Xây dựng các kịch bản kinh tế biển xanh để phát triển kinh tế đại dương bền vững

Nghiên cứu - Trao đổi
Đại dương bao phủ hơn 3/4 diện tích hành tinh và hấp thụ đến 30% lượng khí CO2 do con người tạo ra. Kinh tế đại dương toàn cầu hiện đóng góp khoảng 3 nghìn tỷ USD mỗi năm, tức 5% GDP của thế giới bao gồm các ngành chính là dầu khí, vận tải biển, cảng, năng lượng tái tạo, thủy sản, hệ sinh thái biển và du lịch biển.
aa

Đại dương bao phủ hơn 3/4 diện tích hành tinh và hấp thụ đến 30% lượng khí CO2 do con người tạo ra. Kinh tế đại dương toàn cầu hiện đóng góp khoảng 3 nghìn tỷ USD mỗi năm, tức 5% GDP của thế giới bao gồm các ngành chính là dầu khí, vận tải biển, cảng, năng lượng tái tạo, thủy sản, hệ sinh thái biển và du lịch biển.


Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.260 ki-lô-mét là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, đặc biệt là 28 tỉnh và thành phố ven biển. Đất nước có đường bờ biển dài với nhiều tiềm năng điện gió ven bờ và ngoài khơi, nếu được phát triển hợp lý, sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và giúp Việt Nam đạt được các cam kết trung hòa carbon vào 2050.

1. Vai trò của kinh tế đại dương cho phát triển bền vững

Biển và đại dương thế giới là kho tài nguyên sinh vật tự nhiên vô cùng to lớn, với diện tích khoảng 360 triệu ki-lô-mét vuông, chiếm 71% bề mặt trái đất. Biển và đại dương chứa khoảng 1,5 tỷ ki-lô-mét khối nước, bằng 97,3% toàn bộ lượng nước của hành tinh.

Theo tính toán của các nhà khoa học, trong lòng biển và đại dương thế giới có khoảng 180.000 loài thực vật và 20.000 loài động vật, trong đó đã phát hiện hơn 400 loài cá và hơn 100 loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra còn có khoảng 260 loài chim sống gắn bó với biển và đại dương, ước tính sức sản xuất nguyên khai của biển và đại dương khoảng 500 tỷ tấn sinh khối/năm, trong đó sản lượng cá biển ước tính khoảng 600 triệu tấn/năm. Hiện nay, sản lượng khai thác hải sản của thế giới mới đạt trên 100 triệu tấn/năm. Như vậy, biển và đại dương còn tiềm năng rất lớn mà con người chưa khai thác đến.

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), kinh tế biển đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thúc đẩy đổi mới. Biển và đại dương giúp đối phó với nhiều thách thức mà kinh tế thế giới phải đối mặt trong những thập niên tới, từ đảm bảo an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, cung ứng tài nguyên tự nhiên, năng lượng và cải thiện điều kiện chăm sóc y tế.

Thế kỷ 21 được coi là thế kỷ của đại dương. Mục tiêu của Liên hợp quốc về bảo tồn, sử dụng bền vững biển, đại dương được xem là thước đo phát triển của các quốc gia. Bảo đảm đại dương bền vững là một trong những trụ cột chính để nhân loại đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG).

Trữ lượng nguồn lợi hải sản của Việt Nam trong giai đoạn 2021 - 2030 dự báo sẽ được duy trì ở mức 4,365 triệu tấn/năm


Kinh tế đại dương bền vững hay kinh tế biển xanh là khái niệm mới, dùng để chỉ sự phát triển của các hoạt động kinh tế biển một cách tổng hợp và bền vững. Kinh tế biển bao gồm các lĩnh vực như: Năng lượng tái tạo, du lịch biển và ven biển, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, vận tải biển, quản lý chất thải và bảo tồn biển.

Cách tiếp cận kinh tế biển bền vững không chỉ coi đại dương là nơi cung cấp các nguồn lực kinh tế duy nhất, mà còn kêu gọi bảo vệ và phục hồi các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong khi tìm cách cải thiện phúc lợi của con người và công bằng xã hội. Cách tiếp cận như vậy phải tính toán và kết hợp đầy đủ các tác động của biến đổi khí hậu, đảm bảo ứng phó với Covid-19 (kể cả các gói cứu trợ kinh tế) sẽ đóng góp vào việc phục hồi tốt hơn, vì một nền kinh tế biển công bằng, bền vững và có khả năng chống chịu hơn.

2. Tiếp cận “tài khoản đại dương” và kinh tế biển xanh

Theo Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (WWF), hơn 2/3 giá trị kinh tế từ biển phụ thuộc trực tiếp vào “điều kiện sức khỏe” của các đại dương. Trong bối cảnh nhu cầu đối với nguồn thực phẩm và tài nguyên từ các vùng biển gia tăng nhanh chóng, các “khu vực xanh” này cũng đang biến đổi nhanh hơn bất kỳ thời điểm nào trong hàng chục triệu năm qua, khi số lượng sinh vật biển đang suy giảm nghiêm trọng và tình trạng ô nhiễm tràn lan.

OECD nhấn mạnh kinh tế biển là yếu tố then chốt đảm bảo tương lai thịnh vượng của loài người. Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế trên các đại dương đang đứng trước nhiều rủi ro: Sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên biển, ô nhiễm, nhiệt độ và mực nước biển gia tăng, tình trạng axít hóa tại các đại dương và thu hẹp đa dạng sinh học.

Trước đây, kinh tế đại dương được quản lý qua việc quản trị các ngành kinh tế cụ thể, như đánh bắt thủy hải sản, vận tải biển, du lịch biển... Với cường độ thấp, cách tiếp cận này có thể phù hợp. Việc quản trị biển theo hướng này chủ yếu dựa trên tập hợp các chính sách kinh tế cho các ngành nghề khác nhau, kèm theo các chính sách về bảo tồn biển. Tuy nhiên, những cách tiếp cận như vậy không còn đủ để ứng phó với cường độ hoạt động trên biển ngày càng cao, áp lực gia tăng như hiện nay.

Theo OECD, kinh tế đại dương là một ranh giới kinh tế mới, không thể thiếu cho một tương lai bền vững và thịnh vượng. Kinh tế đại dương (trong bối cảnh bình thường), có thể dự kiến tăng trưởng từ 1,5 nghìn (năm 2010) tới 3,0 nghìn tỷ USD (năm 2030), cung cấp thêm 9 triệu việc làm trong giai đoạn này. Thử thách chính trong thập kỷ tới là làm sao để vừa xây dựng các cơ chế điều hành và quản trị để đạt được những con số nêu trên, và vừa đảm bảo tính bền vững cho biển và đại dương.

Đã có nhiều nỗ lực nhằm đánh giá nền kinh tế đại dương theo một cách tổng hợp hơn, được gọi là “tài khoản đại dương”, để tính toán các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường của đại dương và bờ biển. Tài khoản đại dương là một tập hợp có cấu trúc thông tin nhất quán và có thể so sánh được: bản đồ, số liệu thống kê và chỉ số liên quan đến môi trường biển và ven biển, các hoàn cảnh xã hội và hoạt động kinh tế có liên quan phù hợp với nền tảng hệ thống hạch toán kinh tế - môi trường.

Tài khoản đại dương quốc gia ưu tiên ba chỉ số về kinh tế đại dương: (i) Sản phẩm đại dương (tính theo GDP); (ii) Bản hạch toán tài khoản đại dương, dùng để đo lường sự thay đổi của các tài sản phi sản xuất và sản xuất; và (iii) Thu nhập từ đại dương, tính toán lợi ích cho các quốc gia từ kinh tế biển (tính theo GNI).

Kinh tế đại dương được hình thành từ nhiều lĩnh vực ngành nghề. Đối với các nước thu nhập trung bình - thấp, kinh tế biển có đóng góp đáng kể cho GDP. Đóng góp cho GDP từ 06 lĩnh vực kinh tế biển giai đoạn 2005 - 2015 là 9 - 11%. Việc xây dựng các tài khoản đại dương nhằm xác định GDP, liên quan đến thu nhập quốc dân và phát triển bền vững, là bước quan trọng đầu tiên để hiện thực hóa tiềm năng quốc gia trong một nền kinh tế đại dương đang ngày được mở rộng.

Trong khi đó, kinh tế biển xanh có thể được xem là gắn liền với nhiều cách tiếp cận của kinh tế xanh, nhưng chỉ liên quan đến các lĩnh vực kinh tế biển (Marine economies). Kinh tế biển xanh là thuật ngữ xuất hiện trong giai đoạn chuẩn bị của Hội nghị Rio+20 năm 2012 và được áp dụng rộng rãi trong những năm qua.

Hội nghị Đại dương thế giới năm 2015 đã đưa ra khái niệm: “Kinh tế biển xanh là một nền kinh tế biển phát triển bền vững, ở đó hoạt động kinh tế biển cân bằng với khả năng đáp ứng của các hệ sinh thái biển một cách liên tục”. Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP, 2013) cho rằng: “Kinh tế biển xanh là cách tiếp cận dựa trên tầm nhìn về cải thiện sự thịnh vượng và công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể những rủi ro môi trường và sự khan hiếm tài nguyên”. Ngân hàng Thế giới đưa ra định nghĩa: “Kinh tế biển xanh là việc sử dụng bền vững tài nguyên đại dương, cải thiện sinh kế và việc làm, sức khỏe các hệ sinh thái đại dương”.

Như vậy, kinh tế biển xanh tập trung nhiều hơn vào các khía cạnh môi trường và quản trị đại dương. Tuy nhiên, luận điểm và cách tiếp cận, áp dụng kinh tế biển xanh cấp quốc gia có thể khác nhau tùy thuộc sự khác biệt của các nước. Các thách thức này bao gồm đảm bảo bao hàm các trụ cột xã hội, kinh tế và môi trường, xác lập đường lối bảo đảm cân bằng thực sự giữa tăng trưởng và phát triển với bảo vệ biển và đại dương.

3. Bối cảnh phát triển kinh tế biển xanh cho Việt Nam

Việt Nam là quốc gia biển, với đường bờ biển dài hơn 3.260 ki-lô-mét . Kinh tế biển là động lực, tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế. Các tỉnh, thành phố ven biển Việt Nam chiếm hơn 50% dân số cả nước, phần lớn lao động làm việc trong các ngành nghề liên quan đến biển; đóng góp của 28 tỉnh, thành ven biển vào GDP cả nước hiện đã vượt ngưỡng 60%.

Việt Nam có lợi thế về giao thông đường biển, khi gần các tuyến đường hàng hải quốc tế và khu vực. Vùng biển Việt Nam nằm tại khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao và là cầu nối giữa nhiều cường quốc kinh tế và chính trị trên thế giới. Đây là những điều kiện thuận lợi để Việt Nam phát triển ngành hàng hải, công nghiệp tàu thủy và logistics, nhất là khi có tới 114 cửa sông, 52 vịnh nước sâu ven bờ miền Trung (vũng, vịnh, đầm phá chiếm 60% chiều dài đường bờ biển), hơn 100 vị trí có thể xây dựng các cảng biển lớn. Mặt khác, vị trí thuận tiện cho giao thông và các vũng, vịnh kín có độ sâu lớn, không gian rộng lớn ở ven biển và trên bờ biển rất thuận lợi làm cảng biển và phát triển các khu kinh tế ven biển.

Với vị trí địa lý và điều kiện thuận lợi, phát triển kinh tế biển đã trở thành nhu cầu tất yếu trong suốt quá trình phát triển của Việt Nam. Hoạt động kinh tế biển ở Việt Nam rất đa dạng và có thể chia thành hai loại chính:

Thứ nhất, các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển: Kinh tế hàng hải (dịch vụ vận tải biển và cảng biển); thủy sản (đánh bắt và nuôi trồng); khai thác dầu khí ngoài khơi; du lịch biển; làm muối; dịch vụ tìm kiếm, cứu nạn; hoạt động kinh tế đảo.

Thứ hai, các hoạt động kinh tế liên quan trực tiếp đến khai thác biển (nhưng không diễn ra trên biển), do yếu tố biển hoặc phục vụ trực tiếp các hoạt động kinh tế biển: Đóng mới và sửa chữa tàu thuyền; công nghiệp chế biến dầu khí; công nghiệp chế biến thủy sản; cung cấp dịch vụ biển; thông tin liên lạc (biển); nghiên cứu khoa học và công nghệ biển, đào tạo nguồn lực cho phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển.

Nhận thức đầy đủ vị thế, vai trò và tầm quan trọng của kinh tế biển, Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng để phát triển bền vững kinh tế biển. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 24/11/2021 về đổi mới và tăng cường tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

4. Các kịch bản phát triển kinh tế biển xanh cho Việt Nam

Báo cáo “Kinh tế biển xanh Việt Nam hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển” được Bộ Tài nguyên và Môi trường và Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) công bố (tháng 5/2022), đánh giá vai trò của các ngành trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội thông qua 6 ngành/lĩnh vực chính (được lựa chọn) của kinh tế biển xanh ở Việt Nam, bao gồm: (1) Thủy sản; (2) Dầu khí; (3) Năng lượng biển tái tạo; (4) Du lịch biển và ven biển; (5) Hàng hải; (6) Môi trường, đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái biển.

Trên cơ sở đánh giá hiện trạng, phân tích bối cảnh, xu hướng thị trường, năng lực khai thác cũng như yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia và yêu cầu phát triển kinh tế biển xanh, mỗi lĩnh vực kinh tế biển chủ yếu đã phác thảo những nét chính về các kịch bản phát triển cho thời kỳ đến năm 2030. Các phân tích này đã giả định những điều kiện cụ thể của mỗi kịch bản trong mỗi lĩnh vực ngành nghề và đưa ra kịch bản được lựa chọn với những đánh giá khả thi theo góc nhìn chuyên gia để tham khảo. Có hai kịch bản được xem xét cho từng ngành nghề bao gồm:

Kịch bản cơ sở: Được phát triển từ giả định, rằng các điều kiện nguồn lực và cơ chế chính sách dựa trên các phương pháp tiếp cận hiện tại và các kế hoạch và chiến lược đã được xây dựng đến năm 2030. Kịch bản cơ sở thể hiện là kịch bản kinh doanh thông thường cho quốc gia dựa trên các chính sách và kế hoạch đã được phê duyệt. Các ngành kinh tế vẫn phát triển trong không gian biển sẵn có, không gây ra xung đột lớn đến các lĩnh vực kinh tế biển khác. Sự ảnh hưởng đến môi trường của các ngành kinh tế biển vẫn ở mức chấp nhận được. Mức tăng trưởng kinh tế về cơ bản tương tự như mức bình quân 10 năm qua.

Kịch bản kinh tế biển xanh: Các kịch bản xanh được xây dựng dựa trên ý tưởng rằng các can thiệp thực tế và khả thi bổ sung vào năm 2030 có thể thay đổi các kết quả kinh tế và xã hội theo hướng tích cực so với kịch bản cơ sở.

Theo kịch bản xanh, cơ chế chính sách có sự điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu gia tăng chất lượng và đảm bảo bền vững môi trường và duy trì nguồn tài nguyên biển. Sự ảnh hưởng đến môi trường của các ngành kinh tế biển vẫn ở mức chấp nhận được và bắt đầu có những hành động thực tế cải thiện môi trường, làm giàu thêm hệ sinh thái biển như ban hành các chính sách bảo tồn biển và quy hoạch phát triển hệ thống khu bảo tồn biển. Các ngành kinh tế biển vẫn cơ bản phát triển trong không gian biển sẵn có, không gây ra xung đột lớn đến các lĩnh vực kinh tế biển khác. Ngoài ra, các kịch bản xanh cũng hình thành một nền tảng để thúc đẩy tiến trình thực hiện các cam kết khí hậu của Việt Nam, bao gồm trung hòa carbon vào năm 2050.

Một số nội dung chính của các kịch bản kinh tế biển xanh thuộc 6 lĩnh vực nêu trên:

Thủy sản

Kịch bản bền vững này dự đoán rằng, các cơ quan quản lý ở cả cấp trung ương và chính quyền địa phương sẽ có những hành động thích hợp, hiệu quả trong quản lý nghề cá và bảo vệ nguồn lợi thủy sản để cải thiện tính bền vững của nghề cá biển quốc gia theo các quy định trong Luật Thủy sản năm 2017.

Nguồn lợi thủy sản biển ở các vùng biển sâu, gò nổi và thềm lục địa của Việt Nam sẽ được đánh giá đầy đủ trong giai đoạn tiếp theo 2021 - 2030. Trữ lượng nguồn lợi hải sản trong giai đoạn 2021 - 2030 dự báo sẽ được duy trì ở mức 4,365 triệu tấn/năm.

Về sản lượng đánh bắt hằng năm, để đảm bảo phát triển bền vững nghề cá và nguồn lợi thủy sản, sản lượng đánh bắt hằng năm sẽ phải giảm xuống mức sản lượng bền vững tối đa (MSY) là 2,65 - 2,75 triệu tấn/năm trong giai đoạn tiếp theo 2020 - 2030.

Để đạt mức MSY này vào năm 2030, sản lượng khai thác cá biển phải giảm dần 2%/năm trong giai đoạn 2020 - 2030. Mặc dù tổng công suất và số lượng các tàu khai thác vùng ven bờ và vùng lộng sẽ giảm, nhưng hiệu quả quản lý nghề cá sẽ được cải thiện, nhưng vẫn sẽ phải giảm 1%/năm trong giai đoạn 2020 - 2030 vì mục đích bảo vệ và phục hồi tài nguyên, đáp ứng yêu cầu tổng sản lượng khai thác bền vững tối đa hằng năm cũng sẽ giảm 2%/năm như đã đề cập ở trên.

Đối với nuôi, trồng ở biển, khoảng 57.000 ha trong tổng số 500.000 ha diện tích tiềm năng đã được khai thác sử dụng để phát triển nuôi, trồng ở biển trong giai đoạn 2010 - 2019 (chiếm 11,4% diện tích tiềm năng). Với việc đa dạng hóa đối tượng nuôi, trồng ở biển, đầu tư nhiều hơn vào nuôi lồng biển tiên tiến, hiện đại, cải tiến kỹ thuật nuôi và nâng cao năng lực sản xuất giống, đặc biệt là ở các vùng biển hở, khoảng 105.000 hec-ta trong số các khu vực tiềm năng đó có thể được khai thác sử dụng vào nuôi, trồng rong biển, vi tảo biển, cá biển, nhuyễn thể và các loài khác trong giai đoạn tiếp theo với tốc độ tăng trưởng diện tích hằng năm khoảng 5,7%/năm.

Với dự báo sẽ có nhiều nỗ lực hơn nữa trong nghiên cứu công nghệ và cơ chế quản lý hiệu quả hơn lĩnh vực nuôi biển, thì sản lượng và năng suất nuôi biển được dự đoán sẽ tăng lần lượt ở mức 11,8%/năm và 5,8%/năm.

Dầu khí

Kịch bản xanh là trường hợp PetroVietnam chuyển đổi thành công ty năng lượng có mức phát thải thấp. Trong kịch bản này, có một làn sóng đầu tư mới vào thăm dò khai thác: Các mỏ đang khai thác được khuyến khích đầu tư thêm giảm đà suy giảm sản lượng, hệ số bù trữ lượng liên tục có mức cao hơn 1, gia tăng trữ lượng ở mức tốt, các mỏ mới kịp thời được đưa vào phát triển, về tổng thể sản lượng khai thác dầu khí ổn định và cuối 2026 - 2030 tăng dần về mức gần với giai đoạn 2012 - 2015; đóng góp cho nền kinh tế của PetroVietnam được bổ sung các giá trị mới từ điện gió ngoài khơi, các dạng năng lượng tái tạo khác, các sản phẩm và dịch vụ carbon thấp (hydrogen, chôn lấp CO2...). Mặt khác, hoạt động của PetroVietnam sẽ hiệu quả hơn, ít phát thải hơn và ít ảnh hưởng đến môi trường hơn.


Theo dự kiến, PetroVietnam đặt mục tiêu công suất tái tạo 100 megawatt (MW) vào năm 2025 và 900MW vào năm 2035. Điều này phù hợp vì hướng tới duy trì đóng góp hợp lý cho nền kinh tế quốc dân, phát triển theo hướng xanh hơn, vận hành hiệu quả hơn, giảm phát thải CO2 và đóng góp tích cực vào cam kết của Việt Nam tại COP26.


Năng lượng biển tái tạo

Là kịch bản các dự án điện gió ngoài khơi tốt đã được xác định và đề xuất đưa vào Quy hoạch điện VIII sẽ được xem xét khai thác ở mức tối đa tiềm năng kinh tế - kỹ thuật. Kịch bản này cũng sẽ đưa ra động lực quan trọng để thúc đẩy tiến trình đạt được các cam kết khí hậu của Việt Nam.

Theo đó, đến năm 2030, tổng công suất lắp đặt đề xuất sẽ là 10.000MW. Trong đó, các dự án điện gió gần bờ là 4.500MW; dự án điện gió ngoài khơi (nằm trong phạm vi từ 3 hải lý tính từ đường ranh giới trên biển đến 50 km) là 5.000MW; dự án điện gió ngoài khơi (trên 50km) là 500MW.

Như vậy, trong kịch bản xanh, tỷ lệ sản xuất điện từ các nguồn điện gió ngoài khơi được nối lưới cao hơn so với kịch bản cơ sở do lượng điện gió ngoài khơi được phát triển tương đối lớn, chiếm 8,03% vào năm 2030. Tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính đạt 40,24 triệu tấn (CO2 tương đương) vào năm 2030. Do đó, hỗ trợ tài chính tăng lên đáng kể so với kịch bản cơ sở do chi phí xây dựng móng và cáp điện tăng.


Vấn đề cơ bản cần xem xét sẽ bao gồm tiềm năng khai thác kinh tế, kỹ thuật của các nguồn điện gió ngoài khơi, khả năng và các nguồn hỗ trợ tài chính sẵn có trong điều kiện của Việt Nam, nhu cầu điện giai đoạn đến năm 2030 trong điều kiện và khả năng cung cấp nguồn năng lượng sơ cấp trong nước như than, dầu, khí đốt và thủy điện lớn bị hạn chế và sẽ thiếu hụt. Trong khi đó, tiềm năng các nguồn điện gió ngoài khơi tương đối cao, nếu tổ chức tốt việc khai thác sẽ thay thế một phần nguồn năng lượng truyền thống đang cạn kiệt, tạo ra nguồn năng lượng xanh, sạch góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển bền vững.

Du lịch biển và ven biển

Kịch bản xanh trong du lịch biển xem xét các yếu tố liên quan như: Tác động của biến đổi khí hậu, đại dịch Covid-19. Tập trung phát triển bền vững, chú trọng hiệu quả kinh doanh thông qua nâng cao chất lượng (dẫn đến tăng chi tiêu của khách du lịch), đa dạng hóa sản phẩm du lịch và kéo dài thời gian lưu trú của du khách.

Thị trường quốc tế: Lượng khách quốc tế năm 2022 bằng 30% năm 2019, tăng trưởng năm 2023 là 5%, giai đoạn 2024 - 2025 là 4%/năm và năm 2026 - 2030 sẽ là 3% mỗi năm (bằng mức trung bình thế giới).

Thị trường trong nước: Năm 2022 bằng 80% mức của năm 2019, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2022 - 2023 là 6%/năm, giai đoạn 2024 - 2025 là 5%, giai đoạn 2026 - 2030 tăng trưởng 3%/năm.

Thời gian lưu trú trung bình của khách du lịch quốc tế tại Việt Nam: 8,5 ngày (năm 2025) và 9 ngày (năm 2030); chi tiêu bình quân của khách du lịch quốc tế: 190USD/ngày (năm 2025) và 250USD/ngày (năm 2030). Chi tiêu bình quân của khách du lịch trong nước năm 2025 là 100USD/ngày và 130USD/ngày vào năm 2030.

Có thể thấy, kể cả khi tổng lượng khách du lịch thấp hơn nhưng chi tiêu cao hơn, thời gian lưu trú dài hơn trên mỗi du khách thì hiệu quả kinh doanh du lịch sẽ cao hơn, thu nhập sẽ cao hơn trong khi lượng khí thải thấp hơn do ít đi lại hơn. Để đạt được điều này, các sản phẩm du lịch cần đa dạng hơn nữa, nâng cao chất lượng dịch vụ và khuyến khích các loại hình du lịch có thời gian kéo dài.

Hàng hải

Trọng tâm đối với kinh tế hàng hải của Việt Nam là khai thác có hiệu quả các cảng biển và dịch vụ vận tải biển. Quy hoạch, xây dựng, tổ chức khai thác đồng bộ, có hiệu quả các cảng biển tổng hợp, cảng trung chuyển quốc tế, cảng chuyên dùng gắn với các dịch vụ hỗ trợ; xây dựng hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông các cảng biển với các vùng, miền, địa phương trong nước và quốc tế.

Phát triển cảng biển theo mô hình cảng xanh: Xác định tiêu chí cảng xanh và tổ chức triển khai áp dụng thí điểm mô hình cảng xanh phù hợp với điều kiện Việt Nam; từng bước triển khai mô hình cảng xanh phù hợp với điều kiện Việt Nam; thúc đẩy việc sử dụng công nghệ sạch, carbon thấp, thân thiện với môi trường trong hoạt động kinh doanh khai thác cảng, đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, ứng phó với biến đổi khí hậu; áp dụng bắt buộc tiêu chí cảng xanh từ năm 2030.

Kịch bản xanh cho vận tải biển đến năm 2030 tương ứng phương án cao theo Quy hoạch được duyệt. Đối với phát triển đội tàu quốc gia, mặc dù số lượng và trọng tải năm 2030 giảm nhẹ so với hiện nay, nhưng thị phần vận tải quốc tế vẫn duy trì ở mức 10% do đội tàu phát triển theo hướng hiện đại, tăng khả năng khai thác hiệu quả. Năng lực thông qua hệ thống cảng biển đạt 1444 triệu tấn vào năm 2030, riêng năng lực thông qua container đạt 47,0 triệu TEU.

Nhu cầu vận tải biển gắn liền với khối lượng thông qua cảng biển đồng nghĩa với đòi hỏi hệ thống có đủ năng lực đáp ứng. Phát triển đội tàu quốc gia cũng gắn liền với nhu cầu vận tải biển với nhiệm vụ đảm nhận 100% nhu cầu vận tải biển nội địa và tăng thị phần vận tải quốc tế.

Môi trường, đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái biển

Môi trường, đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển là một trong ba trụ cột của phát triển bền vững nên việc sử dụng khôn khéo các hệ sinh thái biển cho phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng mang lại những lợi ích kép và góp phần thực hiện thành công 17 mục tiêu SDGs đến năm 2030.

Theo đó, để bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học biển phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế biển xanh, cần thiết phải thực hiện một số giải pháp: Tăng cường áp dụng các công cụ kinh tế, cơ chế dựa vào thị trường (MBA) trong quản lý, khai thác, sử dụng môi trường, đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển.

Lựa chọn các mô hình kinh tế biển bền vững, mô hình kinh tế tuần hoàn phù hợp với mục tiêu vừa phát triển kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, hàng hóa trên thị trường vừa góp phần bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển.

Khai thác các giá trị của khu bảo tồn, cảnh quan thiên nhiên, kết hợp bảo tồn với phát triển du lịch sinh thái; tiếp tục mở rộng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường biển, đất ngập nước ven biển để tạo nguồn thu đầu tư bảo vệ, phục hồi, phát triển đa dạng sinh học và cảnh quan thiên nhiên.

Nghiên cứu, thử nghiệm tiếp cận chế đồng quản lý nguồn lợi thủy sản, áp dụng chứng chỉ sinh thái, tiếp cận các cơ chế thị trường khác trong khai thác nguồn lợi thủy sản; lập ngân hàng dữ liệu, bản đồ về các vùng đất ngập nước tự nhiên ven biển, các thảm cỏ biển, rạn san hô và các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù khác.

5. Nhận diện một số thách thức chính đối với kinh tế biển xanh

Thách thức về địa chính trị: Khu vực Biển Đông là một trong những vùng biển còn có tranh chấp giữa nhiều bên liên quan. Đây là một trong những yếu tố không thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của toàn vùng. Vì vậy, trong thời gian tới, cần ưu tiên đẩy mạnh các hoạt động để giải quyết những tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán giữa các bên liên quan trong khu vực Biển Đông.

Hạn chế về năng lực tài chính: Việt Nam vẫn là nước đang phát triển với mức GDP/người còn thấp (khoảng 3.520 USD/người năm 2020). Điều đó cho thấy, sự hạn chế rất lớn về năng lực tài chính, kể cả khu vực tài chính công lẫn của các doanh nghiệp tư nhân. Nhìn chung, việc chuyển đổi các ngành, các cơ sở sản xuất từ “nâu” sang “xanh” cũng đồng thời là quá trình tái cơ cấu lại quy trình sản xuất, công nghệ, kỹ thuật. Công nghệ sản xuất “xanh” về cơ bản là loại công nghệ mới, thâm dụng vốn, giá cả đắt nên không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận. Ngoài ra, chi phí xây dựng kết cấu hạ tầng của hầu hết các lĩnh vực kinh tế biển đều đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn.

Hạn chế về năng lực khoa học - công nghệ biển: Sự hạn chế về năng lực khoa học - công nghệ biển thể hiện qua một loạt các biểu hiện như công tác điều tra, thăm dò tài nguyên biển còn yếu và thiếu; năng lực sản xuất các loại thiết bị truyền thống phục vụ phát triển kinh tế biển như đóng tàu, xây dựng bến cảng...; các cơ sở nghiên cứu khoa học về biển, nghiên cứu và phát triển trong các lĩnh vực liên quan đến kinh tế biển còn ít.

Hạn chế về nhân lực: Là một quốc gia biển nhưng lực lượng lao động làm việc trong những ngành nghề trực tiếp liên quan đến biển còn ít về số lượng và yếu về chất lượng. Phần lớn tri thức nghề nghiệp của lao động có được đều do tự tích lũy kinh nghiệm, không qua hệ thống đào tạo chính quy. Đây cũng là một điểm hạn chế không nhỏ cần được giải quyết trong phát triển kinh tế biển xanh thời gian tới.

Ngoài ra, quản lý phát triển kinh tế biển xanh đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực cải cách thể chế nhiều hơn nữa. Trong đó, cần đẩy nhanh quy hoạch không gian biển và các chính sách là cần thiết để khai thác tiềm năng to lớn của ngành kinh tế biển, cân bằng sự tăng trưởng của các lĩnh vực liên kết chặt chẽ giữa các ngành, vì sự phát triển của một ngành có thể tác động đến những ngành khác.

6. Kết luận

Đại dương là một cơ thể sống, là không gian sinh tồn của các loài sinh vật, trong đó có con người. Việc khai thác các tài nguyên biển phục vụ cuộc sống con người sẽ ngày càng gia tăng, ngày càng đa dạng hơn do sức sản xuất và khoa học công nghệ ngày càng phát triển. Nhu cầu và năng lực khai thác các tài nguyên biển ngày càng tăng trên tất cả mọi ngành/lĩnh vực.

Tuy nhiên, việc khai thác chúng ngày càng bộc lộ sự đánh đổi: sự gia tăng, mở rộng khai thác kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đến môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển. Vì vậy, đặt ra yêu cầu tìm kiếm và xác định điểm cân bằng trong phát triển giữa các ngành nghề kinh tế biển, giữa khai thác và bảo tồn các nguồn tài nguyên biển.

Phát triển kinh tế biển xanh là một vấn đề mới, mức độ thành công thuộc vào nhiều yếu tố, cả khách quan lẫn chủ quan. Mặc dù có nhiều thách thức, nhưng cũng có những cơ hội rõ ràng cho sự phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam. Phát triển kinh tế biển xanh là một định hướng quan trọng trong số các hoạt động phát triển kinh tế xã hội của đất nước, để hướng đến mục tiêu cao hơn, như mục cam kết trung hòa carbon vào năm 2050.

Việt Nam cần tận dụng tốt các cơ hội để vừa phát triển bền vững kinh tế biển, vừa bảo vệ được tài nguyên biển cho sự phát triển của các thế hệ mai sau. Tuy nhiên, khung chính sách thông qua Nghị quyết 36 và rộng hơn là SDGs đưa ra định hướng chính sách rõ ràng về phía trước và nghiên cứu này cung cấp tổng hợp về nền kinh tế xanh để giúp định hình việc thực hiện.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2018). Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. VASI, UNDP (2022). Kinh tế biển xanh Việt Nam: Hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển. Hà Nội, tháng 5/2022.
3. Nguyễn Chu Hồi (2020), Kinh tế biển xanh: Các vấn đề và cách tiếp cận cho Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật.
4. Nguyễn Đình Đáp (2020), Giải pháp phát triển nền kinh tế biển xanh cho Việt Nam, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số tháng 6/2020.
5. Nguyễn Đình Đáp (2021). Xây dựng và phát triển kinh tế biển xanh cho Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng số 14/2021.
6. World bank (2017). The potential of the blue economy: Increasing long-term benefits of the sustainable use of marine resources for small island developing states and coastal least developed countries.
7. Nguyễn Chu Hồi, Cao Lệ Quyên và Đỗ Song Hào (2020). Vai trò của ngư dân trong phát triển nghề cá biển bền vững và có trách nhiệm ở Việt Nam. Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, số 18/2020.


TS. Nguyễn Đình Đáp, TS. Đoàn Thị Thu Hương

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội bền vững theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội bền vững theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Quản lý phát triển xã hội thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của toàn thể Nhân dân, của quốc gia, dân tộc, trong đó Nhà nước là chủ thể quan trọng, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp là nòng cốt, Nhân dân là chủ thể quyết định...
Nghịch lý tài chính trong thực thi ESG tại doanh nghiệp Việt Nam: Hàm ý đối với tín dụng xanh

Nghịch lý tài chính trong thực thi ESG tại doanh nghiệp Việt Nam: Hàm ý đối với tín dụng xanh

Nghiên cứu làm rõ thực trạng triển khai ESG tại doanh nghiệp Việt Nam, cho thấy sự phân hóa mạnh giữa các tập đoàn lớn và khối doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đặc biệt trong khả năng thu thập dữ liệu, quản trị phát thải và đáp ứng các tiêu chuẩn báo cáo quốc tế. Phát hiện “nghịch lý tài chính” - khi doanh nghiệp dù hạn chế nguồn lực vẫn xem ESG như một khoản đầu tư chiến lược nhằm nâng cao khả năng tiếp cận vốn - khẳng định ESG đã trở thành động lực tài chính mới chứ không chỉ là yêu cầu tuân thủ.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Đây là lần đầu tiên, bảo vệ môi trường được xác định là trụ cột, điều kiện, động lực của mô hình phát triển nhanh, bền vững, phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa xanh và cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam.
Áp dụng chuẩn mực quốc tế trong xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững tại Agribank

Áp dụng chuẩn mực quốc tế trong xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững tại Agribank

Bài viết phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn và lộ trình xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững của Agribank theo các chuẩn mực quốc tế, qua đó làm rõ vai trò của báo cáo như một công cụ chiến lược giúp nâng cao minh bạch môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (ESG), tăng khả năng tiếp cận vốn xanh và uy tín thương hiệu.
Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Nhìn tổng thể, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong giai đoạn phát triển mới, một Đảng kiên định, đổi mới và hành động vì hạnh phúc của nhân dân, vì một Việt Nam phồn vinh, hùng cường và thịnh vượng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Trong bối cảnh không gian mạng trở thành phần tất yếu của đời sống xã hội, việc xây dựng “thế trận số” vững chắc và chủ động làm chủ truyền thông số là yêu cầu chiến lược để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và lan tỏa các giá trị đúng đắn, tích cực trong xã hội.
Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển bùng nổ của công nghệ, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang đối diện với thách thức chưa từng có từ những “cơn bão” thông tin sai lệch, xuyên tạc trên môi trường số.
Xem thêm
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô