Xu hướng tăng quy mô và tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của ngân hàng thương mại Việt Nam

Công nghệ & ngân hàng số
Một trong những xu hướng đáng mừng, diễn biến rất tích cực trong quá trình tái cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn hội nhập sâu rộng kinh tế qu...
aa

Một trong những xu hướng đáng mừng, diễn biến rất tích cực trong quá trình tái cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế hiện nay là phát triển các dịch vụ ngân hàng tiện ích và hiện đại, tăng quy mô và tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập. Xu hướng này phù hợp với hoạt động ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển, giảm thiểu rủi ro, đảm bảo các NHTM phát triển bền vững. Để thấy rõ thực trạng của xu hướng trên, bài viết nghiên cứu và phân tích số liệu trong báo cáo tài chính hết quý III/2018 đã được công bố của các NHTM cổ phần đang niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, trên cơ sở đó, đưa ra một số nhận xét, khuyến nghị.

Phát triển các dịch vụ ngân hàng tiện ích và hiện đại là xu hướng phù hợp

để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo các NHTM phát triển bền vững

Thu nhập từ hoạt động dịch vụ tăng trưởng mạnh

Dựa trên nguồn thông tin chính thức từ báo cáo tài chính chưa được kiểm toán nói trên của các NHTM cổ phần Việt Nam đã được công bố công khai theo quy định của pháp luật, xét về con số tuyệt đối thì Vietcombank hiện nay đang là NHTM có quy mô thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng lớn nhất, có kết quả kinh doanh ổn định nhất từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong 9 tháng đầu năm 2018, đạt tới hơn 2.600 tỷ đồng trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh này, tăng 34% so với cùng kỳ năm 2017. Mức tăng trưởng khá ấn tượng, tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp vào tổng thu nhập hoạt động của Vietcombank chưa cải thiện được nhiều, chỉ xoay quanh mức 9%. Thực tế này cũng cho thấy, mức độ cạnh tranh trong phát triển dịch vụ phi tín dụng giữa các NHTM ở Việt Nam rất lớn, áp lực giữ vững và phát triển thị phần cạnh tranh của Vietcombank ngày càng cao. Giải pháp cho mục tiêu tăng quy mô của thu nhập hoạt động dịch vụ phi tín dụng của Vietcombank đó là có chiến lược thực hiện nâng cấp các hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) hỗ trợ dịch vụ, tăng tốc độ xử lý giao dịch, tăng mức độ phòng ngừa rủi ro, nâng cao mức độ an toàn cho khách hàng; đồng thời phát triển thêm một số ứng dụng mới tiện ích cho khách hàng, tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ trên thiết bị di động và internet, gia tăng tần suất giao dịch cho đông đảo khách hàng để tăng trưởng doanh thu. Với chiến lược này, nguồn thu từ các dịch vụ truyền thống, có thế mạnh của Vietcombank như: kinh doanh ngoại tệ, tài trợ thương mại và tài trợ xuất khẩu, thẻ tín dụng, thanh toán quốc tế, thanh toán trong nước… vẫn giữ được ổn định.

Hoạt động dịch vụ phi tín dụng của Vietcombank còn được kỳ vọng sẽ bứt phá hơn nữa nhờ vào hoạt động dịch vụ bancassurance khi thực tế ngân hàng này dù đang có cơ sở dữ liệu khách hàng lớn nhất nhưng chưa triển khai mạnh nguồn thu từ bán bảo hiểm. Được biết, hiện nay, Vietcombank đang công khai tìm kiếm đối tác bảo hiểm với tổng giá trị lên tới 1 tỷ USD.

Tham khảo diễn biến nguồn thu lãi từ các hoạt động dịch vụ phi tín dụng hết quý III/2018 so với cùng kỳ năm 2017 của các NHTM cổ phần đang niêm yết ở hình vẽ dưới đây. (Hình 1)


Đứng thứ hai có BIDV và Techcombank là hai NHTM có quy mô lớn nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng, đạt trên 2.000 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm 2018; trong đó, BIDV đạt 2.541 tỷ đồng, tăng 19%; Techcombank đạt 2.113 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2017. Nghiên cứu thuyết minh báo cáo tài chính của Techcombank, ngoài dịch vụ thanh toán, tiền mặt thì hợp tác bảo hiểm và bảo lãnh phát hành chứng khoán là những nguồn thu chính của ngân hàng này trong 9 tháng đầu năm 2018.

Đứng vị trí tiếp theo về quy mô thu nhập từ hoạt động dich vụ phi tín dụng trong 9 tháng đầu năm 2018 đạt trên 1.000 tỷ đồng, đó là Vietinbank, Sacombank, MB, ACB, VPBank. Trong nhóm này, MB có tăng trưởng cao nhất với 63%, đạt 1.688 tỷ đồng, chủ yếu nhờ khoản thu đột biến từ kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm, lãi 860 tỷ đồng, gấp 3,2 lần cùng kỳ; tiếp đến là Vietinbank, đạt 1552,6 tỷ đồng, tăng trưởng 48,6% so cùng kỳ.

Xét về tỷ trọng lãi thuần từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trên tổng thu nhập hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam, nhìn chung, chưa có cải thiện nhiều. Tỷ lệ này ở các NHTM quy mô nhỏ vẫn chỉ khoảng từ 2 - 5%. Các NHTM quy mô lớn như BIDV, Vietcombank vẫn dưới 10%. Nhóm NHTM cổ phần tư nhân lớn và có quy mô khá như Sacombank, Techcombank, MB, ACB, VIB, TPBank có tỷ trọng cao nhất cũng ở mức trên 12%. (Hình 2)


Techcombank và Sacombank đang là hai NHTM có tỷ trọng thu nhập dịch vụ cao nhất thị trường khi lần lượt đạt 16% và 22%. Đây đều là hai NHTM có các hợp đồng kinh doanh hợp tác lớn với một số công ty bảo hiểm vào cuối năm 2017. Theo đó, tỷ trọng thu dịch vụ phi tín dụng tại Sacombank năm 2017 đạt tới 40% và tại Techcombank là 28%. Không còn nguồn thu đột biến ghi nhận một lần như năm 2017 nhưng dịch vụ kinh doanh bảo hiểm vẫn đang mang đến nguồn thu nhập khá ổn định cho hai ngân hàng.

Những NHTM Việt Nam có tốc độ cải thiện tỷ trọng thu nhập từ hoạt động phi tín dụng trong tổng thu nhập mạnh mẽ nhất trong 9 tháng đầu năm 2018 đó là VIB, TPBank, HDBank.

Tại TPBank, tỷ trọng thu nhập của hoạt động dịch vụ phi tín dụng chỉ ở mức 5,1% cùng kỳ năm 2017, thì đã tăng vọt lên 10,9% trong 9 tháng đầu năm 2018. Sự tăng trưởng đột biến này cũng góp phần giúp lợi nhuận của TPBank tăng cao dù bị hạn chế tăng trưởng tín dụng trong quý III/2018 do đã chạm trần hạn mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo. Tỷ trọng này tại HDBank tăng từ 1,9% năm 2017 lên đến 5% trong 9 tháng của năm 2018, tại VIB tăng từ 8,7% lên 12,2%. Điểm chung ở cả 3 ngân hàng này là nhờ khoản thu đột biến từ hoa hồng bảo hiểm. Tuy nhiên, bên cạnh đó, thu nhập từ dịch vụ thanh toán cũng rất ấn tượng, như tại TPBank tăng gấp 2,5 lần; tại VIB tăng 74%.

Thống kê từ 20 NHTM cổ phần đã công bố báo cáo tài chính hết quý III/2018, thì có 16 trong số 20 ngân hàng đều có nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong 9 tháng đầu năm 2018 cao hơn so với cùng kỳ năm 2017; có 4 ngân hàng còn lại là VPBank, ABBank, BacABank và VietBank quy mô nguồn thu nhập này cũng chỉ giảm nhẹ, cụ thể: VPBank giảm 3%, nhưng vẫn có thu nhập hơn 1.004 tỷ đồng. ABBank chỉ giảm 2 tỷ đồng xuống 128 tỷ đồng, BacABank giảm 3 tỷ đồng xuống 37 tỷ đồng, VietBank giảm 2 tỷ đồng.

Nhiều ngân hàng dù các hoạt động kinh doanh không được như mục tiêu đề ra nhưng riêng nguồn thu từ dịch vụ phi tín dụng vẫn tăng ổn định. Chẳng hạn, tại LienVietPostBank, trong quý III/2018, thu nhập lãi thuần giảm 7%, hoạt động kinh doanh ngoại hối bị lỗ 21 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh khác bị lỗ 57 tỷ đồng thì dịch vụ phi tín dụng lại là điểm sáng khi tăng 76% so với cùng kỳ năm 2018, đạt con số thu nhập là 42 tỷ đồng, nâng quy mô thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng trong 9 tháng đầu năm 2018 lên 83 tỷ đồng, gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2017.

Kết luận và khuyến nghị

Trong thời gian qua, môi trường hoạt động tín dụng có nhiều khó khăn, mức độ rủi ro còn lớn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý chặt chẽ tăng trưởng dư nợ cho vay hằng năm của các NHTM nhằm thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, nguồn thu nhập từ hoạt động cho vay vốn đối với khách hàng chậm lại, thì có thể thấy hoạt động dịch vụ phi tín dụng đem lại nguồn thu nhập khá ổn định cho hầu hết các NHTM Việt Nam trong 9 tháng của năm 2018, nếu NHTM nào có bị giảm thì mức giảm cũng không nhiều, không biến động lớn, biến động bất thường như kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán,… Do đó, chiến lược tăng tỷ trọng thu nhập dịch vụ phi tín dụng vẫn được các NHTM Việt Nam tiếp tục tập trung cho hoạt động này. Trong bối cảnh cách mạng 4.0, ứng dụng công nghệ Fintech, Blockchain, sử dụng thiết bị di động, sự phát triển của công nghệ số, Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường chỉ đạo, thúc đẩy mạnh mẽ, các NHTM Việt Nam cũng ngày càng cạnh tranh quyết liệt hơn, tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính, nhân lực, phát triển và nâng cao các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là các dịch vụ hiện đại, như: internet banking, ngân hàng số, sử dụng mã QR, ví điện tử... Các NHTM cũng mở rộng hợp tác với ngành thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội, công ty cung ứng dịch vụ thanh toán, các công ty và tổ chức cung ứng dịch vụ công như: điện lực, viễn thông, truyền hình cáp, nước sạch, bệnh viện, xăng dầu, giao thông đường bộ và đường sắt, các hãng hàng không, trạm đăng kiểm giao thông, trường đại học và cao đẳng, dạy nghề,…; công ty xuất khẩu lao động, công ty du lịch; siêu thị, trung tâm thương mại, các công ty bảo hiểm,… Việc cung ứng các dịch vụ phi tín dụng cũng giúp các NHTM Việt Nam bán chéo các sản phẩm như: tiền gửi, thấu chi,… Vấn đề đặt ra là sự chuyển động mạnh mẽ về phía các cơ quan chức năng, bài viết xin đưa ra một số khuyến nghị sau:

Một là, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Thông tin Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Công thương… phối hợp chặt chẽ cần tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho các hoạt động thanh toán điện tử, sử dụng hóa đơn điện tử, sử dụng mã QR của khách quốc tế tại Việt Nam.

Hai là, Bộ Tài chính chỉ đạo Tổng cục Thuế có biện pháp cụ thể kiểm tra, quản lý các trường hợp né tránh thanh toán không dùng tiền mặt để trốn thuế; chỉ đạo Kho bạc Nhà nước kiểm soát chặt chẽ quy định thanh toán không dùng tiền mặt của các đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước.

Ba là, các bộ/ngành có liên quan chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp kiểm soát các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp,… cung ứng dịch vụ công từ chối, né tránh hay trì hoãn áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.

Bốn là, ngành Bưu chính Viễn thông cần tăng cường đầu tư đảm bảo chất lượng và sự ổn định vận hành của mạng truyền thông trong cả nước cũng như nối với quốc tế, tăng cường tính bảo mật, an toàn cho các đối tượng sử dụng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Báo cáo tài chính hợp nhất quý III/2018 của các NHTM cổ phần được chọn lọc.

TS. Đỗ Quang Trị

Nguồn: TCNH số 23/2018

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò, cơ hội và rủi ro của trí tuệ nhân tạo trong đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua tiếp cận định tính và tổng hợp lý luận từ các học thuyết ra quyết định, bài viết khẳng định rằng trí tuệ nhân tạo mang lại hiệu quả vượt trội trong nâng cao độ chính xác phân loại tín dụng, tối ưu hóa quy trình và mở rộng tài chính bao trùm. Tuy nhiên, đi kèm là những thách thức đáng kể về vấn đề pháp lý, rủi ro đạo đức và khả năng triển khai thực tế trong môi trường ngân hàng còn phân hóa về năng lực số.
Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin là một xu hướng mới đầy tiềm năng của thế giới trong lĩnh vực tiền tệ số, hứa hẹn định hình lại phương thức thanh toán và chuyển giao giá trị trong kỷ nguyên số...
Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn  tài chính - ngân hàng

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn tài chính - ngân hàng

Bảo mật khả dụng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, giúp cân bằng giữa an toàn và trải nghiệm người dùng. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng bảo mật Fintech tại Việt Nam, xác định những thách thức chính ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Fintech. Bài viết đề xuất bộ nguyên tắc bảo mật khả dụng gồm năm tiêu chí: Minh bạch, xác thực linh hoạt, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng dụng AI và tối ưu trải nghiệm người dùng. Các nguyên tắc này giúp xây dựng một hệ thống bảo mật an toàn nhưng vẫn bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp với hành vi người dùng Việt Nam. Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp Fintech cần áp dụng nguyên tắc này vào sản phẩm, dịch vụ; ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để nâng cao tiêu chuẩn bảo mật, còn cơ quan quản lý cần ban hành các quy định phù hợp về bảo mật khả dụng trong Fintech.
Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), là một trong “Bộ tứ chiến lược” hướng đến mang lại sản phẩm tiện tích cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế số, giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Nghị quyết 57, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là động lực, chủ thể cho sự phát triển.
Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Bài toán cấp tín dụng là một trong những vấn đề trọng yếu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính hoặc các nền tảng cho vay ngang hàng. Mục tiêu của bài toán này là đánh giá rủi ro tín dụng của từng khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra quyết định liệu có nên cấp tín dụng hay không, nếu có thì với điều kiện như thế nào. Trong thực tế, việc đưa ra quyết định cấp tín dụng không chỉ đơn thuần là lựa chọn giữa “cấp” hay “không cấp”, mà là một quá trình ra quyết định phức tạp, cần cân bằng giữa rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận kỳ vọng. Một quyết định sai lầm, ví dụ như cấp tín dụng cho khách hàng có khả năng vỡ nợ, có thể dẫn đến tổn thất tài chính nghiêm trọng. Ngược lại, từ chối một khách hàng có khả năng hoàn trả tốt cũng là bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng