Các chính sách về tài chính các-bon ở Canada và khuyến nghị đối với Việt Nam

Quốc tế
Việc chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp đòi hỏi một quốc gia phải có nguồn vốn dồi dào, cơ sở hạ tầng bền vững, công nghệ chuyển đổi liên tục và nguồn năng lượng sạch lớn. Cơ sở vốn là một yêu cầu trọng yếu mà cả tổ chức công và tổ chức tư nhân phải cùng nhau hỗ trợ để có thể đạt được mục tiêu chung về môi trường.
aa

Tóm tắt: Những quốc gia phát triển trên thế giới đang nỗ lực để thực thi các chính sách và quy định về môi trường với mục đích chuyển dịch sang nền kinh tế các-bon thấp. Sự chuyển đổi này chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như môi trường, kinh tế - xã hội, khí hậu, nguồn vốn và chính sách pháp luật. Dưới góc độ chính sách, xu hướng chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp hướng tới mục tiêu kép là giảm thiểu chi phí năng lượng và giảm khí phát thải ra môi trường. Các tổ chức tài chính công nắm giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy việc thực thi chính sách của nhà nước về môi trường. Bài viết phân tích các chính sách, công cụ tài chính xanh ở Canada, từ đó đưa ra khuyến nghị cho các chính sách tại Việt Nam.

Từ khóa: Tài chính các-bon, chính sách pháp luật, công cụ tài chính.

CARBON FINANCE POLICIES IN CANADA AND RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM

Abstract: Developed countries around the world are working hard to enforce environmental policies and regulations with the aim of transitioning to a low-carbon economy. This transformation is influenced by many factors such as environment, socio-economic, climate, capital sources and legal policies. From a policy perspective, the transition to a low-carbon economy is aimed at the dual goal of reducing energy costs and reducing emissions to the environment. Public financial institutions play an important role in promoting the implementation of government policy on the environment. This article analyzes green financial policies and instruments in Canada, thereby offering recommendations for Vietnam.

Keywords: Carbon finance, legal policy, financial instruments.

1. Đặt vấn đề

Việc chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp đòi hỏi một quốc gia phải có nguồn vốn dồi dào, cơ sở hạ tầng bền vững, công nghệ chuyển đổi liên tục và nguồn năng lượng sạch lớn. Cơ sở vốn là một yêu cầu trọng yếu mà cả tổ chức công và tổ chức tư nhân phải cùng nhau hỗ trợ để có thể đạt được mục tiêu chung về môi trường. Chính sách tài khóa thường sẽ hạn chế nguồn vốn tài trợ của chính phủ trong quá trình chuyển dịch kinh tế, đặc biệt là ở khu vực kinh tế công1. Theo số liệu của Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (United Nations Framework - Convention on Climate Change, UNFCCC) thì các nguồn vốn từ tư nhân chiếm đến 80% trong việc hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp2.



Xu hướng chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp hướng tới mục tiêu kép
là giảm thiểu chi phí năng lượng và giảm khí phát thải ra môi trường

Do đó, việc thúc đẩy quá trình cung cấp, hỗ trợ vốn từ khu vực công là cần thiết để thúc đẩy mạnh hơn nữa sự chuyển dịch kinh tế hiện tại. Không chỉ vấn đề về vốn, các chính sách công từ nhà nước và các tổ chức tài chính công có khả năng giảm thiểu rào cản đầu tư và tiếp cận thị trường của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Các tổ chức tài chính công có thể đóng vai trò như một chủ thể kích thích đầu tư, cấu thành quy mô vốn lớn thông qua các chính sách phù hợp3. Tập trung phân tích thông qua phương pháp so sánh với chính sách tại Canada, bài viết bao gồm bốn phần: (i) Giới thiệu chung về vai trò của ngân hàng trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế các-bon thấp; (ii) Những thách thức của các khoản đầu tư các-bon thấp; (iii) Các chính sách, công cụ thúc đẩy tài chính các-bon ở Canada; (iv) Một số khuyến nghị đối với Việt Nam.

2. Giới thiệu chung về vai trò của ngân hàng trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế các-bon thấp

Các cơ chế, chính sách của chính phủ có thể thúc đẩy một loạt các khoản đầu tư vào lĩnh vực các-bon thấp. Định hướng chính sách dạng này thường hướng tới: (i) Việc thay đổi quy định, bản chất của thị trường năng lượng; (ii) Việc tạo ra các thị trường để mua bán các khoản tín dụng về khí phát thải; (iii) Hỗ trợ đầu tư cổ phiếu và trái phiếu xanh; (iv) Hỗ trợ các khoản cho vay xanh4. Đây là những cơ chế tài chính quan trọng mà mỗi quốc gia cần phải hướng tới khi thúc đẩy tài chính các-bon vì chúng có tiềm năng và triển vọng thực thi cao khi vừa có thể tận dụng nguồn vốn từ tư nhân và nhà nước. Các công cụ tài chính như quỹ đầu tư, bảo lãnh tài sản, khoản vay và trái phiếu xanh là những công cụ tiêu chuẩn cho các khoản đầu tư các-bon thấp. Tuy được sử dụng phổ biến trên thế giới nhưng những công cụ tài chính này lại cần phải được kiểm soát, thay đổi, sử dụng, kiểm tra kỹ bởi các ngân hàng công để xác minh tính phù hợp với mục tiêu môi trường. Tại Canada, các công cụ tài chính xanh đã được sử dụng trong thực tiễn và đem đến nhiều bài học kinh nghiệm cho nhiều quốc gia trên thế giới bởi cả sự thất bại và thành công ở những điểm khác nhau.

Các ngân hàng công đã thể hiện vai trò của mình trong việc phát triển và phổ biến các công cụ tài chính các-bon thấp để định hình phương thức đầu tư của các doanh nghiệp vào những lĩnh vực thân thiện với môi trường và có lợi cho xã hội. Đồng thời, các ngân hàng tư nhân cũng có thể thực hiện các công cụ tài chính để hỗ trợ quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế các-bon thấp, chẳng hạn như ngân hàng cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

3. Những thách thức của các khoản đầu tư các-bon thấp

Không đủ khả năng tài chính là một rào cản lớn đối với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp ở mỗi quốc gia bởi quá trình này đòi hỏi sự phát triển kinh tế dựa trên việc sử dụng các công nghệ và nguồn năng lượng sạch5. Do đó, chi phí về cơ sở hạ tầng dành cho việc chuyển đổi là rất lớn. Khoảng cách về khả năng tài chính, quy mô công nghệ, quy mô dự án năng lượng, cơ cấu doanh nghiệp sản xuất đều là những thách thức đối với quá trình chuyển đổi kinh tế của một quốc gia theo hướng thân thiện với môi trường. Các tổ chức như ngân hàng muốn tạo ra các công cụ tài chính để thu hút các khoản đầu tư cho những dự án các-bon thấp cũng phải nghiên cứu những rào cản và cơ hội của thị trường các-bon thấp và cơ sở hạ tầng hiện tại để có những chính sách tài chính phù hợp.

Các nhà đầu tư đều dựa trên hai yếu tố là rủi ro và lợi nhuận để đưa ra quyết định. Lợi nhuận ở đây có thể là lợi ích về tài chính, xã hội hoặc môi trường. Những xu hướng thay đổi của nguồn tài chính đối với lĩnh vực các-bon thấp phản ánh xu hướng đầu tư vì nếu các nhà đầu tư ưa mạo hiểm sẽ chọn các công ty mới khởi nghiệp trong lĩnh vực này và những nhà đầu tư còn lại thì sẽ chọn các công ty đã vận hành được một thời gian6. Ở khía cạnh khác, các công ty có hoạt động phát thải cao sẽ phải chịu trách nhiệm giải trình, đánh giá rủi ro chi tiết về tính kinh tế, chính trị, pháp luật, an toàn xã hội và thị trường7. Các công ty trong lĩnh vực sản xuất ít khí phát thải, ngược lại, sẽ chịu những loại rủi ro khác, một trong những rủi ro đã được đề cập chính là chi phí tăng thêm về công nghệ sạch, cơ sở hạ tầng bền vững và sự cạnh tranh của thị trường năng lượng mới.

3.1. Những thách thức chung đối với đầu tư các-bon thấp

Những thách thức dễ thấy thường là những rào cản về thông tin chuyên môn, hành vi người tiêu dùng, công nghệ thân thiện với môi trường, chính sách ưu đãi cho tài chính các-bon, quy định pháp luật liên quan đến biến đổi khí hậu8. Có những rào cản về hành vi của người tiêu dùng và thông tin chuyên môn là vì độ tin cậy của người tiêu dùng đối với những sản phẩm mới hoặc mức độ chịu chi trả mức phí cao hơn cho sản phẩm thân thiện với môi trường vẫn còn thấp. Khoảng trống thông tin về môi trường cũng như sự lo ngại về lợi ích thực sự của sản phẩm khiến cho người dùng không thực sự tự tin mua, từ đó, dẫn đến việc đầu tư dài hạn bị kìm hãm. Rào cản về công nghệ, kỹ thuật thường là do việc nhân viên lắp ráp, vận hành thiếu kinh nghiệm bảo trì hoặc thiếu kinh nghiệm về tiêu chuẩn quốc gia và chứng nhận quốc tế để đảm bảo chất lượng của những máy móc, thiết bị. Sự thiếu kiến thức chuyên môn này là do các công nghệ thân thiện với môi trường thường mang tính mới so với những dây chuyền kỹ thuật trước đó.

Rào cản pháp lý là một trong những rào cản điển hình trong lĩnh vực các-bon thấp vì đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải ban hành những chính sách phù hợp để thu hút nguồn vốn cho lĩnh vực này. Rào cản pháp lý xảy ra khi các chính sách công tạo ưu đãi cho những dự án sử dụng nhiên liệu hóa thạch, hạt nhân; thậm chí là có sự phân biệt đối xử đáng kể đối với các dự án sử dụng nguồn năng lượng thân thiện với môi trường. Ở một số quốc gia, rào cản pháp lý còn thể hiện sự cấm đoán khi các thủ tục hành chính tạo ra những khó khăn không cần thiết trong quá trình cấp phép cho những dự án đầu tư trong lĩnh vực các-bon thấp9.

Các yếu tố ngoại cảnh như xu hướng đầu tư hoặc bối cảnh xã hội cũng có thể trở thành rào cản vì nếu một nền kinh tế chỉ chú trọng đến lợi nhuận, quan ngại quá mức đối với rủi ro thì họ sẽ chọn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất nhiều khí phát thải vì những ngành nghề này, mặc dù gây ô nhiễm môi trường nhưng lại tạo ra được lợi nhuận cao, chi phí thấp và ít rủi ro trong đầu tư hơn. Sự can thiệp của chính phủ trong những trường hợp này là cần thiết vì sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Hai phương pháp chính mà chính phủ có thể sử dụng để can thiệp là nâng cao ưu đãi và giảm trừ rủi ro cho những dự án thân thiện với môi trường10. Các ngân hàng công có thể đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi trọng tâm đầu tư của các tổ chức thông qua những chính sách riêng của chính ngân hàng nhằm hướng tới mục tiêu chung của chính phủ về môi trường.

3.2. Những thách thức cụ thể đối với đầu tư các-bon thấp

Những thách thức cụ thể hơn thường liên quan đến các yếu tố bao gồm: Giai đoạn phát triển của công nghệ, quy mô doanh nghiệp, nguồn vốn. Ý nghĩa về mục tiêu và quy mô của dự án nắm vai trò quan trọng bởi cách tiếp cận khác nhau sẽ đem đến kết quả khác nhau11. Chẳng hạn như, dự án hướng tới việc sử dụng hiệu quả năng lượng của các hộ gia đình và dự án hướng tới việc sử dụng năng lượng gió ở nhà máy điện quốc gia sẽ đem lại những hiệu quả khác biệt rõ rệt.

3.2.1. Thách thức về các giai đoạn phát triển công nghệ

Công nghệ thường phát triển qua bốn giai đoạn gồm: (1) Nghiên cứu và phát triển ban đầu; (2) Thực hiện và mở rộng quy mô; (3) Thương mại hóa; (4) Phổ biến và cải tiến12. Hiểu rõ những giai đoạn này đều quan trọng vì sẽ giúp chính phủ, nhà đầu tư xác định được các rào cản và lỗ hổng đầu tư đối với sự phát triển của các doanh nghiệp các-bon thấp ở từng giai đoạn cụ thể. Các yếu tố về quy mô, nguồn vốn và chính sách tài chính cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi những giai đoạn phát triển khác nhau của công nghệ.

Trong lĩnh vực các-bon thấp, quá trình giữa giai đoạn (2) và (3) thường gây ra sự chênh lệch tài chính lớn nhất13. Khoảng cách này thường sẽ đem đến hai trường hợp vì nếu doanh nghiệp có đủ nguồn vốn thì sẽ tiến hành giai đoạn thương mại hóa sớm, còn khi bị thâm dụng các khoản đầu tư thì nguy cơ dự án thất bại trước khi bước sang giai đoạn (3) là vô cùng lớn. Đồng thời, khoảng cách về tài chính ở những giai đoạn khác cũng có thể trở thành rào cản chung vì chi phí vốn ban đầu thường cao trong khi quy mô tổng thể của dự án lại nhỏ, sự quen thuộc và tin cậy của nhà đầu tư và người cho vay cũng ở mức thấp.

3.2.2. Thách thức về quy mô doanh nghiệp

Đa phần các doanh nghiệp trong lĩnh vực các-bon thấp thường là những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Họ thường khởi nghiệp với những hạn chế về vốn, do đó, quy mô hoạt động không được mở rộng từ giai đoạn ban đầu hoặc thậm chí là ở giai đoạn phát triển sau đó. Một số công ty phát triển những dự án chuyên biệt về môi trường và năng lượng sạch cũng phải xen kẽ việc thực hiện những dự án thuộc loại khác để đảm bảo lợi nhuận.

3.2.3. Thách thức về nguồn vốn

Nguồn vốn của mỗi dự án cần phải được phân bổ rõ ràng. Có phần vốn dùng để tài trợ cho những hoạt động phát triển công nghệ sạch, có phần vốn lại dùng để mua sắm, lắp đặt các công nghệ mà doanh nghiệp không thể tự phát triển14. Sự phân tách nguồn vốn mang ý nghĩa quan trọng vì các tổ chức khi muốn thu hút đầu tư phải phân biệt rõ việc dùng vốn sẽ tập trung vào những dòng sử dụng nào.

4. Các chính sách, công cụ thúc đẩy tài chính các-bon ở Canada

4.1. Chính sách của các tổ chức tài chính công ở Canada

Tại Canada, một số tổ chức thực hiện việc cung ứng dịch vụ tài chính thương mại như ngân hàng, công đoàn tín dụng, công ty cổ phần, quỹ tương hỗ, công ty bảo hiểm, công ty môi giới và đại lý chứng khoán. Ngành Ngân hàng nói chung dẫn đầu với 22 ngân hàng trong nước, 26 công ty con của ngân hàng nước ngoài với 23 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ở 7 chi nhánh cho vay nước ngoài. Tổng cộng, các tổ chức ngân hàng này quản lý hơn 3000 tỷ USD tài sản trên toàn cầu15. Với nguồn vốn dự trữ và vốn đầu tư lớn, các ngân hàng tại Canada đã thực hiện một số chính sách nhằm theo đuổi các khoản đầu tư bền vững, ít khí thải các-bon và tạo ra các công cụ tài chính có mục đích đặc biệt. Tuy nhiên, những hoạt động này chủ yếu mang tính biểu tượng và tương đối nhỏ ở giai đoạn ban đầu. Ngân hàng Hoàng gia Canada - Royal Bank of Canada (RBC) đã khởi động “Impact Fund” trị giá 10 triệu USD nhằm tài trợ cho các tổ chức và công ty giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường16. Đây là quỹ đầu tư (dành cho các hoạt động ít tác động đến môi trường) đầu tiên đến từ một trong năm ngân hàng lớn tại Canada. Ngoài việc mang tính biểu tượng, một số hoạt động mang tính chất "xanh" khác như TD Bank đã giới thiệu “TB Global Sustainability” - một quỹ chỉ đầu tư vào các công ty “được coi là đóng góp vào sự bền vững trong tương lai của thế giới”17. Tuy nhiên, các rào cản đối với hoạt động đầu tư các-bon thấp luôn hiện diện ở Canada và không có khuôn khổ chính sách hiệu quả nào tồn tại để khuyến khích sự thay đổi trong lĩnh vực tài chính. Hơn nữa, mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lợi thấp hơn trên các khoản đầu tư thường xảy ra trong các khu vực tài chính không sẵn lòng đầu tư.

Bất chấp sự thiếu hụt tổng thể của các tổ chức tài chính công tập trung vào đầu tư xã hội hoặc đầu tư vào tài chính xanh, Canada có hai tổ chức đang đi đúng hướng để đóng góp vào mục tiêu này. Một trong số đó là “Sustainable Development Technology Canada” (SDTC), được thành lập vào năm 2002. SDTC là một tổ chức phi lợi nhuận dài được tài trợ bởi chính phủ liên bang và họ đã tạo ra hai quỹ đặc biệt để giúp đưa công nghệ sạch ra thị trường18. Quỹ đầu tiên là quỹ công nghệ phát triển bền vững với mục tiêu hỗ trợ các dự án giải quyết vấn đề thu giữ các-bon, chất lượng không khí, nước sạch và đất sạch. Quỹ thứ hai là quỹ nhiên liệu sinh học “NextGen” với mục tiêu hỗ trợ việc thành lập các cơ sở đầu tiên sản xuất nhiên liệu tái tạo19. Từ năm 2002 - 2010, nguồn tài trợ do SDTC cung cấp thúc đẩy đầu tư tư nhân để tăng cường các quỹ này, đồng thời, Chính phủ Liên bang đã hỗ trợ 464 triệu USD làm đòn bẩy cộng thêm 1,1 tỷ USD từ các đối tác dự án khác20. Nhìn chung, SDTC đã tài trợ cho hơn 190 dự án công nghệ sạch, trị giá tổng cộng là hơn 1,5 tỷ USD21. Mặc dù sự tồn tại và hoạt động các quỹ của SDTC đem đến nhiều triển vọng nhưng có những điểm yếu đáng kể về việc SDTC thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp (Low - carbon economy). Thứ nhất, cả hai quỹ đều không hướng mục tiêu vào năng lượng tái tạo (chỉ hướng đến nhiên liệu tái tạo) hoặc các công nghệ tiết kiệm năng lượng. Thứ hai, các quỹ đã tận dụng một lượng vốn tư nhân rất nhỏ. Đối với 1 USD sử dụng từ quỹ công để đầu tư chỉ thu hút được 2 USD từ tư nhân. Hệ số này khá thấp so với các quỹ khác có thể thu hút vốn tư nhân từ 3 - 15 USD cho mỗi 1,144 USD từ vốn nhà nước. Thứ ba, SDTC tập trung các hoạt động và quỹ của mình vào giai đoạn (2) của phát triển công nghệ là: Thực hiện và mở rộng quy mô. Điều này có nghĩa là họ đang cung cấp vốn để giúp các doanh nghiệp đã thực hiện đến giai đoạn (2) có thể có đủ nguồn vốn để tiến sang giai đoạn (3) là thương mại hóa. Mặc dù điều này là cần thiết nhưng các giai đoạn phát triển công nghệ khác lại bị bỏ qua - đó là thương mại hóa, phổ biến và cải tiến.

Tổ chức thứ hai là “Business Development Bank of Canada” (BDC), được thành lập vào năm 1995 với mục đích thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa bằng cách cung cấp các dịch vụ tài trợ, đầu tư mạo hiểm và tư vấn. Cùng với Export Development Canada, BDC thành lập “Tandem Fund” - một quỹ nhằm tạo thêm vốn đầu tư mạo hiểm cho các công ty đang cố gắng đưa công nghệ vào thương mại hóa hoặc thâm nhập và phát triển thị trường22. Giống như SDTC, nhiệm vụ và hoạt động của BDC chỉ góp phần nhỏ vào việc tận dụng vốn tư nhân đối với các doanh nghiệp hoặc dự án các-bon thấp. Nhiệm vụ của BDC bị giới hạn bởi thực tế hoạt động chỉ tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

4.2. Các công cụ tài chính xanh ở Canada

SDTC và BDC vẫn còn những hạn chế trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp các-bon thấp và do đó, Canada đã tìm ra những công cụ, chính sách tài chính riêng để thúc đẩy hơn cho các doanh nghiệp này. Trong vài năm gần đây, đã có một số phát triển chứng minh những tiến bộ của các công cụ tài chính nhằm vào các khoản đầu tư các-bon thấp.

Chương trình “The Technology Early Action Measures” (TEAM) là một trong những chương trình nhằm cung cấp hỗ trợ thông qua các khoản tài trợ ngẫu nhiên cho các công nghệ giai đoạn đầu có tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính. Từ năm 1998 - 2007, chương trình đã tài trợ cho hơn 100 dự án. Trên thực tế, cơ chế đòn bẩy của TEAM đã thành công đến mức nó đã đạt được tỷ lệ 5:1 trong việc cấp vốn tài trợ. Chương trình này sau đó đã được sáp nhập vào “The ecoENERGY Technology Initiative” (EcoETI) vào năm 2007. Sáng kiến ​​này của Bộ Tài nguyên Thiên nhiên Canada (NRCan) và Bộ Môi trường Canada đã cung cấp 230 triệu USD tài trợ cho các dự án “The research, development and demonstration” (RD&D) để hỗ trợ phát triển các công nghệ giảm phát thải bao gồm: Không phát thải nhiên liệu hóa thạch, sử dụng năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng sinh học và sử dụng hiệu quả năng lượng trong các tòa nhà và cộng đồng23.

Một công cụ khác đã phát triển tiềm năng ở Canada là “Green Municipal Enabling Fund”. Quỹ này cung cấp các khoản tài trợ hơn 300.000 USD cho các thành phố có “các sáng kiến về việc ​​lập kế hoạch chia sẻ chi phí, nghiên cứu khả thi và thử nghiệm thực địa cho giai đoạn phát triển công nghệ sạch”24.

Thêm vào đó, vốn đầu tư mạo hiểm cũng đóng một vai trò như một công cụ mới nổi trong quá trình chuyển đổi của Canada sang nền kinh tế các-bon thấp. SDTC đã thiết lập một chính sách tài trợ cho các dự án giải trình rõ bằng chứng về nghiên cứu và triển khai công nghệ sạch sử dụng năng lượng tái tạo25. Chính sách này đã đạt được sự cân bằng giữa việc nhận cổ phần và chỉ đơn giản là cung cấp các khoản tài trợ; điều này giải quyết cả khoảng cách đầu tư mạo hiểm ở giai đoạn đầu và rủi ro chứng minh các công nghệ, đồng thời không làm loãng bảng cân đối kế toán thông qua cổ phần. Quỹ Đầu tư mạo hiểm Ontario (được quản lý bởi TD Finance Private Equity) là một ví dụ khác mà Chính phủ đã là đối tác (người hỗ trợ vốn) của quỹ. Ngoài ra, Business Development Bank of Canada cũng là một nhà đầu tư mạo hiểm tích cực và hiện có một nhóm chuyên gia về việc đưa ra những chính sách tài chính phù hợp để ủng hộ các dự án sử dụng công nghệ sạch.

Các cơ chế tài trợ dành riêng cho việc hỗ trợ nghiên cứu và phát triển cũng đã trở nên phổ biến ở Canada. Chương trình Hỗ trợ Nghiên cứu Công nghiệp do Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Canada tổ chức được thiết kế để giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa với mục tiêu: “Tăng tốc độ phát triển, tăng số lượng sản phẩm, dịch vụ và quy trình được thương mại hóa thành công, đồng thời tăng phạm vi tiếp cận và khả năng cạnh tranh của họ trên các thị trường mới, thông qua phát triển, áp dụng và thích ứng công nghệ”26. Một cơ chế khác đã được phát triển để hỗ trợ nghiên cứu là thành lập Quỹ Năng lượng NRCan, trong đó có các chính sách được thiết kế để hỗ trợ đặc biệt cho nghiên cứu và phát triển ứng dụng. Một số chương trình này bao gồm Chương trình sử dụng công nghệ và năng lượng hiệu quả trong tòa nhà, Liên minh nhiên liệu sạch trong vận tải Canada, Chương trình hệ thống năng lượng cộng đồng, Chương trình công nghệ năng lượng tái tạo và Chương trình năng lượng Hydro, nhiên liệu và vận tải.

Cuối cùng, Canada cũng đã bắt đầu quá trình tạo quỹ mục tiêu để thúc đẩy đầu tư vào công nghệ các-bon thấp như Quỹ Năng lượng sạch đã được tài trợ 01 tỷ USD trong vòng 05 năm, dùng để phân bổ vốn giữa nghiên cứu thu giữ và lưu trữ các-bon, các dự án phân phối và trình diễn công nghệ tiền thương mại, cũng như vào một loạt các dự án nghiên cứu và phát triển khác27. Một quỹ khác là Quỹ Cơ sở hạ tầng xanh, được tài trợ 01 tỷ USD với mục tiêu chính là xử lý nước và nước thải, sản xuất điện, xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng sạch, tái chế, cũng như các công nghệ truyền tải và lưu trữ các-bon. Các loại quỹ này thậm chí còn được phát triển ở cấp địa phương, chẳng hạn như Quỹ Khí quyển Toronto (cung cấp tài chính cho các dự án địa phương về lọc không khí) hoặc Chương trình năng lượng sạch (PACE) cho phép chính quyền địa phương hỗ trợ các dự án năng lượng tái tạo và năng lượng hiệu quả trên tài sản tư nhân28.

Những chính sách nêu trên đã cho thấy một số cách thức mà Canada đang thực hiện để khai thác vốn tư nhân và năng lực đầu tư của khu vực tài chính. Canada đã giải quyết tốt những lỗ hổng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển công nghệ.

5. Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc thành lập các ngân hàng công để hướng tới đầu tư, phát triển các doanh nghiệp và dự án các-bon thấp không phải là một nhiệm vụ đơn giản và quá trình này sẽ phải đối mặt với nhiều rào cản. Để đạt được một số thành công nhất định như Canada, Việt Nam cần:

Một là, thành lập các nhóm chuyên gia về tài chính các-bon thấp trong thời gian tới.

Hiện tại, các cơ chế tài chính như quỹ hoặc trái phiếu cần phải có các tổ chức tài chính công và các chuyên gia nghiên cứu và thực hiện để đảm bảo mức độ uy tín. Do đó, đề xuất chính sách này phải được xây dựng từ cơ sở và phải được đề xuất bởi các bên tham gia đa dạng bao gồm các học giả, tổ chức tài chính, các tổ chức tư nhân. Tổ chức một diễn đàn tương tự như Lực lượng đặc nhiệm Canada về tài chính xã hội (TFSF) có thể giúp xây dựng nền tảng cho đề xuất này, bao gồm phát triển một nhóm những người ủng hộ, một thẩm quyền can thiệp công cộng và các khuyến nghị cụ thể về thiết kế, nhiệm vụ của các ngân hàng công, hoạt động và chiến lược vốn hóa. TFSF được dẫn dắt bởi mười nhà lãnh đạo quốc gia trên thị trường tài chính - xã hội và đã đạt được thành công đáng kể thông qua đầu tư xã hội. Mục đích của lực lượng chuyên gia là cung cấp các nguồn tài chính mới và lớn hơn cho các doanh nghiệp xã hội của Canada - những doanh nghiệp tìm kiếm sự kết hợp giữa các tác động kinh tế, xã hội và môi trường - trong cả lĩnh vực vì lợi nhuận và phi lợi nhuận.

Các vấn đề và câu hỏi mà nhóm chuyên gia này cần nghiên cứu bao gồm: (i) Những rào cản đầu tư cụ thể và những thất bại của thị trường các-bon thấp tại Việt Nam là gì? (ii) Ngân hàng công có thể giải quyết vấn đề nào trong số những rào cản này một cách hiệu quả? (iii) Công cụ tài chính nào có thể giảm thiểu và khắc phục những rào cản và thất bại này một cách tốt nhất? (iv) Vai trò chính của các ngân hàng công đối với thị trường (Ngân hàng có nên bị giới hạn trong việc đạt được các mục tiêu về việc chuyển dịch sang nền kinh tế các-bon thấp? Ngân hàng có nên có nhiệm vụ xã hội và môi trường nhiều hơn không? Ưu điểm và nhược điểm của việc mở rộng hoặc hạn chế các nhiệm vụ của ngân hàng là gì?); (v) Đâu sẽ là tiêu chí để quyết định đầu tư? Điều này sẽ được đo lường như thế nào; (vi) Các ngân hàng sẽ tập trung đầu tư vào năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng hay họ sẽ tập trung vào các công nghệ các-bon thấp khác đã có sự hỗ trợ đáng kể của chính phủ như hạt nhân, thủy điện quy mô lớn, thu và lưu trữ các-bon; (vii) Ngân hàng sẽ chủ yếu cung cấp vốn phát triển cho các doanh nghiệp, vốn mua sắm cho nhiều đối tượng, hay cả hai; (viii) Các ngân hàng nên được cấu trúc, thiết kế, quản lý và vốn hóa như thế nào? Sở hữu công cộng đầy đủ có được ưu tiên hơn đối với đầu tư theo hình thức đối tác công tư không? Những ưu điểm và nhược điểm của những lựa chọn thay thế này là gì; (ix) Các ngân hàng nên sử dụng mô hình “cho vay xanh” nào: Trực tiếp, cho vay lại hay kết hợp cả hai; (x) Các chính sách và khuôn khổ chính sách nào là cần thiết để thành công đối với các công cụ tài chính xanh cụ thể?

Công việc của nhóm chuyên gia cần được công bố và trình bày cho Thủ tướng Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách để tham vấn và đưa ra ý kiến. Các báo cáo cụ thể về những vấn đề này nên được trình bày trong hội nghị với các quan chức cấp cao và các chính trị gia để chính phủ tham gia thảo luận, chọn lọc các khuyến nghị và giải quyết các mối quan ngại.

Hai là, thành lập các ngân hàng công cấp tỉnh với các khuôn khổ chính sách phù hợp.

Các ngân hàng công có nhiệm vụ một phần hoặc toàn bộ trong việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp, dự án các-bon thấp sẽ chỉ thành công nếu được phát triển trong các khuôn khổ pháp lý và chính sách pháp luật hoàn thiện. Các chính sách pháp luật và chiến lược quốc gia phù hợp sẽ tạo ra cả cung và cầu cho các khoản đầu tư các-bon thấp. Ví dụ, tại Canada, hiện có ba tỉnh có tiềm năng phát triển ngân hàng công là Ontario, British Columbia và Quebec. Ontario đang hướng tới một tương lai có lượng khí phát thải thấp hơn với các mức thuế nhập khẩu và Đạo luật Năng lượng Xanh mới. British Columbia đã đưa ra lựa chọn tương tự với việc sử dụng thuế các-bon, giới hạn khu vực và hệ thống thương mại có hoạt động nhiều khí phát thải và xây dựng các bộ luật nghiêm ngặt hơn. Quebec cũng có các mục tiêu phát thải đầy tham vọng thông qua thuế các-bon. Ba tỉnh này cũng có đủ vốn và dân số để đạt được các hoạt động có thể mở rộng trong các ngân hàng đại chúng của chính họ. Các tỉnh này chiếm khoảng 75% dân số Canada và khoảng 70% GDP quốc gia. Hơn nữa, gần 50% lượng khí thải của Canada được tạo ra chỉ riêng ở các tỉnh này29. Do đó, cần tập trung vào việc chuyển đổi các nền kinh tế này ngay bây giờ, thay vì chờ đợi các khuôn khổ chính sách liên bang mạnh hơn hoặc các chiến lược năng lượng quốc gia.

1 Kidney, S. (2009). Financing a Rapid, Global, Transition to a Low-Carbon Economy. Climate Bonds Initiative, p.2.
2 Clements-Hunt, P. (2011). Finance: Supporting the Transition to a Global Green Economy. United Nations Environment Programme, p.586; Makinson, S. (2005). Public Finance Mechanisms to Catalyze Sustainable Energy Sector Growth. United Nations Development Programme, p.12.

3 Cameron, J. & Blood, D. (2009). Catalyzing Capital Towards the Low-Carbon Economy. Copenhagen Climate Council: 03 Thought Leadership Series, p.4.
4 Liebreich, M. (2010). Green Investing 2010: Policy Mechanisms to Bridge the Financing Gap. New York: World Economic Forum, p.37.
5 Center for American Progress and Global Climate Network. (2009). Breaking Through on Technology: Overcoming the barriers to the development and wide deployment of low-carbon technology, p.29.
6 Bloomberg New Energy Finance. (2010). Weathering the Storm: Public funding for low-carbon energy in the post financial crisis era. UNEP SEF Alliance Publication, p.5.
7 Justice, S. (2009). Private Financing of Renewable Energy: A Guide for Policymakers. United Nations Environmental Programme, p.10.
8 Glemarec, Y. (2011). Catalyzing Climate Finance: A Guidebook on Policy and Financing Options to Support Green, Low-Emission and Climate-Resilient Development. New York: United Nations Development Programme, p.24.
9 Raingold, A. (2010). Financing the Future: A Green Investment Bank to Power the Economic Recovery. Aldersgate Group, p.12.
10 Holmes, I., & Mabey, N. (2011). Accelerating the Transition to a Low-carbon Economy: The Case for a Green Infrastructure Bank. London: Third Generation Environmentalism Ltd., p.11.
11 Cameron, J. & Blood, D. (2009). Catalyzing Capital Towards the Low-Carbon Economy. Copenhagen Climate Council: 03 Thought Leadership Series, p.8.
12 Bloomberg New Energy Finance. (2010). Weathering the Storm: Public funding for low-carbon energy in the post financial crisis era. UNEP SEF Alliance Publication, p.5.
13 Makinson, S. (2005). Public Finance Mechanisms to Catalyze Sustainable Energy Sector Growth. United Nations Development Programme, p.14.
14 Whitehouse, S. (2011). Carbon Capital: Financing the Low-carbon Economy. London: Accenture and Barclays, p.17.
15 Bhatia, S. S. (2011). Competition, Stability and Resilience of Canadian Banks: What happened and What can be Done? Business, Economics and Society, p.6; p.7.
16 Brown, J., & Jacobs, M. (2011). Leveraging Private Investment: The Role of Public Sector Climate Finance. London: Overseas Development Institute, p.195.
17 van Gelder et al. (2008). Financing of Fossil Fuels and Renewable Energy by Canadian Banks. Rainforest Action Network.
18 Bloomberg New Energy Finance. (2010). Weathering the Storm: Public funding for low-carbon energy in the post financial crisis era. UNEP SEF Alliance Publication, p.11; OCETA, & SDTC. (2009). The 2009 OCETA SDTC Cleantech Growth & Go-to-Market Report. Toronto: Russell Mitchel Group, p.22.
19 OCETA, & SDTC. (2009). The 2009 OCETA SDTC Cleantech Growth & Go-to-Market Report. Toronto: Russell Mitchel Group, p.22.
20 OCETA, & SDTC. (2010). The 2010 SDTC Cleantech Growth & Go-to-Market Report. Toronto: Russell Mitchel Group, p.71.
21 Montambault, A. (2009). Building A Sustainable Development Infrastructure In Canada: The Genesis And Rise of Sustainable Development Technology Canada. In: Toner, G. and Meadowcroft, J. (eds). Innovation, Science, Environment Special Edition: Charting Sustainable Development in Canada, 1987-2007. Montreal: McGill-Queen’s University Press, p. 230-252.
22 OCETA, & SDTC. (2010). The 2010 SDTC Cleantech Growth & Go-to-Market Report. Toronto: Russell Mitchel Group, p.71.
23 Leflaive, X. (2008). Eco-Innovation Policies in Canada. Environmental Directorate, OECD, p.13.
24 Makinson, S. (2005). Public Finance Mechanisms to Catalyze Sustainable Energy Sector Growth.
25 Crespo, J., Guo, T., & Greenwood, C. (2008). SEF Alliance Publications: Public Venture Capital Study. London: United Nations Environment Programme & New Energy Finance Ltd, p.24.
26 OCETA, & SDTC. (2009). The 2009 OCETA SDTC Cleantech Growth &

Go-to-Market Report. Toronto: Russell Mitchel Group, p.79.

27 OCETA, & SDTC. (2010). The 2010 SDTC Cleantech Growth & Go-to-Market Report. Toronto: Russell Mitchel Group, p.71.
28 Vancity. (2011b). Financing Low-Carbon Buildlings - A Round Table Dialogue. Carbon Talks and SFU Centre for Dialogue, p.12; p.16.

29 Environment Canada. (2011). National Inventory Report 1990-2009: Greenhouse Gas Source and Sinks in Canada (Part 1). Submission to the UNFCCC 2011. Government of Canada, p.29.


Tài liệu tham khảo:

1. Bhatia, S. S. (2011). Competition, Stability and Resilience of Canadian Banks: What happened and What can be Done? Business, Economics and Society, p.6; p.7.

2. Bloomberg New Energy Finance. (2010). Weathering the Storm: Public funding for low-carbon energy in the post financial crisis era. UNEP SEF Alliance Publication, p.5.

3. Brown, J., & Jacobs, M. (2011). Leveraging Private Investment: The Role of Public Sector Climate Finance. London: Overseas Development Institute, p.195.

4. Cameron, J. & Blood, D. (2009). Catalyzing Capital Towards the Low-Carbon Economy. Copenhagen Climate Council: 03 Thought Leadership Series, p.4.

5. Center for American Progress and Global Climate Network. (2009). Breaking Through on Technology: Overcoming the barriers to the development and wide deployment of low-carbon technology, p.29.

6. Clements-Hunt, P. (2011). Finance: Supporting the Transition to a Global Green Economy. United Nations Environment Programme, p.586

7. Crespo, J., Guo, T., & Greenwood, C. (2008). SEF Alliance Publications: Public Venture Capital Study. London: United Nations Environment Programme & New Energy Finance Ltd, p.24.

8. Environment Canada. (2011). National Inventory Report 1990-2009: Greenhouse Gas Source and Sinks in Canada (Part 1). Submission to the UNFCCC 2011. Government of Canada, p.29.

9. Glemarec, Y. (2011). Catalyzing Climate Finance: A Guidebook on Policy and Financing Options to Support Green, Low-Emission and Climate-Resilient.

10. Holmes, I., & Mabey, N. (2011). Accelerating the Transition to a Low-carbon Economy: The Case for a Green Infrastructure Bank. London: Third Generation Environmentalism Ltd., p.11.

11. Justice, S. (2009). Private Financing of Renewable Energy: A Guide for Policymakers. United Nations Environmental Programme, p.10.

12. Kidney, S. (2009). Financing a Rapid, Global, Transition to a Low-Carbon Economy. Climate Bonds Initiative, p.2.

13. Leflaive, X. (2008). Eco-Innovation Policies in Canada. Environmental Directorate, OECD, p.13.

14. Liebreich, M. (2010). Green Investing 2010: Policy Mechanisms to Bridge the Financing Gap. New York: World Economic Forum, p.37.

15. Makinson, S. (2005). Public Finance Mechanisms to Catalyze Sustainable Energy Sector Growth. United Nations Development Programme, p.14.

16. Montambault, A. (2009). Building A Sustainable Development Infrastructure In Canada: The Genesis And Rise of Sustainable Development Technology Canada. In: Toner, G. and Meadowcroft, J. (eds). Innovation, Science, Environment Special Edition: Charting Sustainable Development in Canada, 1987-2007. Montreal: McGill-Queen’s University Press, p. 230-252.

17. OCETA, & SDTC. (2009). The 2009 OCETA SDTC Cleantech Growth & Go-to-Market Report. Toronto: Russell Mitchel Group, p.22.

18. OCETA, & SDTC. (2010). The 2010 SDTC Cleantech Growth & Go-to-Market Report. Toronto: Russell Mitchel Group, p.71.

19. Public Finance Mechanisms to Catalyze Sustainable Energy Sector Growth. United Nations Development Programme, p.12.

20. Raingold, A. (2010). Financing the Future: A Green Investment Bank to Power the Economic Recovery. Aldersgate Group, p.12.

21. Vancity. (2011b). Financing Low-Carbon Buildlings – A Round Table Dialogue. Carbon Talks and SFU Centre for Dialogue, p.12; p.16.

22. Van Gelder et al. (2008). Financing of Fossil Fuels and Renewable Energy by Canadian Banks. Rainforest Action Network.

23. Whitehouse, S. (2011). Carbon Capital: Financing the Low-carbon Economy. London: Accenture and Barclays, p.17.


Trần Nguyễn Phước Thông
Trung tâm Liên kết đào tạo luật sư thương mại quốc tế, Học viện Tư pháp, Bộ Tư pháp


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.
Xem thêm
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc