Vấn đề hộp đen của trí tuệ nhân tạo có thể giải quyết bằng cách nào?

Công nghệ & ngân hàng số
Các nhà công nghệ ngân hàng đã làm nóng ý tưởng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ máy học trong nhiều lĩnh vực như cho vay, tuân thủ chống rửa tiền và thu nợ. Nhưng các ngân hàng cũng phải đ...
aa

Các nhà công nghệ ngân hàng đã làm nóng ý tưởng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ máy học trong nhiều lĩnh vực như cho vay, tuân thủ chống rửa tiền và thu nợ. Nhưng các ngân hàng cũng phải đối mặt với vấn đề “hộp đen” khi họ cố gắng sử dụng AI. Họ không thể vận hành một mô hình AI trừ khi có thể chứng minh với lãnh đạo ngân hàng và các cơ quan quản lý rằng, mô hình đó đảm bảo công bằng, an toàn và có khả năng giải thích rõ ràng lý do đằng sau các quyết định được đưa ra.

Douglas Merrill, giám đốc điều hành và người sáng lập của ZestFinance, công ty cung cấp phần mềm dựa trên máy học để cho vay và tuân thủ các quy tắc chống rửa tiền nói rằng, trừ mảng chống gian lận thì các dịch vụ tài chính hầu như chưa sử dụng máy học. Không phải vì các công ty tài chính không đủ trình độ. Mỗi tổ chức tài chính lớn đều có người nghiên cứu về máy học và tất cả những người đó đều biết các thuật toán mới tốt hơn nhiều so với các thuật toán cũ. Nhưng vẫn chưa có thuật toán nào được đưa vào sử dụng, chủ yếu là vì vướng các quy định của cơ quan quản lý, chẳng hạn như khả năng giải thích.


Một chuyên gia giấu tên nói “Nỗi sợ lớn nhất của tôi khi đề xuất áp dụng máy học vào bất kỳ việc gì là câu trả lời "Tôi không nghĩ các cơ quan quản lý đã sẵn sàng". Tôi có thể dùng máy học để phát hiện những trường hợp bất thường. Nhưng khi vấn đề liên quan tới cách đối xử với con người hay áp dụng chính sách với khách hàng thì các cơ quan quản lý bắt đầu trở nên khó khăn. Họ đã quen với việc nhìn thấy một sơ đồ - nếu bạn dùng điều kiện này, bạn sẽ nhận được điều này.”

Bao giờ chúng ta sẽ có giải pháp nào cho vấn đề này? Khi nào AI có thể phát huy những tiềm năng của nó trong các dịch vụ tài chính? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu thực tế thị trường ứng dụng AI tại Mỹ để hiểu thêm về xu hướng này.

Thành kiến không rõ từ đâu tới

Khả năng giải thích được cần tới nhất trong lĩnh vực cho vay. Ý tưởng đưa ra quyết định cho vay dựa trên một thuật toán hộp đen là nỗi kinh hoàng đối với các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng và các nhà quản lý. Điều gì xảy ra nếu hộp đen đưa ra các quyết định có tương quan lớn với sắc tộc? Điều gì sẽ xảy ra nếu hộp đen bắt chước hành vi phân biệt đối xử của con người? Ví dụ như: những người thuộc một câu lạc bộ golf nào đó sẽ đương nhiên có xếp hạng tín dụng tốt.

David Berglund, phó chủ tịch cấp cao về trí tuệ nhân tạo tại U.S. Bank, cho biết việc sử dụng bất kỳ công nghệ nào cũng có rủi ro và việc sử dụng AI, học máy trong bảo lãnh cho vay không phải là trường hợp ngoại lệ. Chúng tôi lưu tâm đến sự cần thiết phải hạn chế sự thiên vị, đảm bảo sự công bằng và duy trì khả năng kiểm soát.

Nhưng một số người cho rằng, so với tất cả các sai lầm tiềm năng của AI, hệ thống hiện tại (không có AI) còn tồi tệ hơn. Paul Gu, đồng sáng lập Upstart - một công ty cho vay trực tuyến cung cấp nền tảng cho vay dựa trên AI của mình cho Customers Bancorp, BankMobile và một số đơn vị khác, phản đối mạnh mẽ ý tưởng cho rằng việc sử dụng dữ liệu thay thế và AI dẫn đến sự phân biệt đối xử. Ông cho rằng: “Các phương thức bảo lãnh truyền thống cũng không công bằng. Nếu một người lo lắng về việc các ngân hàng chỉ cho những người khá giả vay, thử hỏi họ có sử dụng dữ liệu về thu nhập của khách hàng (khi quyết định cho vay) không? Thế nào là người khá giả? Thường là điểm tín dụng (FICO) cao. Bạn nghĩ gì về tỷ lệ người trong một chủng tộc nhất định có điểm FICO cao? Nếu bạn so sánh con số đó với tỷ lệ phần trăm của những người ở các tổ chức giáo dục hàng đầu của Hoa Kỳ thì một trong những con số đó còn tốt hơn so với con số kia. Điều đó không có nghĩa là ngân hàng phản đối giáo dục. Chúng tôi có thể cải thiện đáng kể khả năng tiếp cận tín dụng”, ông nói. “Nhiệm vụ của chúng tôi là, với những người thực sự sẽ trả lại một khoản vay, chúng tôi muốn cho họ vay với lãi suất thấp nhất có thể.”

Khả năng giải thích của trường phái cũ

Berglund so sánh khả năng giải thích với việc một học sinh làm bài kiểm tra của mình. Bạn có thể đã trả lời đúng, nhưng bạn có thể làm điều đó một cách nhất quán theo thời gian và làm tốt cả các bài kiểm tra mới không? Ngày nay, những người tiêu dùng bị từ chối cho vay được biết lý do từ chối hoặc các hành động bất lợi đã khiến họ không được vay. Đôi khi các lý do đó được gửi thẳng từ đơn vị xếp hạng tín dụng. Merrill nói “Dữ liệu của chúng tôi cho thấy gần như 80% những lý do đó là sai.”

Ông cũng chỉ trích hiện trạng tại các ngân hàng: “Các hành động bất lợi của khách hàng - mà hầu hết các tổ chức cho vay chỉ ra - được thiết kế cho một thế giới bảo lãnh nhị phân thuần túy, trong đó bảo lãnh được phát hành nếu điểm tín dụng của bạn đạt mức này, nếu tỷ lệ nợ trên thu nhập của bạn ở mức này thì chấp nhận được”.

Các mã hành động bất lợi được chỉ ra bởi các hệ thống cho vay cũ thường không đúng, và thậm chí không thể sửa được. Đôi khi, người ta bảo khách hàng rằng anh ta/cô ta không thể vay tiền vì chưa vay đủ nhiều.

Những người trở nên giàu hoặc thăng tiến một cách đột ngột (Upstart) đã gây tranh cãi vì mô hình của họ xem xét dữ liệu về giáo dục của ứng viên - bằng cấp, trường học, lĩnh vực học tập và năm tốt nghiệp - bên cạnh dữ liệu về người sử dụng lao động và nghề nghiệp, dữ liệu từ chính đơn xin vay và dữ liệu của tổ chức xếp hạng tín dụng truyền thống. Họ đã được Cục Bảo vệ Tài chính Người tiêu dùng cho phép hoạt động sau khi gửi cho cơ quan này thông tin chi tiết về tất cả các đơn xin vay mà họ nhận được, phê duyệt và từ chối. Những Upstart có đủ khả năng giải thích mô hình của họ. Berglund ho rằng: “Nếu bạn từ chối cho một người nào đó vay, bạn phải giải thích rõ lý do. Chúng tôi làm được điều đó; đó là một vấn đề có thể giải quyết. Bạn có một mô hình phức tạp nhưng toán học có thể giải quyết các bài toán phức tạp. Mô hình của chúng tôi giúp bạn đưa ra những lý do để giải thích với khách hàng, những lý do mà theo chúng tôi là tốt hơn lý do của những hệ thống kiểu cũ.”

Tương tự, Scott Zoldi, chuyên gia phân tích trưởng của FICO nói rằng, phần mềm chống rửa tiền dựa trên AI của công ty ông có thể xác định lý do cho mỗi giao dịch rửa tiền tiềm ẩn mà nó đánh dấu. “Nếu mỗi quyết định đi kèm với một mã lý do và kèm theo cả một câu chuyện nhân bản thì khách hàng (của FICO) có thể giải thích tại sao họ chặn một giao dịch và đó là một cách giải thích tốt hơn hẳn. Mô hình máy học không chỉ cần có khả năng giải thích theo cách hàn lâm. Cần có một người ở đầu kia điện thoại có khả năng nói với tôi bằng ngôn ngữ của con người về việc tại sao giao dịch của tôi bị chặn. Đó chính là hướng tiến hóa (của các thuật toán).”

Những dạng mới của khả năng giải thích

Các nhà khoa học đã tạo ra những kỹ thuật để đưa ra lời giải thích từ các mô hình toán của máy học. Một trong số đó là LIME, xuất hiện năm 2016. Một kỹ thuật phổ biến khác xuất hiện năm 2017 với tên gọi là SHAP (từ viết tắt của SHapley Additive exPlanations). Cả ZestFinance và underwrite.ai đều sử dụng SHAP.

Theo tổng giám đốc Marc Stein, underwrite.ai đã tạo ra những mô hình có khả năng giải thích đầy đủ từ năm 2014. “Đó không phải là thứ mới. Với mỗi quyết định, chúng tôi có thể xem xét kỹ mô hình và nói những thuộc tính nào dẫn bạn tới kết luận (về việc cho vay hay không)”. Nếu mô hình của underwrite.ai từ chối một đơn xin vay, nó sẽ cung cấp những dữ liệu quan trọng nhất đã góp phần đưa đến quyết định đó. Nó có thể là một vụ phạm pháp hay một tiền sự.

“Đó không phải là một quy tắc cứng nhắc. Chúng tôi không nói rằng “Từ chối bất kỳ ai có tiền sự”, Stein nói. “Nhưng mô hình đã học được rằng nếu có nhiều tiền án tiền sự thì khả năng một người là khách hàng tốt khá thấp. Rất dễ để ánh xạ những dữ liệu đó với các mã từ chối nên có thể giải thích rõ rằng cho khách hàng. Chúng tôi phấn khích với việc những khoản đầu tư ngày càng tăng được đổ vào thị trường AI có khả năng giải thích”.

Thuyết phục các cơ quan quản lý

Trong những cuộc trao đổi riêng, các ngân hàng thường nói rằng tuy cơ quản quản lý thể hiện sự cởi mở với việc sử dụng AI nhưng những thanh tra ở địa phương thường không hiểu công nghệ và sẽ phản đối họ. Zoldi nói nhiều ngân hàng đã yêu cầu ông giải thích cho các cơ quan quản lý địa phương về cách các công cụ chống rửa tiền dựa trên AI của FICO hoạt động. Đôi khi họ bảo rằng “Nếu tôi không làm mọi thứ theo cách cũ thì tôi sẽ bị phạt rất nặng”.

Các cơ quan quản lý Hoa Kỳ đã thực hiện một số động thái thúc đẩy việc ứng dụng AI. Họ đã ban hành một tuyên bố chung vào tháng 12, khuyến khách việc sử dụng AI để tuân thủ Luật bí mật ngân hàng (Bank Secrecy Act) và các quy tắc chống rửa tiền khác. Họ nói rằng, phần mềm AI xứng đáng để thử nghiệm. Tuy nhiên, không rõ điều đó đã đủ để các ngân hàng cảm thấy tin tưởng hay chưa. Hơn thế, một số ngân hàng còn muốn vượt khỏi phạm vi chống rửa tiền và sử dụng AI trong cho vay và các lĩnh vực khác.

Merrill ở ZestFinance nói ông đã dành thời gian làm việc với các cơ quan quản lý, giải thích cơ chế hoạt động của phần mềm máy học do công ty ông phát triển.“Chúng tôi đang có những bước tiến lớn nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm.”

Stein nói, ông đã thảo luận nhiều lần với những người ở Cục Bảo vệ Tài chính Người tiêu dùng về AI và những kiểu dữ liệu mà công ty ông dùng trong các mô hình. “Phản ứng của họ luôn là ‘Chúng tôi không quan tâm đến quy trình kỹ thuật, chúng tôi quan tâm đến việc tuân thủ các quy định. Nếu một khách hàng bị từ chối, ông có thể giải thích cho anh ta/cô ta tại sao họ bị từ chối không? Khả năng giải thích của mô hình có ổn định không?’”

Chẳng hạn, nếu một mô hình nói một tiền sự là lý do khiến ngân hàng từ chối cho vay thì cần phải có một tiền sự trong hồ sơ của khách hàng xin vay bị từ chối. Đó không phải là một tình huống hộp đen.

Tài liệu tham khảo:

https://www.information-management.com/news/can-ais-black-box-problem-be-solved.

Tuấn Anh

Nguồn: TCNH chuyên đề THNH số 4/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn  tài chính - ngân hàng

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn tài chính - ngân hàng

Bảo mật khả dụng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, giúp cân bằng giữa an toàn và trải nghiệm người dùng. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng bảo mật Fintech tại Việt Nam, xác định những thách thức chính ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Fintech. Bài viết đề xuất bộ nguyên tắc bảo mật khả dụng gồm năm tiêu chí: Minh bạch, xác thực linh hoạt, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng dụng AI và tối ưu trải nghiệm người dùng. Các nguyên tắc này giúp xây dựng một hệ thống bảo mật an toàn nhưng vẫn bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp với hành vi người dùng Việt Nam. Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp Fintech cần áp dụng nguyên tắc này vào sản phẩm, dịch vụ; ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để nâng cao tiêu chuẩn bảo mật, còn cơ quan quản lý cần ban hành các quy định phù hợp về bảo mật khả dụng trong Fintech.
Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), là một trong “Bộ tứ chiến lược” hướng đến mang lại sản phẩm tiện tích cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế số, giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Nghị quyết 57, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là động lực, chủ thể cho sự phát triển.
Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Bài toán cấp tín dụng là một trong những vấn đề trọng yếu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính hoặc các nền tảng cho vay ngang hàng. Mục tiêu của bài toán này là đánh giá rủi ro tín dụng của từng khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra quyết định liệu có nên cấp tín dụng hay không, nếu có thì với điều kiện như thế nào. Trong thực tế, việc đưa ra quyết định cấp tín dụng không chỉ đơn thuần là lựa chọn giữa “cấp” hay “không cấp”, mà là một quá trình ra quyết định phức tạp, cần cân bằng giữa rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận kỳ vọng. Một quyết định sai lầm, ví dụ như cấp tín dụng cho khách hàng có khả năng vỡ nợ, có thể dẫn đến tổn thất tài chính nghiêm trọng. Ngược lại, từ chối một khách hàng có khả năng hoàn trả tốt cũng là bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai là xu hướng mới đầy tiềm năng, hứa hẹn tái định nghĩa trải nghiệm ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Sự xuất hiện của bản sao số khách hàng đánh dấu bước chuyển đổi căn bản trong ngành Ngân hàng, từ mô hình quản lý khách hàng phản ứng sang chiến lược chủ động dựa trên dự đoán và tương tác cá nhân hóa sâu. Bằng cách xây dựng các mô hình ảo động, bản sao số khách hàng cho phép ngân hàng mô phỏng hành vi, dự báo nhu cầu và phân tích động lực đằng sau quyết định tài chính của từng cá nhân. Giá trị cốt lõi của bản sao số khách hàng nằm ở khả năng siêu cá nhân hóa dịch vụ, thúc đẩy lòng trung thành và tối ưu hóa giá trị vòng đời khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý rủi ro và đổi mới sản phẩm.
Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Bài nghiên cứu này đã nêu rõ vai trò chuyển đổi của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận, nhấn mạnh khả năng phân tích tập dữ liệu giao dịch khổng lồ, xác định các điểm bất thường và tăng cường bảo mật ngân hàng số... Việc trí tuệ nhân tạo và học máy được áp dụng rộng rãi sẽ phụ thuộc vào cách các tổ chức tài chính điều chỉnh chiến lược của mình để thích ứng hiệu quả hơn với các mô hình đang ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn bởi các quy định. Sự thành công của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận sẽ được quyết định bởi việc đổi mới công nghệ, chia sẻ thông tin tình báo về gian lận và các biện pháp quy định nhằm cân bằng giữa đạo đức trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong ngân hàng số.
Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Bài viết đề cập đến vai trò then chốt của ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện và xu thế toàn cầu hóa. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều chiến lược thúc đẩy chuyển đổi số, hiện đại hóa hoạt động toàn ngành. Bài viết đồng thời phân tích nhiệm vụ, thành tựu, khó khăn trong quá trình này và đề xuất giải pháp giúp ngành Ngân hàng thực hiện sứ mệnh phát triển trong thời kỳ mới.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng