển đất nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế, thương mại song phương giữa hai quốc gia.

Việc Việt Nam được xem xét công nhận quy chế kinh tế thị trường góp phần cải thiện hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, giúp tháo gỡ nhiều trở ngại và rào cản, tạo sự bình đẳng và giảm thiểu các biện pháp phòng vệ thương mại của các nước khác đối với Việt Nam trong các mối quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư.

Mỗi quốc gia khác nhau cũng không giống nhau về tiêu chí công nhận một quốc gia khác có nền kinh tế thị trường; trong số đó, Hoa Kỳ và Liên minh châu ÂU (EU) khắt khe hơn cả trong việc này.

Theo đó, 6 tiêu chí quy định tại Mục 771(18)(b) của Đạo luật Thuế quan 1930 để một quốc gia được Hoa Kỳ xem là kinh tế thị trường: (i) Mức độ chuyển đổi của đồng tiền; (ii) Vấn đề đàm phán tiền lương, tiền công giữa người lao động và người sử dụng lao động; (iii) Mức độ đầu tư nước ngoài vào các hoạt động kinh tế; (iv) Vấn đề sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân; (v) Mức độ kiểm soát của Chính phủ với một số nguồn lực và giá cả; (vi) Các yếu tố khác.

EU cũng có 5 tiêu chí khá gần với Mỹ về xét công nhận một quốc gia đối tác có nền kinh tế thị trường, như: (i) Mức độ ảnh hưởng của chính phủ trong phân bổ các nguồn lực và quyết định của doanh nghiệp (Việt Nam đã thực hiện được, theo đánh giá của EU năm 2015); (ii) Không có sự can thiệp của nhà nước làm biến dạng hoạt động hằng ngày của doanh nghiệp; quản trị doanh nghiệp, kế toán và kiểm toán; (iii) Sự tồn tại và thực thi một số chế độ pháp lý, tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ, phá sản và cạnh tranh cũng như các hệ thống tư pháp; (iv) Lĩnh vực tài chính (tự do hóa tiền tệ)…

Theo nhiều ý kiến của các tổ chức và chuyên gia trên thế giới, nền kinh tế Việt Nam trên thực tế đã hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí của quy chế kinh tế thị trường theo quy định pháp luật của cả Mỹ và EU, thậm chí còn ở mức cao hơn so với nhiều nền kinh tế đã được Mỹ công nhận quy chế kinh tế thị trường trong thập kỷ qua.

Việt Nam đã và đang tiếp tục nỗ lực khẳng định, xây dựng và phát triển hiện thực hóa các thể chế kinh tế thị trường cả trong các văn kiện và quy định pháp lý nền tảng của Đảng, Nhà nước, cũng như trong hoạt động chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành trên thực tế trong các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Môi trường đầu tư ngày càng tự do hóa, tuân thủ những quy luật, nguyên tắc và thông lệ chính, kinh nghiệm tốt về kinh tế thị trường trên thế giới. Hệ thống pháp luật đang hướng nhanh đến sự hoàn thiện, ổn định, tiếp cận và tương thích với hệ thống luật pháp quốc tế, các điều ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã và sẽ tham gia. Nền kinh tế ngày càng vận hành thông suốt theo các yêu cầu phát triển bền vững; cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không dừng ở yêu cầu kết hợp hài hòa bàn tay Nhà nước với bàn tay thị trường như cách hiểu phổ biến lâu nay trên thế giới, mà phải là giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội; trong đó, Nhà nước đóng vai trò bảo đảm, còn thị trường và xã hội thực hiện đúng chức năng của mình. Nhà nước không làm thay, mà sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực để định hướng và điều tiết nền kinh tế theo mục tiêu xã hội, không làm méo mó thị trường, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Các vấn đề xã hội không phải đi sau kinh tế, mà giải quyết tốt các vấn đề xã hội cũng chính là tạo điều kiện, động lực cho tăng trưởng kinh tế… Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Các doanh nghiệp đều hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế, trong nước hay nước ngoài; tỷ giá tiền tệ được điều chỉnh linh hoạt hằng ngày gắn chặt với biến động thực tế trên thị trường trong nước và quốc tế…

Đến nay, Việt Nam đang có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước, vùng lãnh thổ; tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực; đã ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương với hơn 60 quốc gia, đối tác thương mại quốc tế, trong đó có Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)... tạo sân chơi thương mại tự do với cộng đồng các quốc gia chiếm trên 50% tổng thương mại và GDP toàn cầu.

Trong bài viết đăng tải trên trang geopoliticalmonitor.com ngày 11/3/2024, nhà nghiên cứu James Borton tại Viện Chính sách Đối ngoại Johns Hopkins (Mỹ) đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc thúc đẩy môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng cho các nhà đầu tư quốc tế. Tác giả dẫn báo cáo kinh doanh năm 2020 của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, cơ quan này đã xếp Việt Nam ở vị trí thứ 70 trên 190 nền kinh tế đáng khen, phản ánh cam kết của Việt Nam trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.

Hãng tin US News and World Report (Hoa Kỳ) xếp Việt Nam đứng thứ 7 trong số 78 quốc gia nên khởi nghiệp kinh doanh vào năm 2021, tăng 5 bậc so với năm 2020.

Đặc biệt, từ năm 2021, lần đầu tiên Việt Nam được các xếp vào nhóm các nền kinh tế có mức tự do trung bình và là nước đáng tin cậy về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể: Việt Nam là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới theo bảng xếp hạng về Chỉ số tự do kinh tế năm 2021 của Heritage Foundation (Mỹ). Đây cũng là năm đầu tiên kinh tế Việt Nam bước vào nhóm các nền kinh tế có "tự do trung bình".

Cũng trong năm 2021, Việt Nam được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) - cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc, xếp thứ 44, nằm trong khoảng tin cậy (từ khoảng 42 đến 47) của thứ hạng này.

Xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam trong Báo cáo môi trường kinh doanh toàn cầu tháng 5/2023 được công bố bởi Economist Intelligence Unit (EIU) tăng 12 bậc. Việt Nam là một trong 3 quốc gia châu Á, cùng với Thái Lan và Ấn Độ tiến bộ nhất trong hoạt động kinh doanh. Năm 2023, chỉ số phát triển con người của Việt Nam tăng 8 bậc, xếp thứ 107/193. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143.

Nhờ chuyển đổi mạnh mẽ theo cơ chế thị trường, trong suốt gần 40 năm qua, Việt Nam luôn nằm trong nhóm những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới, với mức tăng trưởng trung bình gần 7% mỗi năm. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỉ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và đặt mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản hàng đầu thế giới. Công nghiệp và dịch vụ phát triển khá nhanh, liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 88% GDP. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng mạnh, năm 2023 đạt gần 683 tỉ USD, trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 355,5 tỉ USD, xuất siêu đạt mức kỷ lục 28 tỉ USD. Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu, đứng trong top 20 nền kinh tế thành công nhất trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2023.

Theo Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vào tháng 4/2024, Việt Nam là đại diện Đông Nam Á duy nhất lọt vào top 10 với dự báo tăng trưởng 6,4% từ năm 2024 đến năm 2029 và sẽ trải qua một giai đoạn tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đặt đất nước vào hàng ngũ các nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới.

Báo cáo Cập nhật kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương, tiêu đề "Nền tảng vững chắc cho tăng trưởng" của WB công bố sáng 01/4/2024, Việt Nam được giữ nguyên dự báo mà WB đã công bố đầu năm là sẽ tăng trưởng 5,5% GDP trong năm 2024 và tiếp tục nằm trong nhóm đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn, nằm trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao với tiềm năng tăng trưởng khoảng 8%.

Theo báo cáo công bố trong quý I/2024 với tựa đề "Promoting Innovative Entrepreneurship in Viet Nam" của WB, Việt Nam được đánh giá là ngôi sao kinh tế toàn cầu, với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người hằng năm là 5,3% trong 30 năm qua (năm 1990 - 2021), nhanh hơn bất cứ nền kinh tế nào trong khu vực, ngoại trừ Trung Quốc. Thành tích này có được nhờ Việt Nam có 3 yếu tố là tích lũy vốn nhanh, nguồn cung lao động dồi dào và tăng trưởng năng suất cao.

Năng suất lao động của người Việt cũng ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng trong giai đoạn 2010 - 2020, đạt 64%, cao hơn so với nhiều nước trong khu vực, chủ yếu nhờ sự cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và dòng vốn FDI lớn.

Trong WTO, khi Việt Nam được các nước thành viên công nhận kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc Việt Nam có tư cách pháp nhân đầy đủ và là thành viên bình đẳng về quyền lợi, trách nhiệm với các thành viên khác trong khuôn khổ quy chế hoạt động của WTO. Trong các quan hệ song phương, lợi ích lớn nhất khi Việt Nam được công nhận kinh tế thị trường là cộng đồng doanh nghiệp hai nước sẽ chính thức được tự do và thuận lợi hơn trong thâm nhập thị trường hai nước và tìm kiếm các cơ hội đầu tư phù hợp, giảm thiểu xung đột lợi ích và tranh chấp thương mại giữa hai bên.

Việc được công nhận quy chế thị trường sẽ giúp Việt Nam gia tăng thương mại và đầu tư với đối tác công nhận Việt Nam là kinh tế thị trường. Đổi lại, lợi ích mà các công ty quốc gia đối tác có được là các cơ hội tiếp cận thị trường và xuất khẩu, đặc biệt trong lĩnh vực bên đối tác có lợi thế và thúc đẩy chuỗi cung ứng phù hợp với lợi ích của mỗi bên.

Hơn nữa, các doanh nghiệp FDI của nước đối tác tại Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi trong việc được đối xử công bằng khi xuất khẩu trở lại nước đó, làm tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, từ đó người dân nước này có thêm nhiều lựa chọn tốt hơn, phù hợp hơn, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Đồng thời, các doanh nghiệp của nước này có thêm cơ hội tiếp cận thị trường và xuất khẩu sang Việt Nam, góp phần thúc đẩy chuỗi cung ứng phù hợp với lợi ích của mình, nhất là khi Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm sản xuất của thế giới, đặc biệt là cơ hội phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.

Khi bị coi là nền kinh tế phi thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam bị nhiều bất lợi do đã và đang đối diện một loạt vụ kiện phòng vệ thương mại với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường nước chưa công nhận Việt Nam là kinh tế thị trường, nhất là điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá (theo đó cáo buộc giá xuất khẩu sang thị trường họ thấp hơn giá bán tại Việt Nam). Ví dụ, khi xác định giá trị thông thường để tính biên độ phá giá, Hoa Kỳ sẽ sử dụng giá trị của một nước thứ ba được coi là có nền kinh tế thị trường (nước thay thế) để tính toán chi phí sản xuất của các doanh nghiệp tại Việt Nam thay vì sử dụng dữ liệu do các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp. Điều này khiến biên độ phá giá bị đẩy lên rất cao và không phản ánh thực trạng sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường cho phép Hoa Kỳ áp dụng thuế suất toàn quốc - là mức thuế dành cho các doanh nghiệp không hợp tác hoặc không chứng minh được họ không chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Thuế suất toàn quốc thường được Hoa Kỳ tính toán dựa trên dữ liệu sẵn có nên thường bị đẩy lên rất cao và được duy trì trong tất cả các đợt rà soát, gây cản trở cho việc xem xét dỡ bỏ lệnh áp thuế. Do đó, nếu được Hoa Kỳ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sẽ gỡ bỏ được các áp lực và tác động tiêu cực về điều tra chống bán phá giá nêu trên.

Những việc tiếp theo tới đây, Việt Nam cần đẩy nhanh hơn quá trình các nước còn lại của WTO công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường để trở thành thành viên đầy đủ của WTO; đồng thời, Chính phủ cần có thêm các hoạt động thúc đẩy tất cả 27 nước thành viên EU sớm thông qua Hiệp định bảo hộ đầu tư đã ký giữa Việt Nam với các nước EU.

Bên cạnh đó, Chính phủ sớm thông tin và thúc đẩy tuyên truyền trong nước và quốc tế về các nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam khi trở thành thành viên đầy đủ của WTO, cũng như khi Việt Nam được công nhận quy chế kinh tế thị trường.


TS. Nguyễn Minh Phong






https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bài viết nhấn mạnh vai trò then chốt của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bảo vệ chính trị nội bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trong giai đoạn tinh gọn bộ máy. Với thông điệp “tinh gọn bộ máy nhưng không tinh giảm bản lĩnh chính trị”, Agribank từng bước nâng cao hiệu quả quản trị và giữ vững niềm tin với Nhân dân.
Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí trong bộ máy Nhà nước, coi đó là “giặc nội xâm” nguy hại không kém giặc ngoại xâm và các hủ tục lạc hậu. Qua nhiều bài nói, bài viết, Người phân tích tác hại và đề xuất biện pháp đấu tranh với tệ nạn này. Bài viết “Không để một khe hở” là một minh chứng cụ thể, vẫn còn nguyên giá trị trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của đất nước, Đảng ủy Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) xác định siết chặt kỷ cương là yếu tố then chốt và đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng với thách thức kinh tế hiện nay.
Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ để thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050 và đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững, ESG đã và đang trở thành một yêu cầu tất yếu đối với hệ thống tài chính nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng...
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân là kim chỉ nam giúp chúng ta xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, không chỉ hội nhập thành công với thế giới mà còn giữ vững được bản sắc dân tộc, bảo đảm sự ổn định và phát triển lâu dài cho đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Những năm gần đây, nhiều tập đoàn đã bắt đầu chú trọng vào các vấn đề đảm bảo tính bền vững trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chuỗi cung ứng và các quyết định đầu tư của mình. Tại các buổi thảo luận của Liên hợp quốc, các quốc gia trong nhóm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và G20 đã thể hiện sự đồng thuận mang tính quốc tế cao rằng, để tăng cường tính ổn định tài chính và phát triển kinh tế dài hạn, cần nhanh chóng cải thiện các hoạt động về quản trị trách nhiệm với môi trường và xã hội (Environmental and Social Governance - E&S) tại các doanh nghiệp. Một trong những hoạt động mà Liên hợp quốc hướng tới là khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện Báo cáo phát triển bền vững.
Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô