Vai trò của vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo đối với năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững quốc gia

Nghiên cứu - Trao đổi
Vốn trí tuệ và đổi mới sáng tạo là những chủ đề đã và đang dành được sự quan tâm đáng kể của các nhà nghiên cứu trên thế giới trong bối cảnh những thách thức xuất phát từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghiên cứu này nhằm cung cấp bức tranh tổng thể về vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo trong mối liên hệ với phát triển bền vững và toàn diện, bên cạnh cách thức tiếp cận trong thực tế về vấn đề này ở một số quốc gia châu Âu.
aa

Tóm tắt: Vốn trí tuệ và đổi mới sáng tạo là những chủ đề đã và đang dành được sự quan tâm đáng kể của các nhà nghiên cứu trên thế giới trong bối cảnh những thách thức xuất phát từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghiên cứu này nhằm cung cấp bức tranh tổng thể về vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo trong mối liên hệ với phát triển bền vững và toàn diện, bên cạnh cách thức tiếp cận trong thực tế về vấn đề này ở một số quốc gia châu Âu. Nội dung nghiên cứu này cung cấp cơ sở lí thuyết để đánh giá tác động của vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo, từ đó nâng cao lợi thế cạnh tranh của không chỉ dưới góc độ tổ chức mà còn cả phạm vi quốc gia.

Từ khóa: Vốn trí tuệ, kinh tế sáng tạo, năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững.

ROLES OF INTELLECTUAL CAPITAL AND CREATIVE ECONOMY TO THE NATION’S COMPETITIVENESS AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT

Abstract: Intellectual capital and innovation are topics that have received considerable attention from researchers around the world in the context of challenges arising from the Fourth Industrial Revolution. With that in mind, this study aims to provide an overall picture of intellectual capital and the creative economy in relation to inclusive and sustainable development, in addition to practical approaches to these topics in some European countries. This study provides a theoretical basis for assessing the impact of intellectual capital and the creative economy, thereby enhancing the competitive advantage of not only organizations but also countries.

Keywords: Intellectual capital, creative economy, competitiveness, sustainable development.

1. Đặt vấn đề

Trong những thập kỉ qua, tài sản vô hình nói chung và vốn trí tuệ cũng như sự sáng tạo nói riêng được các học giả quốc tế thừa nhận như là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng thông minh, bền vững và toàn diện. Điều này chủ yếu đến từ sự đóng góp ngày một gia tăng của các tài sản vô hình đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh kỉ nguyên số (Nguyen và Lu, 2023). Khi thế giới ngày càng dựa nhiều vào tri thức và đổi mới sáng tạo, tài sản vô hình đang tạo ra sự khác biệt trong cách thức mà các quốc gia lựa chọn sử dụng nguồn lực tài nguyên. Theo đó, việc khai thác và tận dụng tài sản vô hình đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược tạo dựng lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Hơn nữa, vốn trí tuệ và việc khai thác năng lực sáng tạo, khả năng đổi mới của người dân trong cộng đồng cũng là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển thông minh, bền vững và toàn diện trong dài hạn. Điều này cho thấy, một bước ngoặt trong kinh tế học khi chuyển từ lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên các yếu tố ngoại sinh như tài sản hữu hình và các yếu tố đầu vào trong sản xuất truyền thống sang lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên các yếu tố nội sinh như tài sản vô hình và năng lực cốt lõi của con người (Lữ Hữu Chí và cộng sự, 2022).

Trên tinh thần đó, việc tìm hiểu khái niệm về vốn trí tuệ (Intellectual capital) và nền kinh tế sáng tạo (Creative economy), đồng thời, đánh giá tác động của chúng đối với sự phát triển bền vững và toàn diện là điều cần thiết không những dưới góc độ vi mô (các doanh nghiệp), mà còn dưới góc độ vĩ mô (quốc gia). Thực tế cho thấy, không có một định nghĩa thống nhất và được chấp nhận rộng rãi cho cả vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo. Trong lịch sử kinh tế, các nhà kinh tế học thường đề cập đến sự giàu có của quốc gia dưới dạng đóng góp của các yếu tố sản xuất truyền thống như đất đai, tài nguyên thiên nhiên và vốn (Akpinar và Akdemir, 1999). Tuy vậy, công nghệ thông tin, tri thức và sáng tạo luôn được xem là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội thông minh, bền vững và toàn diện.

Phát triển thông minh, bền vững và toàn diện được coi là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của thế giới ngày nay. Cốt lõi của việc thực hiện mục tiêu này là phải tính đến khả năng sử dụng vốn trí tuệ và khả năng sáng tạo của con người để tạo ra các ý tưởng, giải pháp sáng tạo và đổi mới sẽ được sử dụng để giải quyết các vấn đề cấp bách và cần thiết. Vốn trí tuệ không chỉ mới xuất hiện như là thuộc tính cần thiết của nền kinh tế hiện đại. Từ xa xưa, tri thức hay vốn trí tuệ đã luôn là nguồn gốc của sự giàu có, thịnh vượng và hạnh phúc. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1961, nhưng nếu quay lại nửa sau của thế kỉ thứ XVIII, Adam Smith đã thừa nhận nguồn nhân lực là nhân tố thứ tư của một quá trình sản xuất (Smith, 1990). Ngày nay, ý nghĩa của các tài sản vô hình như vốn trí tuệ, kiến thức, sáng tạo và đổi mới được kết nối chặt chẽ với các cách tiếp cận mới liên quan đến quan điểm hiện đại về năng lực cạnh tranh dài hạn, tiến bộ, phát triển thông minh và bền vững.

Khi nhận thức về tầm quan trọng của vốn trí tuệ, tri thức, tính sáng tạo và đổi mới trong việc tạo ra, bảo tồn và gia tăng của cải và thịnh vượng, rất nhiều học giả đã quan tâm hơn đến việc tìm ra những cách thức để đánh giá các lĩnh vực của nền kinh tế mới nơi tri thức, vốn trí tuệ, sáng tạo và đổi mới có tác động lớn hơn. Do đó, loại hình kinh tế mới này được tích hợp trong các khái niệm rộng hơn như xã hội dựa trên tri thức và đổi mới, kỉ nguyên mạng và kĩ thuật số hay nền kinh tế văn hóa, sáng tạo. Một trong những kết luận chính mà các nhà nghiên cứu rút ra dựa trên những cách tiếp cận mới này là vốn trí tuệ, kiến thức và sự sáng tạo đã trở thành những nguồn quý giá trong việc tạo nên lợi thế cạnh tranh lâu dài và sự phát triển bền vững không chỉ đối với cộng đồng địa phương, mà còn là các tổ chức, tập đoàn và quốc gia về mặt kinh tế với sự nỗ lực tham gia ở cả cấp độ cá nhân, tổ chức và quốc gia (Florida, 2002).

2. Mối liên hệ giữa vốn trí tuệ, nền kinh tế sáng tạo và sự phát triển bền vững

Trước tiên, cần giải quyết vấn đề liên quan đến việc xác định cả vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo, đồng thời, đánh giá tác động của chúng đối với sự phát triển thông minh, bền vững và toàn diện. Một trong những thách thức chính là việc làm rõ hơn sự tương tác giữa hai khái niệm này (vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo) và xác định cách thức mà chúng tác động, chẳng hạn như cách xử lí tài sản vô hình hoặc tài sản trí tuệ (Chartered Institute of Management Accountants - CIMA, 2001).

Vốn trí tuệ liên quan đến tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm và năng lực của từng cá nhân và của nhóm người trong các tổ chức và/hoặc cộng đồng địa phương. Một số tác giả cho rằng nên nghiên cứu vốn tri thức tập trung vào cách tiếp cận vi mô theo từng cá nhân hơn là ở cấp độ tổ chức và quốc gia. Trên thực tế, tất cả các cấp độ của nền kinh tế thực (bao gồm cá nhân, tổ chức và quốc gia) đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và tạo ra các tương tác, mối quan hệ trung hạn, dài hạn liên quan đến vốn tri thức như tài sản vô hình. Việc phát triển các mô hình định lượng để đo lường sự đóng góp của sáng tạo và đổi mới có thể gặp nhiều khó khăn vì tài sản vô hình không tuân theo các quy tắc kinh tế học truyền thống. Tuy nhiên, phần lớn các nhà kinh tế học nhận ra rằng, để hiểu rõ hơn các mô hình phát triển kinh tế khác nhau sẽ là sai lầm nếu chỉ dựa vào vốn vật chất mà không đi sâu phân tích, đánh giá xem làm thế nào, tại sao và khi nào con người trở nên đủ sáng tạo để có khả năng và năng lực đối mặt với những thách thức trong việc biến tri thức, sáng tạo và đổi mới thành các yếu tố cạnh tranh chính tạo ra giá trị gia tăng, như một điều kiện tiên quyết của tăng trưởng và phát triển trung và dài hạn.

Theo CIMA (2001), IC là một khái niệm phức tạp thường được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm ba loại vốn khác nhau: Vốn con người, vốn quan hệ và vốn cấu trúc.

- Vốn con người là kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm, năng lực và thái độ của nhân sự trong một tổ chức. Lí thuyết tổ chức giải thích vai trò chính của vốn con người là khả năng tương tác giữa những người lao động trong một công ty nhằm tìm ra các giải pháp có giá trị nhất để giải quyết vấn đề và để đạt được, duy trì và phát triển tổ chức một cách lâu dài.

- Vốn quan hệ là một phần của vốn trí tuệ có liên quan đến các mối quan hệ bên ngoài của công ty như khách hàng, nhà cung cấp hoặc các đối tác. Vốn quan hệ thể hiện uy tín của một tổ chức và khả năng sử dụng các mối quan hệ này để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ hoặc quy trình mới.

- Vốn cấu trúc liên quan đến các chiến lược và chính sách của tổ chức, đặc biệt tập trung vào tri thức tập thể, tổng hợp hệ thống các quy định, tài liệu chỉ dẫn, quy trình, cơ sở dữ liệu mà công ty sở hữu.

Khái niệm thứ hai, nền kinh tế sáng tạo giải thích một cách thú vị và nổi bật về vai trò ngày càng tăng của sáng tạo và đổi mới với vai trò là nguồn lực chính của sự thịnh vượng kinh tế và xã hội, đồng thời mang đến một tầm nhìn rộng hơn để thừa nhận mối liên hệ giữa sự phát triển thông minh, bền vững và toàn diện với khía cạnh văn hóa của sự phát triển.

Cốt lõi của nền kinh tế sáng tạo là khái niệm sáng tạo, một thuật ngữ được nhiều ngành khoa học xã hội chấp nhận và được Richard Florida phát triển, là nền tảng cơ bản của khái niệm mới về sáng tạo (Florida, 2002). Sự sáng tạo có thể được hiểu rõ hơn khi kết hợp với khái niệm về cá nhân. Sáng tạo là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của con người, đề cập đến khả năng cá nhân sử dụng kiến thức và kĩ năng không chỉ để tạo ra mà còn để quản lí và phát triển tốt hơn các ý tưởng, giải pháp có giá trị kinh tế, sau đó, có thể chuyển thành tài sản mang lại giá trị gia tăng cho cả cá nhân, tổ chức và cộng đồng địa phương, nơi những người này tương tác và giao tiếp. Là một trong những người tiên phong trong cách tiếp cận mới này, JK Galbraith đã gợi ý vào năm 1969 rằng, vốn trí tuệ sẽ được định nghĩa chính xác hơn khi được xem là một hành động trí tuệ hơn là kiến thức hay trí tuệ thuần túy. Từ quan điểm này, tính sáng tạo được đo lường khi các kết quả đánh giá dựa trên hiệu suất trung và dài hạn. Một phần của tính sáng tạo có thể được xác định dựa trên các phương pháp định chuẩn khác nhau, được sử dụng để đánh giá, xếp hạng các quốc gia và/hoặc khu vực dựa trên khả năng cạnh tranh. Tuy vậy, tiềm năng sáng tạo nằm trong từng cá nhân vẫn chưa được hiểu và phân tích rõ hơn.

Chuyển sang khái niệm phát triển bền vững, một trong những định nghĩa phổ biến nhất đã được đưa ra bởi Ủy ban Brundtland đó là: Khả năng làm cho sự phát triển trở nên bền vững nhằm đảm bảo rằng nó đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.

Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ (USNRC) đã làm rõ hơn các định hướng chung về phát triển bền vững bằng cách xác định ba trong số các hoạt động chính cần được duy trì là: Tự nhiên, hỗ trợ cuộc sống và cộng đồng; ba yếu tố quan trọng nhất cần được phát triển là: Con người, kinh tế và xã hội (USNRC, 1999). Những yếu tố này cho thấy nỗ lực của thể chế, trách nhiệm của tổ chức là cần thiết nhưng cá nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi. Vốn trí tuệ là một mắt xích quan trọng giữa những gì cần được hỗ trợ và những gì cần được phát triển để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Để các quá trình này được diễn ra đồng thời, tiềm năng sáng tạo của con người phải được khai thác và sử dụng bởi vì việc bộc lộ tiềm năng sáng tạo, tìm ra các giải pháp sáng tạo và đổi mới đóng góp rất nhiều cho sự phát triển thông minh, bền vững và sáng tạo ở cả cấp độ cá nhân, tổ chức và quốc gia.

Các hoạt động kinh tế và xã hội luôn dựa vào tài sản hữu hình và vô hình như kiến thức, vốn trí tuệ và sự sáng tạo để tạo ra giá trị và tăng hiệu suất. Sự thành công của một tổ chức cũng phụ thuộc vào hiệu suất trong quá trình quản lí tài nguyên phức tạp cả hữu hình và/hoặc vô hình. Trước đây, hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình chỉ chiếm khoảng 20% tổng tài sản (Craciun và Scriosteanu, 2008). Đến năm 1999, khoảng 80% tài sản thuộc hầu hết các tổ chức là tài sản vô hình và ngày nay, các công ty như Google hay Microsoft gần như hoàn toàn dựa vào tài sản phi vật chất và vô hình.

Tri thức, sáng tạo và đổi mới trở thành động lực chính của phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò của vốn tri thức trong việc tạo ra tăng trưởng và phát triển bền vững. Với sự phát triển của nền kinh tế văn hóa và sáng tạo, các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng: Điểm giao thoa giữa văn hóa, kinh tế, công nghệ và sáng tạo chính là vốn trí tuệ (UNCTAD, 2008). Do đó, vốn trí tuệ hầu hết được đánh giá cao và được sử dụng nhiều trong bối cảnh nền kinh tế sáng tạo vì nó có tiềm năng cao để tạo ra giá trị gia tăng và thu nhập, đồng thời, tạo ra việc làm mới và góp phần nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống.

Sáng tạo và đổi mới sáng tạo có thể được xem như chiếc cầu nối với vốn xã hội. Sự đổi mới và vốn xã hội có thể được áp dụng vào cách các tổ chức/thành phố/con người nhằm thích ứng và đổi mới nguồn nhân lực, mối quan hệ và cách thức tổ chức để phát triển phù hợp với những thách thức phát sinh trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số. Do đó, các nhà nghiên cứu đã bổ sung mối liên hệ giữa nền kinh tế sáng tạo vào mô hình vốn trí tuệ. Vốn trí tuệ thúc đẩy các kết quả tích cực dự kiến sẽ đạt được và phát triển trong bối cảnh phát triển bền vững dựa trên kiến thức và đổi mới. Hơn nữa, cả vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo có thể kết hợp cùng nhau để phát triển các yếu tố và nguồn lực định hướng chính, hỗ trợ sự phát triển bền vững và toàn diện trong dài hạn. Trong một nền kinh tế dựa trên tri thức và đổi mới sáng tạo, đồng thời phải đối mặt với một số “sự khác biệt về văn hóa” và sự đa dạng, bằng cách phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo và đổi mới, dựa trên các tài sản vô hình như vốn trí tuệ, chúng ta có thể đảm bảo một nền tảng vững chắc và rộng lớn hơn cho sự phát triển bền vững, trong đó kết hợp và khám phá nhiều mối liên kết giữa các khía cạnh xã hội, văn hóa và môi trường của sự phát triển. Mục tiêu và định hướng của phát triển bền vững là sử dụng nền kinh tế sáng tạo và vốn tri thức nhằm tìm ra các giải pháp hiệu quả và tối ưu nhất cho các vấn đề phức tạp như năng lượng, biến đổi khí hậu, ô nhiễm, di cư, khả năng chống chịu của hệ sinh thái, an ninh lương thực và nhiều vấn đề khác đòi hỏi kỉ luật chéo. Để đảm bảo việc sử dụng tốt nhất nguồn vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo, đồng thời nâng cao tiềm năng cạnh tranh và tính bền vững, chúng ta phải áp dụng các nguyên tắc của hiểu biết văn hóa.

Hiểu biết văn hóa dựa trên đối thoại và hợp tác giữa các nhà hoạch định chính sách tương tác với nhau ở mọi cấp độ hoạt động kinh tế (tổ chức, địa phương, quốc gia và quốc tế). Một bộ năng lực cốt lõi cao phải được áp dụng để đảm bảo và hỗ trợ việc thực hiện hiệu quả sự kết hợp của các chính sách văn hóa xã hội, kinh tế và môi trường ở tất cả các cấp độ của hoạt động kinh tế.

3. Thực tiễn tiếp cận từ một số quốc gia châu Âu

3.1. Những nỗ lực của Liên minh châu Âu (EU) trong việc nâng cao vốn trí tuệ và phát triển bền vững nền kinh tế sáng tạo

Vấn đề làm thế nào để xác định và định lượng giá trị kinh tế của sự sáng tạo là một chủ đề tương đối mới trong chương trình nghị sự của EU. Trong vài năm qua, EU đã thúc đẩy một số sáng kiến nhằm hỗ trợ nền kinh tế sáng tạo như một động lực chính của sự giàu có và bền vững thông qua các chính sách bảo vệ bản quyền và cung cấp tài trợ đặc biệt cho người dân phát triển sản phẩm, dịch vụ hoặc ý tưởng trong lĩnh vực này.

Trong Chương trình châu Âu sáng tạo, EU đã nỗ lực lập bản đồ các cụm hoặc khu vực sáng tạo ở cấp độ châu Âu, nhưng khó khăn chính khi sắp xếp dữ liệu quốc gia là việc không thể phân loại chính xác một số công việc, hoạt động hoặc dịch vụ theo quy định. EU đã cố gắng tạo ra một khuôn khổ chung thể hiện thông qua các báo cáo về ngành công nghiệp văn hóa, trong đó hài hòa các khía cạnh lí thuyết và thuật ngữ cơ bản của ngành công nghiệp văn hóa. Báo cáo này kêu gọi các quốc gia thành viên tuân theo cùng một phương pháp trong việc định lượng và phân loại các hoạt động theo Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat). Tuy nhiên, việc tuân thủ nguyên tắc phân loại mới chỉ ở giai đoạn ban đầu.

3.2. Vương quốc Anh: Sáng kiến về lập bản đồ các ngành công nghiệp văn hóa, sáng tạo

Vương quốc Anh là một trong những quốc gia tiên phong trong việc tạo ra và chia sẻ chuyên môn và kiến thức trong lĩnh vực vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo. Nước Anh sáng tạo, một trong những sáng kiến được biết đến nhiều nhất, liên quan đến nền kinh tế sáng tạo bắt nguồn từ cuốn sách năm 1998 của Bộ trưởng Nội các Chính phủ Anh Chris Smith, trong đó ông dự đoán sức mạnh kinh tế và giá trị của các ngành công nghiệp sáng tạo cho Vương quốc Anh.

Hội đồng Anh là một trong những cơ quan cam kết phát triển nền kinh tế sáng tạo văn hóa và thúc đẩy các giá trị chung về sự đa dạng, tự do ngôn luận, công bằng và bền vững. Một trong những ấn phẩm chính của họ đưa ra những cách mới để định lượng giá trị kinh tế. Theo nghiên cứu này, một trong những công cụ hữu ích nhất để hiểu về nền kinh tế sáng tạo là lập bản đồ, vì các lĩnh vực sáng tạo dựa trên vốn trí tuệ là phi truyền thống theo nghĩa là chúng không tuân theo sự phân loại mà các tổ chức công thường sử dụng.

Các dự án lập bản đồ của Hội đồng Anh giúp nâng cao nhận thức về giá trị kinh tế của một cộng đồng, thành phố, khu vực hoặc quốc gia, đồng thời, cung cấp phương tiện lập kế hoạch cho sự phát triển trong tương lai thông qua các chính sách được hoạch định tốt. Nghiên cứu một lĩnh vực đang thay đổi như nền kinh tế sáng tạo cũng đi kèm với thách thức như vấn đề với dữ liệu đáng tin cậy chưa được công khai. Do đó, cần có thêm nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này bao gồm cả việc thu thập dữ liệu thông qua các hiệp hội thương mại, tổ chức phi chính phủ, công ty tư nhân hoặc trường đại học.

3.3. Trường hợp của Ru-ma-ni

Là một phần trong các sáng kiến EU về thúc đẩy vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo, Ru-ma-ni đã thiết lập một sáng kiến phát triển các chiến lược phù hợp với nền kinh tế và xã hội tri thức, sáng tạo để đóng góp vào nền kinh tế - xã hội thông minh, bền vững và phát triển toàn diện. Những cải tiến trong lĩnh vực này đã được bắt đầu trong vài năm qua. Cơ quan thực hiện việc nâng cao kiến thức trong các lĩnh vực này là Viện Nghiên cứu và hình thành văn hóa quốc gia (The National Institute for Research and Cultural Formation - NIRCF), trực thuộc Bộ Văn hóa và Bản sắc dân tộc với mục tiêu là nghiên cứu và xuất bản các thống kê về lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh đó, quốc gia này cũng chú trọng hơn vào việc thu thập và phân phối dữ liệu về các ngành công nghiệp văn hóa, sáng tạo và coi các ngành này là các lĩnh vực đầu tư chiến lược quan trọng. Đối với mục tiêu này, các phương pháp tiếp cận khác nhau được áp dụng, đo lường không chỉ các đặc điểm của thị trường lao động mà còn cả mức độ hấp thụ văn hóa dưới hình thức các buổi hòa nhạc, lễ hội và các hoạt động văn hóa khác có tác động lớn đến sự phát triển của con người.

Như vậy, bên cạnh những nỗ lực của quốc gia và khu vực nhằm phát triển một khuôn khổ toàn diện hơn để hiểu được tầm quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo, EU đang cung cấp vô số nguồn lực nhằm khám phá những cách thức mới để đánh giá tiềm năng của các lĩnh vực đổi mới, chuyển từ cách tiếp cận vi mô (tổ chức, doanh nghiệp) sang cách tiếp cận vĩ mô (quốc gia, khu vực) để có cái nhìn tổng quan hơn về các thành phố sáng tạo.

4. Chính sách phát triển vốn trí tuệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam hiện nay

Theo thống kê của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO), Việt Nam được ghi nhận là quốc gia đạt được nhiều thành tựu về đổi mới sáng tạo trong 10 năm 2011 - 2020 và xếp hạng thứ 44/131 năm 2021. Chính phủ Việt Nam đã coi đổi mới sáng tạo là ưu tiên của quốc gia, lấy các chỉ số đổi mới sáng tạo làm công cụ đo lường và đánh giá hiệu quả kinh tế như xây dựng 40 nền tảng công nghệ số quốc gia trên các lĩnh vực từ nền tảng chia sẻ, tổng hợp, phân tích dữ liệu trong các ngành, họp trực tuyến, thanh toán, định danh đến thiết bị Internet vạn vật (IoT), AI, trợ lí ảo, chuỗi cung ứng. Điều này mở ra cơ hội cho Việt Nam có thể học tập, ứng dụng, sáng tạo công nghệ và khắc phục những hạn chế của các quốc gia đi trước nhằm phát triển năng lực, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong nước. Tuy nhiên, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam chưa thực sự bền vững thể hiện ở chỉ số thấp ở nhóm các phát minh, sáng chế trong khi đây lại là nhóm định hướng và quyết định hiệu quả của đổi mới sáng tạo. Các chỉ số xếp hạng khoa học bao gồm: (i) Chỉ số xếp hạng các trường đại học trong nước so với quốc tế; (ii) Chỉ số bằng sáng chế nộp tại các cơ quan chuyên môn; (iii) Số lượng trích dẫn của các công trình nghiên cứu quốc tế ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với Malaysia, Thái Lan và các nước trong khu vực Đông Nam Á theo “The Global Innovation Index 2020”.

Chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030 theo Quyết định số 2205/QĐ-TTg ngày 24/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ đề ra mục tiêu cho từng giai đoạn. Trong đó, đến năm 2025, 100% các trường đại học, viện nghiên cứu được tuyên truyền, nâng cao nhận thức và hỗ trợ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các kết quả nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo; tối thiểu 40% sản phẩm được công nhận là sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm, dịch vụ chủ lực, đặc thù cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và sản phẩm gắn với Chương trình OCOP (mỗi xã một sản phẩm) được hỗ trợ đăng kí bảo hộ, quản lí và phát triển tài sản trí tuệ, kiểm soát nguồn gốc và chất lượng sau khi được bảo hộ.

Đến năm 2030, số lượng đơn đăng kí bảo hộ sáng chế của các viện nghiên cứu, trường đại học tăng trung bình 16 - 18%/năm; số lượng đơn đăng kí bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12 - 14%; tối thiểu 60% sản phẩm được công nhận là sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm, dịch vụ chủ lực, đặc thù cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và sản phẩm gắn với Chương trình OCOP được hỗ trợ đăng kí bảo hộ, quản lí và phát triển tài sản trí tuệ, kiểm soát nguồn gốc và chất lượng sau khi được bảo hộ; số lượng đơn đăng kí nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam tăng trung bình 8 - 10%/năm.

Tóm lại, trong khi phát triển bền vững và toàn diện luôn là mục tiêu quan trọng đối với doanh nghiệp và quốc gia, đã có những nỗ lực đáng kể dưới cả góc độ nghiên cứu lẫn quản trị trong việc thiết lập và lượng hóa vai trò của vốn trí tuệ và nền kinh tế sáng tạo. Đối với Việt Nam, chúng tôi tin rằng, các cơ sở học thuật mà nhất là các trường đại học nên được xem là nơi tiên phong trong việc nghiên cứu trong lĩnh vực quan trọng này, nhất là sự cần thiết xây dựng bản đồ phát triển kinh tế dựa trên sáng tạo - văn hóa như một số quốc gia tiên tiến đã và đang tiếp cận. Cần thiết lập các trụ cột để tăng cường mối liên kết Viện nghiên cứu - Trường đại học - Doanh nghiệp thúc đẩy thương mại hóa công nghệ, khai thác có hiệu quả tài sản trí tuệ, từ đó hình thành các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có sức mạnh về trí tuệ, nguồn lực để bứt phá nhanh... Bên cạnh đó, để phát triển nền kinh tế sáng tạo và vốn trí tuệ cần có sự thống nhất, nhất quán từ tư tưởng chỉ đạo đến sự vận hành của hệ thống chính sách, hệ thống quản trị công, thể chế hợp lí, kết cấu hạ tầng phục vụ nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ một cách hoàn thiện và nguồn nhân lực có khả năng phát huy sáng tạo trong khoa học - công nghệ, đi kèm với các lộ trình cụ thể mang tính khả thi và phù hợp với điều kiện thực tế của quốc gia. Về nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này, các nghiên cứu định lượng về vai trò của vốn trí tuệ và kinh tế sáng tạo cũng cần được thực hiện chuyên sâu hơn trong thời gian tới. Thông qua bài viết này, chúng tôi hi vọng sẽ mở đường cho các nghiên cứu mới liên quan đến chủ đề này trong tương lai gần.

Tài liệu tham khảo:

1. Akpinar, A., & Akdemir, A. (1999). Intellectual capital. Third European Conference, pages 332 - 340.

2. Chartered Institute of Management Accountant. (2001). Understanding corporate value: Managing and reporting intellectual capital. Retrieved from http://www.cimaglobal.com/Documents/ImportedDocuments/tech_techrep_understanding_corporate_value_2003.pdf

3. Craciun, L., & Scriosteanu, A. (2008). How to measure intellectual capital. Annals of University of Craiova - Economic Sciences Series, 3(36), pages 1239 - 1244.

4. Florida, R. (2002). The rise of the creative class: And how It’s transforming work, leisure, community and everyday life. New York: Basic Books.

5. Lữ Hữu Chí, Nguyễn Văn Thích và Lương Thị Thu Thủy (2022). Vai trò phát triển vốn trí tuệ đối với tăng trưởng cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, 20(10), trang 9 - 14.

6. Nguyen, T. V., & Lu, C. H. (2023). Financial intermediation in banks and the key role of intellectual capital: New analysis from an emerging market. Journal of Financial Services Marketing, pages 1 - 15. https://doi.org/10.1057/s41264-023-00220-0

7. Smith, A. (1990). An inquiry into the nature and causes of the wealth of nations (2nd ed.). London: Great Books of Western World.

8. Soumitra, D., Bruno, L., & Sacha, W.V. (2020), “The Global Innovation Index 2020”, WIPO. https://www.wipo.int/edocs/pubdocs/en/wipo_pub_gii_2020.pdf

9. U.S. National Research Council, Policy Division, Board on Sustainable Development. (1999). Our common journey: A transition toward sustainability. Washington, DC: National Academy Press.

10. UNCTAD (2008). Creative economy report. Retrieved from http://unctad.org/en/docs/ditc20082cer_en.pdf


TS. Lương Thị Thu Thủy (Viện Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh)

Ths. Lữ Hữu Chí, TS. Nguyễn Văn Thích (Viện Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Ngân hàng, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng