Đầu tư công Việt Nam năm 2022 và gợi ý một số giải pháp cho thời gian tới

Nghiên cứu - Trao đổi
Năm 2022, Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng kinh tế khả quan, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát có hiệu quả lạm phát nhờ sự phục hồi chi tiêu của người tiêu dùng, xuất khẩu tăng mạnh và hoạt động du lịch quốc tế dần trở lại. Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công chỉ đạt 60% tổng số vốn tính đến tháng 11/2022.
aa

Năm 2022, Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng kinh tế khả quan, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát có hiệu quả lạm phát nhờ sự phục hồi chi tiêu của người tiêu dùng, xuất khẩu tăng mạnh và hoạt động du lịch quốc tế dần trở lại. Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công chỉ đạt 60% tổng số vốn tính đến tháng 11/2022. Thúc đẩy tiến độ đầu tư công cùng với nâng cao chất lượng đầu tư công cần phải được xem là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.

1. Thực trạng đầu tư công ở Việt Nam năm 2022

Về mặt tích cực

Năm 2022, kế hoạch Chính phủ đặt ra là đạt mục tiêu giải ngân vốn đầu tư công trên 95%, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công phải đi đôi với bảo đảm chất lượng công trình và hiệu quả sử dụng vốn. Cố gắng quyết tâm cao nhất để hoàn thành các mục tiêu giải ngân vốn đầu tư công đã đề ra; khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; phát huy dân chủ, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, thực hiện đồng bộ các giải pháp phù hợp tình hình thực tế và yêu cầu công việc.

Điểm tích cực được ghi nhận là nhiều dự án đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại đã được triển khai quyết liệt. Một số dự án hạ tầng cơ sở quan trọng đã được đưa vào sử dụng như đường cao tốc Bắc - Nam đoạn Cao Bồ - Mai Sơn; La Sơn - Túy Loan; Vân Đồn - Móng Cái, Trung Lương - Mỹ Thuận, cầu Thủ Thiêm 2. Hàng loạt dự án quy mô lớn khác cũng đang được đốc thúc triển khai, từ sân bay Long Thành đến nhà ga T3 Tân Sơn Nhất và các tuyến đường vành đai, các dự án thành phần trên cao tốc Bắc - Nam.

Đầu tư công được đánh giá là nhóm ngành “dẫn đường” thị trường, là động lực quan trọng cho tăng trưởng. Đặc biệt, đầu tư công là cánh tay trợ lực cho ngành xây dựng hạ tầng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng bất định, khiến nhiều động lực tăng trưởng suy giảm.

Về mặt hạn chế

Năm 2022, tổng số vốn đầu tư công cần được giải ngân rất lớn với 542 nghìn tỷ đồng, nhiều hơn khoảng 110 nghìn tỷ đồng so với năm 2021. Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công tính đến tháng 11/2022 chỉ đạt 52,43% kế hoạch. Nếu so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, tỷ lệ giải ngân đạt 58,33%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 (63,86%). Tỷ lệ giải ngân thấp làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, gây lãng phí nguồn lực, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, tác động tiêu cực đến việc triển khai các chính sách tài khóa tiền tệ, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế đang chịu tác động của đại dịch Covid-19.

Theo Bộ Tài chính, có 16 bộ và 29 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt trên 60%, 27 bộ và 18 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới 50%. Tỷ lệ giải ngân ở một số địa phương thấp là do có những dự án khởi công mới thực hiện đấu thầu quý III/2022 với các gói thầu có giá trị lớn; một số dự án có thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi nhưng thiết kế cơ sở và tổng mức đầu tư dự án của các cơ quan quản lý nhà nước bị kéo dài do một số hạng mục công việc không thống nhất ý kiến giữa các đơn vị thẩm định. Trong khi có những dự án đặc thù cung cấp thiết bị khoa học là thiết bị cần được đặt hàng, chế tạo tại nước ngoài nên thời điểm bàn giao thiết bị tập trung vào cuối năm. Phần lớn khối lượng thực hiện và giải ngân của các dự án dồn vào thời điểm cuối năm (tháng 12/2022).

Năm 2022, 02 dự án của ngành Y tế là Bệnh viện Bạch Mai cơ sở 2 và Bệnh viện Việt Đức cơ sở 2 đều đang vướng mắc về hợp đồng đơn giá gốc, để điều chỉnh hợp đồng dẫn đến không có cơ sở thanh toán cho nhà thầu. Dự án phải dừng thi công nhiều năm, số vốn ngân sách nhà nước bố trí cho dự án từ các năm 2017 - 2018 phải kéo dài sang năm 2022, song vẫn chưa hoàn thiện. Những dự án đầu tư thực hiện ở nước ngoài chưa được giải ngân do hợp đồng xây dựng không áp dụng tạm ứng hợp đồng mà thanh toán theo đợt, giải ngân tại thời điểm cuối năm. Một số dự án tại nước ngoài bị chậm do quy định đấu thầu của Việt Nam và nước ngoài có nhiều điểm khác biệt, nên đơn vị tư vấn nước ngoài cần nhiều thời gian để cung cấp hồ sơ theo đúng quy định về hồ sơ, nội dung khảo sát, thẩm tra theo yêu cầu.

Tắc nghẽn đầu tư công tác động tiêu cực đến thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Khối lượng và giải ngân nguồn vốn chuyển tiếp chậm. Một số công trình có vốn giải ngân thấp (30 - 40%). Có dự án thuộc vốn ODA giải ngân đạt rất thấp. Thậm chí, có những dự án, công trình chưa được khởi công. Tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA chậm do công tác chuẩn bị đầu tư chưa kỹ, xây dựng kế hoạch chưa sát với thực tế nên phải điều chỉnh chủ trương, thủ tục đầu tư nhiều lần dẫn đến thời gian kéo dài, buộc phải trả lại nguồn vốn ODA. Vì vậy, kết quả sử dụng nguồn vốn vay ODA chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.

Tuy nhiên, trên thực tế giải ngân vốn đầu tư công cũng đã có nhiều cải thiện. Mức đạt kế hoạch thấp hơn là do vốn kế hoạch năm 2022 cao hơn so với vốn kế hoạch năm 2021. (Bảng 1)

Bảng 1: Giải ngân vốn đầu tư công năm 2022

Nguồn: Bộ Tài chính; giải ngân vốn đầu tư công của cả nước vẫn đạt tỷ lệ thấp/Thời báo Tài chính Việt Nam (thoibaotaichinhvietnam.vn)

2. Nguyên nhân giải ngân đầu tư công thấp

Có nhiều nguyên nhân khiến giải ngân vốn đầu tư công không đạt được như kỳ vọng, bao gồm những nguyên nhân tồn tại lâu nay chưa được khắc phục triệt để và cả nguyên nhân mới phát sinh trong cơ chế điều hành và thực hiện như khan hiếm nguyên nhiên vật liệu, giá cả tăng phi mã, nguồn lao động bị thiếu hụt sau dịch. Có thể tổng hợp thành 03 nhóm nguyên nhân chính sau khiến giải ngân vốn đầu tư công thấp.

Thứ nhất, nhóm liên quan đến thể chế, chính sách trong các lĩnh vực đất đai, tài nguyên, môi trường, ngân sách nhà nước, xây dựng, đấu thầu đầu tư công. Những vướng mắc liên quan đến chính sách đất đai, tài nguyên môi trường, xây dựng, đấu thầu vẫn tồn tại dai dẳng; những khó khăn xuất phát từ việc lập kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước chưa sát với khả năng thực hiện dẫn đến không phân bổ được hết kế hoạch giao, tình trạng “vốn chờ dự án đủ thủ tục”, dự kiến vốn trước rồi mới tiến hành làm thủ tục đầu tư. Lý giải các dự án đều chậm tiến độ triển khai do ảnh hưởng của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Một số dự án có nguy cơ đội vốn. Nguồn vốn dự tính dành cho các dự án được bố trí cho những dự án cấp bách khác.

Sự chậm trễ trong giải ngân đầu tư công còn gắn với những khó khăn, vướng mắc về văn bản quy phạm pháp luật. Tình trạng chậm trễ trong giải phóng mặt bằng vẫn diễn ra; việc chuẩn bị triển khai dự án cũng như năng lực nhà thầu còn hạn chế; một số quy định pháp lý chưa hoàn thiện. Công tác giải phóng mặt bằng chậm do chậm giải quyết khiếu nại, chậm bàn giao mặt bằng, chậm cưỡng chế dẫn đến chậm giải ngân phần vốn bồi thường giải phóng mặt bằng và vốn xây lắp công trình. Việc điều chỉnh các dự án đang triển khai cũng mất nhiều thời gian do nhiều thủ tục, đặc biệt đối với dự án ODA. Các dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp do quy mô dự án lớn, diện tích thu hồi đất lớn, ảnh hưởng đến nhiều hộ dân. Vướng mắc liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng gây khó khăn và chưa thể giải quyết ngay. Các phát sinh chủ yếu là giá đền bù đất, tranh chấp khi bàn giao, khiếu kiện, nhiều vướng mắc như đơn giá, phương án đền bù, khó khăn trong di dời các công trình tiện ích, xác định nguồn gốc đất… đang là tồn tại lớn ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công.

Tình trạng số dư tạm ứng kéo dài chưa thu hồi và tình trạng tồn đọng dự án hoàn thành chưa quyết toán vẫn còn lớn. Ngoài ra, giá nguyên vật liệu, cước phí vận tải tăng cao, nhân lực thiếu cục bộ đã ảnh hưởng đến tiến độ, khối lượng thi công các dự án.

Giải ngân vốn đầu tư công chậm còn là do vướng mắc trong pháp luật về đầu tư công. Dự án đầu tư công khi được triển khai thực hiện phải chấp hành không chỉ quy định của Luật Đầu tư công, mà tùy thuộc tính chất dự án, còn phải chịu sự điều chỉnh của các luật liên quan khác như Luật Quy hoạch, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Khoáng sản... Thậm chí, còn cả các điều ước, cam kết quốc tế. Việt Nam chưa đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công với mức chất lượng tiếp cận được các nước ASEAN-4.

Thứ hai, nhóm khó khăn liên quan đến tổ chức triển khai, thực hiện. Nguyên nhân sâu xa nhất là chưa có sự chỉ đạo quyết liệt, bởi cùng một cơ chế, chính sách, song tỷ lệ giải ngân tại các bộ, ngành địa phương không như nhau, nơi cao, nơi thấp do sự vào cuộc của chính quyền các địa phương chưa đồng đều. Nơi có sự quan tâm sâu sát của lãnh đạo thì có kết quả giải ngân vốn đầu tư công tốt và ngược lại. Đây được xem là nguyên nhân liên quan đến công tác tổ chức triển khai thực hiện còn nhiều bất cập; các cấp, các ngành chưa thực sự vào cuộc. Công tác lập kế hoạch vốn chưa sát với thực tế và gần với khả năng giải ngân; khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng chưa được giải quyết dứt điểm. Trọng tâm là khó khăn trong việc xác định nguồn gốc đất, xác định giá đất, quỹ nhà tái định cư. Sự phối hợp giữa các cơ quan thiếu chặt chẽ; công tác kiểm tra, đôn đốc thiếu quyết liệt; việc xử lý các trường hợp vi phạm chậm trễ, chưa kịp thời, nghiêm minh.

Công tác tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế. Công tác chuẩn bị dự án sơ sài, việc lập kế hoạch vốn chưa sát với thực tế; công tác thẩm định, tư vấn chậm. Sự lãnh đạo chỉ đạo tổ chức thực hiện ở một số bộ, ngành, địa phương chưa sâu sát, thiếu quyết tâm chính trị. Vai trò người đứng đầu chưa được phát huy; sự phối hợp giữa các bộ, ngành, Trung ương và địa phương trong việc xử lý vướng mắc đầu tư công chưa hiệu quả, chất lượng lập kế hoạch và công tác chuẩn bị dự án đầu tư công còn nhiều bất cập, mang tính hình thức, dẫn đến việc nhiều dự án được giao kế hoạch, nhưng chưa thể triển khai...

Công tác chuẩn bị đầu tư làm chưa tốt nên thủ tục phê duyệt, chỉnh sửa tốn nhiều thời gian dẫn đến quy trình thẩm định, phê duyệt rất lâu và dẫn đến chậm trễ. Giải phóng mặt bằng chậm dẫn đến công tác giải ngân chậm. Việc triển khai nhiều dự án trọng điểm, quy mô lớn, với tiến độ yêu cầu nhanh cần đất san lấp, vật liệu xây dựng rất lớn, nhưng nguồn cung không thể đáp ứng. Nguyên nhân là, Luật Khoáng sản năm 2010 quy định tài nguyên đất, đất đồi, đất san lấp là “khoáng sản”, trong khi trình tự, thủ tục liên quan đến việc cấp lại giấy phép khai thác khoáng sản theo quy định hiện hành còn rườm rà, tốn nhiều thời gian của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức, cá nhân đang sở hữu giấy phép. Các vướng mắc dẫn đến thiếu hụt nguồn cung đất san lấp, ảnh hưởng đến tiến độ thi công, giải ngân vốn của dự án không đạt quy định. Việc các dự án có chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa chỉ từ 1 m2 vẫn phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Điều này trên thực tế là không cần thiết, lại thêm thủ tục cho các dự án, nhất là với dự án giao thông nông thôn, ảnh hưởng thời gian thực hiện dự án.

Phân bổ vốn dàn trải, thiếu tập trung, lập kế hoạch vốn chưa sát với thực tế; thủ tục đầu tư, thanh quyết toán vốn đầu tư dự án bất cập; một số ban quản lý dự án, chủ đầu tư, nhà thầu yếu kém về năng lực; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm, công tác thanh tra, kiểm tra hạn chế. Việc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật chậm, chưa đồng bộ, thiếu khả thi, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Thứ ba, nhóm khó khăn liên quan đến những đặc thù của năm 2022. Những nguyên nhân đặc thù của năm 2022 liên quan đến giá nguyên vật liệu tăng cao khiến nhà thầu thi công cầm chừng chờ đợi điều chỉnh đơn giá. Giá các loại vật liệu xây dựng, đặc biệt là giá xăng dầu, sắt, thép, đất, cát... tăng mạnh. Xung đột Nga - Ukraine là nguyên nhân làm tăng giá trên thị trường một số mặt hàng nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng như khí đốt, dầu mỏ do thị phần sản xuất và xuất khẩu của Nga và Ukraine rất lớn. Giá nguyên, nhiên vật liệu tăng dẫn đến dự toán vượt so với tổng mức đầu tư được duyệt. Do đó, nhiều dự án phải thực hiện điều chỉnh theo hướng tăng tổng mức đầu tư hoặc thay đổi giải pháp thiết kế hoặc giảm quy mô đầu tư để đảm bảo nguồn lực triển khai. Năm 2022 là năm thứ hai triển khai Kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025, nhưng thực tế mới là năm thứ nhất vì Kế hoạch mới được thông qua vào giữa năm. Thời gian tập trung cho công tác chuẩn bị hồ sơ, thủ tục đầu tư ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án. Bên cạnh đó, phải tập trung vào các dự án chuyển tiếp và chuẩn bị đầu tư cho các dự án những năm tới.

Giá tăng khiến nhà thầu khó tìm được nguồn cung cấp nguyên vật liệu phù hợp hoặc ảnh hưởng đến phương án tài chính khi triển khai dự án theo hợp đồng đã ký. Giá nguyên, nhiên vật liệu xây dựng trên thị trường tăng cao, chi phí đối ứng tăng mạnh tác động trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp, nhà thầu xây dựng, ảnh hưởng lớn đến tiến độ thi công các dự án. Tăng giá nguyên vật liệu sẽ vẫn còn tiếp tục những năm tới. Sự khan hiếm nguyên vật liệu sẽ còn được đẩy lên. Tình trạng đình đốn nền kinh tế, sản xuất khi lạm phát tăng cao sẽ là vấn đề chung mà thế giới phải đối mặt. Việt Nam trong bối cảnh còn rất nhiều mặt hàng phụ thuộc nhập khẩu bên ngoài cho cả các dự án hạ tầng cơ sở lẫn sản xuất của khu vực tư doanh cũng sẽ phải ứng phó với tình hình giá cả leo thang. Các dự án, công trình thuộc kế hoạch giai đoạn 2021 - 2025 sẽ tiếp tục phải gánh chịu những khó khăn về giá cả.

3. Giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công

Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm giai đoạn 2022 - 2023 nhằm phục hồi và phát triển kinh tế, là động lực thúc đẩy GDP Việt Nam tăng mạnh. Để đạt được mục tiêu giải ngân vốn đầu tư công những năm tới cần tập trung vào hai nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là:

Nhóm thứ nhất, rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế, chính sách. Điều chỉnh quy định pháp lý, giảm thủ tục hành chính quản lý và sử dụng vốn đầu tư công. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý thủ tục đầu tư công như thẩm định dự án đầu tư có cấu phần xây dựng, triển khai kiểm soát chi vốn trong nước và đơn rút vốn của các nhà tài trợ bằng chứng từ điện tử, chữ ký số, đơn giản hóa quy trình kiểm soát chi và hồ sơ yêu cầu rút vốn; tăng cường công tác hậu kiểm trong giải ngân vốn đầu tư công. Cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình, thủ tục kiểm soát chi với nguyên tắc thanh toán trước, kiểm soát sau. Rút ngắn thời gian kiểm soát từ 7 ngày xuống còn 1 - 3 ngày làm việc, giảm thời gian rút vốn nước ngoài xuống còn 1 ngày. Tăng cường thực hiện kiểm soát chi, rút vốn và giải ngân qua hệ thống công nghệ thông tin. Khuyến khích làm việc trực tuyến để tiết kiệm thời gian, chi phí và không gây phiền hà cho các bộ, cơ quan, địa phương.

Để thực hiện và giải ngân tối đa kế hoạch vốn đầu tư công, cần tăng cường quản lý đất đai, nhất là nguồn gốc đất, quy hoạch sử dụng các loại đất, hạn chế tối đa việc điều chỉnh phương án đền bù, bảo đảm tiến độ giải phóng mặt bằng; nghiên cứu và có những giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm thực hiện, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, tác động đối với nền kinh tế. Tập trung giải quyết công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ tái định cư kịp thời, đúng quy định cho người dân, bảo đảm đúng pháp luật và hài hòa lợi ích của Nhà nước và người dân, đảm bảo nhanh tiến độ thực hiện dự án, nhất là các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm. Thực hiện cơ chế phân công, phối hợp rõ ràng, cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan, đơn vị trong việc hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án.

Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên; đẩy nhanh tiến độ thi công; tiếp tục giải quyết những vấn đề đang còn vướng mắc trong Luật Đầu tư công để đẩy nhanh phân cấp, phân quyền. Tách giải phóng mặt bằng và tái định cư thành những đề án riêng. Đảm bảo rút ngắn thời gian, tiến độ để thực hiện dự án. Thực hiện tạm ứng, nghiệm thu, thanh toán, thu hồi tạm ứng vốn đầu tư theo đúng quy định; chủ động rà soát điều chuyển vốn theo thẩm quyền giữa các dự án chậm giải ngân sang các dự án có khả năng giải ngân tốt hơn nhưng còn thiếu vốn theo quy định pháp luật.

Nhóm thứ hai, tổ chức triển khai quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Giám sát và xử lý các điểm nghẽn trong giải ngân đầu tư công. Kiểm soát chặt chẽ sự cần thiết, quy mô từng dự án theo đúng quy hoạch, mục tiêu đã được duyệt, bảo đảm hiệu quả đầu tư và kết quả đầu ra của từng dự án; nâng cao chất lượng công tác lựa chọn tư vấn trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị dự án. Thực hiện cơ chế phân công, phối hợp rõ ràng, cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan, đơn vị trong việc hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án.

Rà soát ưu tiên bố trí đủ vốn cho các dự án chuyển tiếp, sắp xếp thứ tự ưu tiên khởi công mới các dự án trong năm 2023 bảo đảm tính khả thi về thủ tục đầu tư và giải ngân. Công khai tình hình thực hiện và tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của các bộ, cơ quan, địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tăng cường theo dõi, kiểm tra, giám sát kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2021 - 2025.

Xây dựng phương án phân bổ kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023. Chủ động chuẩn bị kỹ càng và chặt chẽ các thủ tục, điều kiện cần thiết từ năm 2022 để sẵn sàng triển khai các công việc thực hiện dự án khi được giao kế hoạch vốn năm 2023, không để xảy ra tình trạng dự án được giao vốn nhưng không giải ngân được hoặc giải ngân không hết kế hoạch vốn được giao.

Khẩn trương hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án dự kiến bố trí kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 sớm; rà soát ưu tiên bố trí đủ vốn cho các dự án chuyển tiếp, sắp xếp thứ tự ưu tiên khởi công mới các dự án trong năm 2023 bảo đảm tính khả thi về thủ tục đầu tư, thực hiện và giải ngân; hoàn thành một số dự án trọng điểm, tạo động lực mới phát triển ngành, lĩnh vực và địa phương.

Để thúc đẩy tái cơ cấu đầu tư công giai đoạn 5 năm 2021 - 2025 cần giảm tối đa số lượng các dự án đầu tư mới, để tập trung cho dự án lớn, quan trọng. Đầu tư đúng trọng tâm, trọng điểm, không theo thứ tự ưu tiên; đảm bảo nguyên tắc “đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”. Để đầu tư công dẫn dắt và kích hoạt đầu tư của mọi thành phần kinh tế và huy động được mọi nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển, giải pháp quan trọng nhất để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công vẫn là tăng cường vai trò của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án. Ban quản lý dự án phải chỉ đạo triển khai quyết liệt, kiểm tra, giám sát; những khó khăn, vướng mắc cần liên hệ ngay với các bộ, ngành giải quyết kịp thời.

Tóm lại, vai trò của đầu tư công là rất quan trọng cho triển vọng tăng trưởng. Kế hoạch ngân sách và đầu tư công năm 2023 với số lượng vốn rất lớn, cao hơn năm 2022 khoảng 100 nghìn tỷ đồng. Số vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 được phép phân bổ là 2.720 nghìn tỷ đồng (cao hơn giai đoạn 2016 - 2020).

Kế hoạch đầu tư công trung hạn cho giai đoạn 5 năm 2021 - 2025 lên tới 2,87 triệu tỷ đồng và sẽ tập trung ưu tiên cho những ngành, lĩnh vực quan trọng và then chốt của nền kinh tế, trong đó các lĩnh vực kinh tế chiếm hơn 71% (khoảng 68% trong số này tập trung phát triển hạ tầng giao thông). Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông, kế hoạch phải hoàn thành 3.000 km cao tốc (2021 - 2025), trong khi 10 năm trước (2010 - 2020) nhiệm vụ chỉ hơn 1.000 km cao tốc. Do đó, áp lực giải ngân đầu tư công năm 2023 rất lớn. Vì vậy, công tác chuẩn bị cần được triển khai thực hiện sớm.


PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bài viết nhấn mạnh vai trò then chốt của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bảo vệ chính trị nội bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trong giai đoạn tinh gọn bộ máy. Với thông điệp “tinh gọn bộ máy nhưng không tinh giảm bản lĩnh chính trị”, Agribank từng bước nâng cao hiệu quả quản trị và giữ vững niềm tin với Nhân dân.
Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí trong bộ máy Nhà nước, coi đó là “giặc nội xâm” nguy hại không kém giặc ngoại xâm và các hủ tục lạc hậu. Qua nhiều bài nói, bài viết, Người phân tích tác hại và đề xuất biện pháp đấu tranh với tệ nạn này. Bài viết “Không để một khe hở” là một minh chứng cụ thể, vẫn còn nguyên giá trị trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô