Ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Công nghệ & ngân hàng số
Sự phát triển của công nghệ số đang dần làm thay đổi cơ bản các hình thức cung ứng dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước đã triển khai ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng như: AI, ML, Cloud Computing, Big Data, IoT để đánh giá, phân loại khách hàng và quyết định giải ngân hay giúp đơn giản hóa các quy trình, thủ tục và rút ngắn thời gian giao dịch.
aa

Tóm tắt: Ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam đã và đang có những tác động tích cực đến mô hình hoạt động, tạo nên sự chuyển đổi mạnh mẽ đối với hệ thống nghiệp vụ nội bộ và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tiên tiến phục vụ khách hàng. Ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng được xem là giai đoạn tiếp theo sau giai đoạn số hóa của quá trình chuyển đổi số, hỗ trợ tích cực cho chiến lược ngân hàng số của ngành Ngân hàng. Nghiên cứu được thực hiện với mục đích thảo luận các công nghệ số được áp dụng vào hoạt động ngân hàng như: Trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML), vạn vật kết nối (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), sổ cái phân tán (DLT), chuỗi khối (Blockchain), sinh trắc học và các sản phẩm, dịch vụ được tạo ra bởi các công ty công nghệ tài chính (Fintech). Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong quá trình chuyển đổi số của ngành Ngân hàng.

Từ khóa: Công nghệ số, chuyển đổi số, ngân hàng số, Fintech.

APPLICATION OF DIGITAL TECHNOLOGY IN BANKING ACTIVITIES IN VIETNAM: CURRENT SITUATION AND SOLUTIONS

Abstract: The application of digital technology in banking activities in Vietnam has been having a positive impact on the operating model, creating a powerful transformation in the internal operating system and providing customers with advanced products and services. Applying digital technology to banking activities is a phase following a digitization phase of the digital transformation process, which actively supports the digital banking strategy of the banking sector. The study discusses some technologies applied to banking activities, such as artificial intelligence (AI), machine learning (ML), internet of things (IoT), big data, cloud computing, distributed ledger technology (DLT), blockchain, biometrics, and advanced products and services created by financial technology companies (Fintech). Based on analyzing and evaluating the current situation of digital technology application in banking operations, the article offers some proposals to promote the application of digital technology in the digital transformation process of the banking industry.

Keywords: Digital technology, digital transformation, digital banking, Fintech.

Sự phát triển của công nghệ số đang dần làm thay đổi cơ bản các hình thức cung ứng dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước đã triển khai ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng như: AI, ML, Cloud Computing, Big Data, IoT để đánh giá, phân loại khách hàng và quyết định giải ngân hay giúp đơn giản hóa các quy trình, thủ tục và rút ngắn thời gian giao dịch. Song song với việc ứng dụng công nghệ số, các NHTM còn hợp tác với các Fintech để nâng cấp các quy trình, nghiệp vụ, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ tiên tiến, giúp ngân hàng chuyển đổi sang mô hình kinh doanh mới, tích hợp công nghệ theo hướng tự động, thông minh để giúp các ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh, cung ứng sản phẩm, dịch vụ dễ dàng trên nền tảng số, khai thác dữ liệu hiệu quả.

Công nghệ số đã hỗ trợ ngân hàng có độ bao phủ rộng hơn, tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp khách hàng tiếp cận dịch vụ dễ dàng hơn, không cần phải đến điểm giao dịch ngân hàng mà có thể truy cập dữ liệu, chuyển tiền thông qua các thiết bị di động. Tuy vậy, việc ứng dụng công nghệ số đòi hỏi đầu tư lớn nguồn lực, thay đổi môi trường pháp lý để hỗ trợ cho việc ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực ngân hàng ngay cả đối với NHTM và các Fintech. Ngoài ra, khách hàng vẫn còn e ngại về tính an toàn, bảo mật dữ liệu, lo sợ bị đánh cắp thông tin. Xuất phát từ các công trình nghiên cứu trước đây và tình hình thực tế ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng, nghiên cứu được thực hiện để phân tích, đánh giá những công nghệ số đã được ứng dụng, cũng như những vấn đề nội tại của việc ứng dụng công nghệ số và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng.

1. Cơ sở lý thuyết

Trước hết, để hiểu được khái niệm công nghệ số thì cần hiểu rõ các quan niệm về chuyển đổi số. Theo Matzler & cộng sự (2016), chuyển đổi số là việc sử dụng kết hợp các công nghệ như Cloud Computing, cảm biến, Big Data… để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới. Chuyển đổi số chính là sự hội tụ của 04 công nghệ đột phá: Cloud Computing, Big Data, IoT và AI (Thomas, 2019). Tại Việt Nam, chuyển đổi số được hiểu là quá trình thay đổi mô hình tổ chức truyền thống sang dạng mô hình tổ chức số, dựa trên ứng dụng những công nghệ mới nhằm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa của tổ chức.


Công nghệ số đã hỗ trợ ngân hàng có độ bao phủ rộng hơn,

tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh

Như vậy, chuyển đổi số có thể hiểu đơn giản là quá trình sử dụng công nghệ kỹ thuật số để thay đổi quy trình kinh doanh, văn hóa và trải nghiệm của khách hàng hiện có. Theo ý kiến của các chuyên gia về công nghệ thông tin thì chuyển đổi số trải qua 03 giai đoạn chính, từ việc chuyển đổi các quy trình thủ công, truyền thống của đơn vị sang quy trình số, trực tuyến (được xem là giai đoạn số hóa), sau đó chuyển sang giai đoạn chuyển đổi kỹ thuật số, công nghệ số được thúc đẩy ứng dụng trong giai đoạn này, tiếp đến là giai đoạn tái tạo số, thông qua sự kết nối giữa công nghệ và nền tảng kỹ thuật số chưa có trước đây để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng với các sản phẩm, dịch vụ mới sáng tạo (Phạm Xuân Hòe, 2021) (Hình 1).

Hình 1: Các giai đoạn chuyển đổi số


Nguồn: Phạm Xuân Hòe, 2021

Công nghệ số được xem là những công nghệ tiên tiến được ứng dụng vào các giai đoạn tiếp theo của việc chuyển đổi số sau khi đã trải qua giai đoạn số hóa. Khi hệ thống đã có dữ liệu được số hóa, các công nghệ như: AI, Big Data, Cloud Computing… sẽ được sử dụng để phân tích dữ liệu, biến đổi và tạo ra giá trị mới. Ở mức công nghệ số này thì ứng dụng sẽ mở ra những dạng thức đổi mới, sáng tạo trong cả một ngành hay lĩnh vực thay vì chỉ nâng cấp hay chuyển đổi các quy trình, thủ tục truyền thống.

Như vậy, công nghệ số là một bước phát triển cao hơn của công nghệ thông tin, cho phép xử lý dữ liệu nhanh hơn, truyền tải với dung lượng lớn nhưng chi phí thấp hơn. Chính sự phát triển đột phá này của công nghệ đã cho phép chuyển đổi số một cách tổng thể và toàn diện, điều mà trước kia không thể làm được. Công nghệ số có thể được xem xét theo hai khía cạnh là xây dựng phần mềm ứng dụng với các phương tiện truyền thông đa phương tiện, mạng xã hội, nền tảng thương mại điện tử, dịch vụ mua sắm, thanh toán trực tuyến và sự phát triển phần cứng từ các thiết bị di động, hệ thống tự động hóa, cho đến việc lưu trữ, xử lý dữ liệu thông tin, Big Data, Cloud Computing…

Ứng dụng công nghệ số là xu hướng tất yếu, mọi tổ chức đều tận dụng tính ưu việt của công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu quả hoạt động, cạnh tranh với đối thủ. Đối với lĩnh vực ngân hàng, ứng dụng công nghệ số mang lại những lợi ích quan trọng như: Tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới để có cơ hội tiếp cận được nhiều khách hàng hơn, xóa bỏ ranh giới vật lý trong hoạt động kinh doanh, quan trọng là loại bỏ được các bước trung gian, tối ưu hóa quy trình, nghiệp vụ, tiết kiệm chi phí hoạt động và mang lại lợi ích, sự tiện lợi cho khách hàng. Bên cạnh đó, công tác quản lý được tốt hơn nhờ vào nguồn thông tin quản lý dồi dào, hệ thống báo cáo thông suốt, kịp thời và hiệu quả, từ đó người quản lý có thể đưa ra quyết định nhanh chóng và chính xác, năng suất lao động được cải thiện (Lương Văn Hải, 2021).

Xét về cơ sở pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ số vào lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, các văn bản đang được áp dụng như: Quyết định số 711/QĐ-NHNN ngày 15/4/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về việc ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 14/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam. Mục tiêu của Kế hoạch nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi, hoàn thiện khuôn khổ chính sách nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ và phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số; Quyết định số 1238/QĐ-NHNN ngày 08/7/2020 của Thống đốc NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ. Kế hoạch này nhằm đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), thúc đẩy nghiên cứu các công nghệ, thành tựu nhằm tăng cường năng lực quản lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ngân hàng; xây dựng cơ chế, chính sách, quản lý thúc đẩy chuyển đổi số ngành Ngân hàng, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo; phát triển hạ tầng thanh toán và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh CMCN 4.0.

2. Thực trạng ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng

Trong chiến lược chuyển đổi số, các NHTM chủ động chuyển đổi số cả về kênh giao tiếp khách hàng và nghiệp vụ nội bộ. Phần lớn các ngân hàng đã ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ mới như: Cloud Computing, phân tích dữ liệu, Big Data, tự động hóa quy trình bằng robot, AI, ML, Blockchain nhận biết và định danh khách hàng bằng eKYC... trong các hoạt động nghiệp vụ và cung ứng sản phẩm, dịch vụ để nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng trải nghiệm khách hàng. Trong đó, công nghệ Big Data và AI được các ngân hàng áp dụng nhiều nhất và tận dụng triệt để phân tích hành vi, nhu cầu khách hàng giúp tối ưu hóa, cá nhân hóa việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ. Dưới đây là một số công nghệ tiên tiến được thử nghiệm hay áp dụng vào hoạt động ngân hàng như:

Big Data: Cho phép con người có thể thu nhập, lưu trữ một lượng dữ liệu khổng lồ. Nếu công nghệ trước đây cần thời gian rất dài để xử lý dữ liệu nhưng đối với công nghệ số hiện nay cho phép xử lý, phân tích trong khoảng thời gian rất ngắn để trích rút ra thông tin và đưa ra quyết định một cách phù hợp (Trương Đình Dũng, 2022).

IoT: Là sự kết hợp của Internet, công nghệ vi điện tử và công nghệ không dây. Internet giúp kết nối các thiết bị hỗ trợ như điện thoại thông minh, máy tính để trao đổi, chia sẻ dữ liệu trong thời gian thực. IoT mô tả các đối tượng vật lý hằng ngày được kết nối với Internet và có thể tự nhận dạng chúng với các thiết bị khác, nhờ vào thiết bị cảm biến ngày càng nhỏ, chi phí thấp và tiêu thụ năng lượng ít. IoT đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa môi trường thực với môi trường số (Nguyễn Thanh Thư, 2021).

AI/ML: Sẽ giúp tự động hóa các nhiệm vụ mà trước đây cần đến trí tuệ con người, chủ yếu dựa trên nguồn dữ liệu khổng lồ được phân tích với khả năng bảo mật cao hơn. ML làm cho máy móc có khả năng tự học như con người. Do dữ liệu ngày càng lớn, năng lực tính toán ngày càng nhanh nên ML có tính đột phá trong kỹ thuật học sâu như: Nhận thức thị giác, nhận dạng giọng nói, ra quyết định... Đối với lĩnh vực ngân hàng, AI đã được ứng dụng ngày càng mạnh và sẽ tiếp tục phát triển với ứng dụng Chatbot/Chatbox, thu thập và phân tích dữ liệu, quản lý rủi ro, chống rửa tiền... (Trúc Linh, 2021; Nguyễn Thanh Thư, 2021).

Cloud Computing: Cho phép người dùng có thể sử dụng dịch vụ lưu trữ thông tin nhờ vào các nhà cung cấp như Google, Microsoft, Amazon. Mọi dữ liệu đều được lưu trữ, tổ chức và sắp xếp trên hệ thống của các nhà cung cấp dịch vụ. Ngân hàng có thể thực hiện các chiến lược tiếp thị tự động hóa dựa trên nền tảng công nghệ này nhằm tiết kiệm chi phí, giảm thiểu rủi ro về an ninh và tối ưu hóa nguồn lực của ngân hàng. Cloud Computing cho phép ngân hàng có thể cung cấp dịch vụ cho khách hàng liên tục mỗi ngày, thông qua bất kỳ thiết bị nào có kết nối Internet (Mạnh Vỹ, 2010).

Ngoài ra, một số công nghệ số khác đã và đang được các NHTM thử nghiệm, hỗ trợ nâng cấp hệ thống, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới như: Công nghệ DLT và Blockchain, kết nối với các Fintech, sinh trắc học (Biometrics), an ninh mạng.

Nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ số đối với hoạt động ngân hàng, các NHTM đã ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ mới vào các hoạt động nghiệp vụ và cung ứng sản phẩm, dịch vụ để nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng trải nghiệm cho khách hàng. Các NHTM đã đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển kênh bán hàng qua công nghệ số như: Internet Banking, Mobile Banking… Hầu hết, các NHTM đã sử dụng ngân hàng lõi (Core Banking), nhiều ngân hàng đã nâng cấp hệ thống Core Banking nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển như: NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), NHTM cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), NHTM cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)… Thực tế cho thấy, hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ số được các NHTM mang đến trải nghiệm mới cho khách hàng, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường. NHTM cổ phần Tiên Phong (TPBank) ra mắt dịch vụ “Live Bank” tự động 24/7, NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank) ra mắt phiên bản iPay Mobile với 50 tính năng mới, tốc độ và tính bảo mật cao (Bảng 1).

Bảng 1: Một số ứng dụng hiện có của các NHTM năm 2022


Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2022

Để đáp ứng được kỳ vọng của khách hàng, các ngân hàng truyền thống đã tích hợp công nghệ số vào hoạt động nghiệp vụ, đồng thời tận dụng được các mô hình kinh doanh đổi mới, sáng tạo. Một số kết quả ban đầu được ghi nhận từ ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng, tạo trải nghiệm mới cho khách hàng như:

Ứng dụng công nghệ AI, ML, Big Data: Một số ứng dụng công nghệ AI đã xuất hiện trong các nghiệp vụ nội bộ như: Hệ thống quản trị, hoạt động tín dụng, Chatbot, Marketing… Một số ngân hàng đã ứng dụng kết hợp công nghệ AI, ML và Big Data để đánh giá, phân loại khách hàng và quyết định giải ngân... giúp đơn giản hóa quy trình, thủ tục và rút ngắn thời gian giao dịch với khách hàng.

VCB-Mobile Banking (Vietcombank), BIDV Smart Banking (NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV) ứng dụng AI cho ra mắt không gian giao dịch số và đưa robot vào sử dụng. Ngoài ra, TPBank và NHTM cổ phần Quốc tế (VIB) tích hợp công nghệ AI trong ứng dụng Chatbot/Chatbox hỗ trợ chat, tương tác với khách hàng đa kênh: Facebook, Instagram, Website, Zalo… Khách hàng có thể dễ dàng tương tác và quản lý khách hàng ở các kênh trên một màn hình duy nhất. Đặc biệt, VIB kết hợp công nghệ AI với công nghệ xử lý Big Data vào quy trình chấm điểm tín dụng và duyệt hạn mức thẻ tín dụng. Đối với công nghệ sinh trắc học: TPBank là ngân hàng đầu tiên áp dụng thành công ứng dụng công nghệ nhận dạng ký tự sinh trắc học để nhận diện khuôn mặt với ứng dụng LiveBank, rất nhiều ngân hàng khác cũng đã áp dụng như: BIDV, VietinBank, VIB... (Bảng 2).

Bảng 2: Một số ứng dụng công nghệ số của các NHTM năm 2022


Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2022

Vietcombank áp dụng cả công nghệ sinh trắc học và công nghệ mới là Push Authentication cho ra mắt ngân hàng số VCB Digital hoàn toàn mới dành cho khách hàng cá nhân, thay thế cho các dịch vụ Internet Banking và Mobile Banking.

Một số công nghệ khác cũng được các NHTM nghiên cứu thử nghiệm, đưa vào hoạt động như công nghệ Cloud Computing, VPBank ứng dụng nền tảng đám mây (Amazon Web service Cloud) cho ra mắt ngân hàng số với tên gọi Yolo. Ngoài ra, NHTM cổ phần Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), VietinBank, NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB), NHTM cổ phần Á Châu (ACB) đã ứng dụng công nghệ sổ cái để ghi nhận chi tiết các giao dịch (tài khoản, khách hàng, sản phẩm…) phục vụ cho mục tiêu phân tích đa chiều về thu nhập, chi phí, lợi nhuận… theo yêu cầu quản trị, điều hành. Bên cạnh đó, công nghệ Blockchain cũng đang được thử nghiệm và từng bước đưa vào áp dụng như: HSBC thực hiện thành công giao dịch tín dụng thư (L/C), NHTM cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank) ứng dụng công nghệ Blockchain tham gia kết nối và xử lý các giao dịch tài trợ thương mại. Một công nghệ khác luôn được nhắc đến như là công nghệ thiết yếu để ngân hàng chuyển đổi số đó là công nghệ định danh khách hàng điện tử (eKYC), hầu hết các NHTM đã triển khai áp dụng công nghệ này, tiêu biểu như: TPBank, VPBank, HDBank, LienVietPostBank...

Bên cạnh đó, các NHTM còn tăng cường hợp tác với các Fintech để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ số dựa trên nền tảng đa kênh để đảm bảo trải nghiệm phong phú cho khách hàng (sự kết hợp giữa NHTM cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) và Công ty Fastcash, VIB và Công ty Việt Nam Weezi Digital, VietinBank và Công ty ON (Anh), BE GROUP (Thụy Điển)…). Chính nhờ vào sự hỗ trợ của các Fintech mà nhiều mô hình và sản phẩm số đã xuất hiện như: Ví điện tử (Mobile Wallet), chuyển tiền ngang hàng (Peer-To-Peer Transfer), thanh toán di động (Mobile Payment), Mobile Banking, cho vay ngang hàng (Peer-To-Peer Lending). Các công ty tham gia vào hoạt động thanh toán, cung cấp cho khách hàng, các nhà bán lẻ dịch vụ thanh toán trực tuyến hoặc giải pháp thanh toán kỹ thuật số.

Nhìn chung, phần lớn các NHTM tại Việt Nam đã ứng dụng công nghệ số vào hoạt động nội bộ và nghiệp vụ, tạo sự trải nghiệm mới cho khách hàng. Các kênh tương tác, tiếp cận với khách hàng được dựa trên công nghệ số. Chính nhờ vậy, lượng khách hàng tham gia giao dịch thanh toán qua điện thoại di động (tăng trưởng bình quân 87%/năm về lượng giao dịch và 140%/năm về giá trị giao dịch giai đoạn 2015 - 2021) và Internet (tăng trưởng bình quân 44%/năm về lượng giao dịch và 41%/năm về giá trị giao dịch giai đoạn 2015 - 2021) tăng lên nhanh chóng (Trần Hoàng Anh, 2021). Tuy nhiên, do hạn chế về mức độ đầu tư công nghệ và chiến lược chuyển đổi số, việc ứng dụng công nghệ số chỉ được thực hiện tại một số ngân hàng tiên phong, mức độ ứng dụng công nghệ vẫn còn thấp. Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số, ví điện tử… chưa đa dạng về chủng loại.

Thực tiễn cho thấy, hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ số được các NHTM đưa ra nhằm đem lại trải nghiệm khác biệt dành cho khách hàng và trên hết là tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường, đồng thời cũng thể hiện sự tích cực, chủ động của các NHTM trong việc triển khai thực hiện các quy định pháp luật về ứng dụng công nghệ số trong thực tiễn kinh doanh. Để cung ứng dịch vụ ngân hàng dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, yếu tố an toàn phải là ưu tiên hàng đầu. Quá trình tích hợp giữa công nghệ và nghiệp vụ ngân hàng cần phải được tiến hành thận trọng và đầu tư lớn.

Song hành với những cơ hội phát triển ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng hay hợp tác với các Fintech. Tại Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ số vẫn còn không ít thách thức, đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đặc biệt là giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, hợp đồng điện tử, định danh và xác thực điện tử, cơ chế quản lý, giám sát đối với các Fintech... cũng như việc đảm bảo an toàn, bảo mật trước xu hướng gia tăng của các loại tội phạm trên môi trường mạng với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp.

Việc ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng không chỉ do các Fintech vào cuộc, mà nhiều NHTM đã và đang dần chuyển đổi, vận hành trên nền tảng công nghệ hiện đại như: BIDV, VietinBank, TPBank… đáp ứng yêu cầu phục vụ khách hàng nhanh chóng và thông suốt. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia trong khu vực thì số lượng các Fintech tại Việt Nam còn khá ít, trong nước chỉ có khoảng 150 Fintech tham gia vào hoạt động thanh toán, cung cấp các dịch vụ thanh toán trực tuyến hoặc các giải pháp thanh toán kỹ thuật số, trong khi đó, Singapore có hơn 1.157 công ty, Indonesia có 511 công ty, Malaysia 376 công ty, Thái Lan có 216 công ty (Trọng Đức, 2021). Một trong những lo ngại khác là ứng dụng của các Fintech vận hành dựa trên cơ sở dữ liệu của khách hàng. Do đó, khả năng thông tin và dữ liệu cá nhân của khách hàng bị đánh cắp hoặc bị tiết lộ cho các đối tượng khác là hoàn toàn hiện hữu. Do đó, ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng rất cần có một hành lang pháp lý đầy đủ để tạo môi trường thuận lợi cho các Fintech đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng, tránh hiện tượng hành lang pháp lý không theo kịp với yêu cầu thực tế của cuộc sống.

Một vấn đề quan trọng của việc ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng là mối đe dọa về an ninh mạng, vấn đề bảo mật trên môi trường trực tuyến, cũng như nhận thức người dùng về vấn đề bảo mật. An ninh mạng không chỉ giới hạn ở việc đánh cắp dữ liệu, lừa đảo tài chính mà còn là vấn đề an ninh quốc gia. Mặc dù trong nước có nhiều văn bản pháp lý được ban hành như: Luật Công nghệ thông tin, Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng... tuy nhiên vẫn còn thiếu các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, thông tin riêng tư; vấn đề quyền, đạo đức khi ứng dụng AI. Do vậy, việc nghiên cứu và ban hành các quy định pháp luật có liên quan là bước đi hữu ích trong việc củng cố tâm lý an tâm ở người tiêu dùng.

3. Kiến nghị và đề xuất

Ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng đã và đang được các NHTM thử nghiệm, triển khai áp dụng và khai thác rất hiệu quả, từ việc đầu tư công nghệ để thay đổi hệ thống quản lý, dịch vụ phục vụ khách hàng tốt hơn, tạo ra tính đột phá và trải nghiệm mới cho khách hàng. Đặc biệt là thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ số sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị thương hiệu. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực riêng của từng ngân hàng, mà còn phụ thuộc vào sự hợp tác giữa các NHTM với các Fintech, hành lang pháp lý phải theo kịp với yêu cầu đổi mới, đặc biệt là sự hình thành hệ sinh thái chuyển đổi số của quốc gia, tạo ra những giá trị nền tảng mới có tính đột phá trong hoạt động ngân hàng theo mô hình kinh doanh mới với những sản phẩm tiên tiến.

Một số giải pháp được đề xuất để thúc đẩy ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng, góp phần thực hiện thành công Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng, cũng như góp phần đạt được các mục tiêu của Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, như sau:

Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước cần phối hợp chặt chẽ để hoàn thiện cơ chế chính sách, khuôn khổ pháp lý trong hoạt động ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy các mô hình kinh doanh, quản trị điều hành theo hướng bứt phá, đổi mới, sáng tạo. Nghiên cứu, rà soát và đề xuất sửa đổi, bổ sung các vấn đề cần được luật hóa và các quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng các công nghệ số như: Thu thập, khai thác, xử lý và chia sẻ dữ liệu khách hàng; giao dịch điện tử; xây dựng và triển khai cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động của các Fintech trong lĩnh vực ngân hàng; ban hành các tiêu chuẩn dữ liệu, tiêu chuẩn kỹ thuật; xây dựng hoàn thiện hạ tầng dùng chung; sửa đổi, bổ sung Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Đặc biệt là cần quan tâm hơn nữa đến công tác đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên không gian mạng, tạo dựng môi trường giao dịch số an ninh, an toàn, ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi gian lận, lừa đảo trong giao dịch thương mại điện tử.

Thứ hai, hoàn thành việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, có cơ chế cho phép chia sẻ thông tin từ cơ sở dữ liệu này với một số ngành dịch vụ, trong đó có ngân hàng để thúc đẩy chuyển đổi số trong nền kinh tế, cho phép cung cấp dịch vụ số nhanh chóng, an toàn, thuận tiện với chi phí thấp. Ngoài ra, hệ thống dữ liệu tín dụng cấp quốc gia cũng cần được xây dựng để hướng tới nền kinh tế số hóa. Đây là cơ sở để các ngân hàng thiết kế các sản phẩm tài chính hiện đại phục vụ nền kinh tế.

Thứ ba, kích thích sự tham gia vào thị trường Việt Nam của các Fintech trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho các Fintech tham gia đầu tư, ứng dụng và triển khai các phát minh mới về công nghệ, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực ngân hàng, cũng như khuyến thích các NHTM tiếp tục triển khai, áp dụng các sản phẩm số dựa trên công nghệ mới.

Thứ tư, các NHTM cần tăng cường hợp tác với các Fintech đề xuất các giải pháp hữu hiệu để nâng cấp, ứng dụng các công nghệ số hiện đại vào hoạt động ngân hàng; tiếp tục chuyển đổi, nâng cấp các dịch vụ ngân hàng truyền thống như: Thanh toán, chuyển tiền điện tử, tín dụng, chăm sóc khách hàng… sang cung cấp sản phẩm, dịch vụ theo mô hình ngân hàng số; đồng thời tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng công nghệ hiện đại để thiết kế và tạo ra các sản phẩm, dịch vụ số tiên tiến cho người dùng.

Thứ năm, tăng cường công tác truyền thông, tuyên truyền, giáo dục tài chính, nâng cao nhận thức, hiểu biết cho người dân về ứng dụng công nghệ số và những lưu ý để phòng, tránh rủi ro khi thực hiện giao dịch trên môi trường điện tử.

Tài liệu tham khảo:

1. Trần Hoàng Anh (2021), “Hệ sinh thái ngân hàng số - Hướng phát triển lâu dài trong cuộc đua số hóa”, Chuyên đề Công nghệ và Ngân hàng số, Tạp chí Ngân hàng, số 5, trang 2 - 5.

2. Trương Đình Dũng (2022), “Digital technology ecosystem and foundation of digital transformation”, Scientific journal of Hanoi Metropolitan University, số 56/2022, trang 40 - 48.

3. Trọng Đức (2021), "Fintech Việt Nam là một trong những thị trường cạnh tranh nhất châu Á", https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOFUCM207831.

4. Lương Văn Hải (2021), “Thách thức đối với các NHTM Việt Nam trong chuyển đổi số”, Tạp chí Ngân hàng, số 9, trang 27 - 34.

5. Phạm Xuân Hòe (2021), “Số hóa ngân hàng - Nhiều đột phá cho ngành dịch vụ tài chính Việt Nam”, Hội thảo khoa học “Phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng và doanh nghiệp trên nền tảng công nghệ số” của Trường Đại học Tài chính - Marketing, trang 2 - 13.

6. Trúc Linh (2021), “Những xu hướng công nghệ đáng chú ý trong năm 2021”, Con số và sự kiện, số 2 (tháng 3/2021), trang 49 - 51.

7. Matzler, K., Bailom, F., Friedrich von den Eichen, S. & Anschober, M. (2016), Digital Disruption, Vahlen. ISBN 978-3-8006-5378-2.

8. NHNN (2020). Quyết định số 711/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 14/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, ban hành ngày 15/4/2020.

9. NHNN (2020), Quyết định số 1238/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/CP ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0, ban hành ngày 08/7/2020.

10. Thomas M. Siebel. (2021), sách "Chuyển đổi số - Sống sót và bứt phá trong kỷ nguyên sụp đổ hàng loạt", Nhà xuất bản Tổng hợp Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Thanh Thư (2021), “Các xu hướng công nghệ hàng đầu năm 2021”, Chuyên đề Công nghệ và ngân hàng số, Tạp chí Ngân hàng, số 1, trang 19 - 23.

12. Mạnh Vỹ (2010), “Điện toán đám mây đang là hiện thực”, Tạp chí Công nghệ Thông tin và Truyền thông, số 2 (tháng 5/2010), trang 49 - 52.

13. Website các NHTM.


PGS., TS. Bùi Văn Trịnh (Khoa Tài chính - Kế toán, Trường Đại học Cửu Long)

TS. Phạm Minh Trí (Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Hậu Giang)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng và hệ sinh thái ngân hàng không chỉ là xu hướng công nghệ mà đang tái định hình căn bản ngành tài chính - ngân hàng, với mục tiêu mang lại trải nghiệm tích hợp, cá nhân hóa và bao trùm. Mặc dù mở ra tiềm năng lớn trong việc mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ và thúc đẩy đổi mới, tuy nhiên, sự kết hợp này cũng đặt ra những câu hỏi quan trọng trong tương lai.
Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI đang mở ra những cơ hội chưa từng có trong việc cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàngViệt Nam. Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức trong việc triển khai GenAI, tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam đang dần vượt qua những rào cản này để tận dụng tiềm năng to lớn của GenAI trong cung cấp các sản phẩm, dịch vụ. Với sự phát triển của công nghệ và sự chuyển đổi số mạnh mẽ trong ngành Ngân hàng, GenAI hứa hẹn sẽ mang lại những trải nghiệm khách hàng cá nhân hóa tiên tiến, góp phần nâng cao sự hài lòng của khách hàng, tăng cường lòng trung thành và thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho các ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khách hàng ngày càng mong muốn nhiều hơn sự cách tân, đổi mới đến từ các ngân hàng. Do đó, đổi mới sáng tạo không chỉ là yếu tố cần thiết để các ngân hàng thương mại Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng, mà còn là chìa khóa để duy trì năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế, từ đó nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế số.
AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent không chỉ là một xu hướng công nghệ mà còn là động lực quan trọng để các ngân hàng thích nghi và phát triển trong thời đại số hóa.
Chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại - Kinh nghiệm một số nước và khuyến nghị cho Việt Nam

Chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại - Kinh nghiệm một số nước và khuyến nghị cho Việt Nam

Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng không chỉ đơn thuần là việc tích hợp công nghệ số vào mọi khía cạnh của hoạt động, mà còn là quá trình thúc đẩy sự thay đổi và cải thiện toàn diện. Qua đó, ngân hàng không chỉ tạo ra các phương pháp mới hoặc điều chỉnh các quy trình kinh doanh, mà còn tạo điều kiện cho việc thay đổi văn hóa tổ chức và cải thiện trải nghiệm của khách hàng.
Phát triển dữ liệu - cơ hội lịch sử để Việt Nam bứt phá

Phát triển dữ liệu - cơ hội lịch sử để Việt Nam bứt phá

Từ đời sống hằng ngày đến quản trị quốc gia, dữ liệu hiện diện khắp nơi và đang trở thành yếu tố then chốt trong mọi quyết định. Đó chính là nền tảng của xã hội số, là động lực mạnh mẽ cho phát triển.
Chiến lược ưu tiên thiết bị di động trong hoạt động ngân hàng

Chiến lược ưu tiên thiết bị di động trong hoạt động ngân hàng

Chiến lược ưu tiên thiết bị di động trong hoạt động ngân hàng thể hiện một cách tiếp cận mang tính chuyển đổi, trong đó các tổ chức tài chính ưu tiên nền tảng di động làm kênh chính để cung cấp dịch vụ và tương tác với khách hàng. Sự thay đổi mô hình này được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ nhanh chóng và hành vi người tiêu dùng đang phát triển, đã định nghĩa lại các mô hình ngân hàng truyền thống.
Xem thêm
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc