Tương lai của tiền tệ trong thế giới số

Nghiên cứu - Trao đổi
Công nghệ đang thay đổi cấu trúc hệ thống tài chính và bản chất của tiền tệ... Công nghệ đang thay đổi cấu trúc hệ thống tài chính và bản chất của tiền tệ. Số hóa và sự phát triển các nền tảng công n...
aa

Công nghệ đang thay đổi cấu trúc hệ thống tài chính và bản chất của tiền tệ...

Công nghệ đang thay đổi cấu trúc hệ thống tài chính và bản chất của tiền tệ. Số hóa và sự phát triển các nền tảng công nghệ có thể dẫn đến việc thay đổi các chức năng của tiền, sự xuất hiện các khu vực tiền tệ vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia và gây ra sự xáo trộn trong hệ thống tài chính quốc tế.


Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số và sự xuất hiện các nền tảng số, cung cấp dịch vụ cho hàng chục triệu đến hàng trăm triệu người dùng, đang thay đổi căn bản cấu trúc của hệ thống tài chính và thậm chí cả bản chất của tiền tệ. Bản thân việc số hóa tiền không phải là mới, bởi lẽ, các tài khoản ngân hàng và các khoản thanh toán thông qua chúng đã tồn tại ở dạng điện tử. Nhưng các loại tiền kỹ thuật số mới có thể làm trụ cột cho các nền tảng công nghệ lớn vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia và sự xuất hiện các loại tiền này có thể thay đổi bản chất cạnh tranh tiền tệ, cấu ​​trúc hệ thống tiền tệ quốc tế và vai trò của tiền tệ do các chính phủ phát hành. Chúng ta đang nói về sự thay đổi trong bản chất của tiền, các hình thái mới của nó và những hậu quả của những thay đổi này có thể là sự phân tích và định hướng lại các chức năng cơ bản của tiền, hệ thống thanh toán “lấy nền tảng làm trung tâm”, đồng đô la “kỹ thuật số”, Markus Brunnermeier, giáo sư tại Đại học Princeton (Mỹ) cho biết.

Tiền kỹ thuật số đã tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau: Ví kỹ thuật số WeChat và Alipay đã thống trị trong hệ thống thanh toán của Trung Quốc; ở châu Phi, các nhà khai thác di động đã tung ra các dịch vụ chuyển tiền thành công như M-Pesa; Facebook đang ấp ủ kế hoạch phát hành đồng Libra (stablecoin) của riêng mình. Cuối cùng, hàng nghìn loại tiền điện tử tư nhân đã được tung ra trong những năm gần đây, theo thống kê của Brunnermeier. Ông đã tập trung nghiên cứu những tác động của việc số hóa tiền tệ trong một công trình nghiên cứu thực hiện với Harold James, một đồng nghiệp tại Đại học Princeton và Jean-Pierre Landau thuộc Học viện Chính trị Paris (Sciences Po), cũng như bài thuyết trình của ông tại hội thảo trực tuyến thường niên lần thứ 19 “Tương lai của tiền tệ” (The Future of Money) của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS).

“Đóng gói lại” các chức năng của tiền

Việc số hóa đã làm giảm đáng kể chi phí trao đổi tiền tệ, có thể dẫn đến sự tách biệt ba chức năng cơ bản của tiền: Đơn vị đo lường; phương tiện thanh toán và phương tiện tích lũy. Bất kỳ đồng tiền quốc gia nào ngày nay đều thực hiện cả ba chức năng này. Theo Brunnermeier, nếu chi phí liên quan đến việc chuyển đổi từ một loại tiền kỹ thuật số này sang một loại tiền kỹ thuật số khác là không lớn thì không cần phải sử dụng cùng một loại tiền tệ làm phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy và đơn vị đo lường. Người dùng hoàn toàn có thể sử dụng một loại tiền kỹ thuật số để tiết kiệm và loại khác để thanh toán. Kết quả là, sự chuyên môn hóa và khác biệt của các đồng tiền kỹ thuật số sẽ được tăng cường. Mỗi loại tiền kỹ thuật số có thể thực hiện một chức năng nhất định và cạnh tranh độc quyền với những đồng tiền khác, chẳng hạn như một phương tiện tính toán hoặc chỉ như một phương tiện tích lũy.


Sự phát triển các nền tảng kỹ thuật số sẽ góp phần “chuyên môn hóa” các loại tiền kỹ thuật số: Các công cụ thanh toán kỹ thuật số liên kết với các nền tảng sẽ kết hợp hiệu quả các chức năng của tiền tệ truyền thống với các chức năng của chính các nền tảng. Do đó, một loại tiền tệ cụ thể sẽ khó tách biệt khỏi nền tảng, nơi nó được sử dụng và sức hấp dẫn của tiền tệ rất có thể sẽ được xác định bởi các chức năng của nền tảng, ví dụ, chính sách bảo mật hoặc sự lựa chọn đối tác của các nền tảng. Sự cạnh tranh của các loại tiền kỹ thuật số trên thực tế sẽ chuyển thành cạnh tranh giữa các gói dịch vụ thông tin và mạng.

Sự dịch chuyển khỏi mô hình lấy ngân hàng làm trung tâm và "bức tường Berlin"

Theo Brunnermeier, công nghệ số đang thay đổi cấu trúc của hoạt động tài chính: Số hóa đang dẫn đến sự dịch chuyển từ mô hình truyền thống mà trung tâm là ngân hàng, tức là, từ mô hình lấy ngân hàng làm trung tâm, nơi tất cả các khoản thanh toán được thực hiện thông qua ngân hàng, sang mô hình lấy thanh toán làm trung tâm, tập trung vào thanh toán thông qua các nền tảng kỹ thuật số.

Người ta cho rằng, lợi thế thông tin về người tiêu dùng thuộc về chính người tiêu dùng. Tuy nhiên, việc các nền tảng tích lũy một lượng lớn dữ liệu về khách hàng (không chỉ về việc mua hàng của họ, mà còn về nội dung tài khoản của họ trên mạng xã hội) dẫn đến sự "chuyển giao quyền lực" - lợi thế thông tin lại thuộc về các nền tảng phục vụ người tiêu dùng. Ví dụ, công ty bảo hiểm có thể hiểu biết về khách hàng nhiều hơn chính bản thân khách hàng: nếu khách hàng thích xe màu đỏ, anh ta sẽ phải trả phí bảo hiểm cao hơn khi mua một hợp đồng bảo hiểm, vì các công ty bảo hiểm có dữ liệu lớn rằng những người lái xe ô tô màu đỏ chạy hung hãn hơn và dễ xảy ra tai nạn hơn...

Brunnermeier chỉ ra rằng, các nền tảng có nhiều quyền kiểm soát hơn đối với các khoản thanh toán kỹ thuật số so với các ngân hàng trung ương, vì các nền tảng hiểu biết nhiều hơn về người dùng của họ và được trang bị tốt hơn để theo dõi, kích thích hoặc hạn chế hoạt động của người dùng. Theo quy định, chi phí gia nhập các nền tảng cực kỳ thấp, giúp thu hút người dùng, trong khi việc rời khỏi nền tảng có thể quá đắt và có thể được coi là “bức tường Berlin” đối với người dùng. Theo một nghĩa nào đó, một số nền tảng gợi nhớ đến “Hotel California”, dễ đến nhưng rất khó ra, Brunnermeier so sánh.

“Đô-la hóa” kỹ thuật số

Thông thường, khi nói đến các khu vực tiền tệ, người ta nói đến các khu vực địa lý nhất định. Trong thế giới số, mọi thứ sẽ khác, Brunnermeier nói: Các khu vực tiền tệ kỹ thuật số đang nổi lên, trong đó, tiền tệ được sử dụng không gắn với một quốc gia hoặc khu vực địa lý cụ thể, mà với một nền tảng kỹ thuật số cụ thể. Vì tiền tệ kỹ thuật số vốn có tính quốc tế, điều này kéo theo nguy cơ “đô-la hóa” kỹ thuật số (tương tự như đô-la hóa truyền thống), nhưng trong trường hợp này, tiền tệ quốc gia có thể được thay thế không phải bằng đô-la, mà bằng một loại tiền kỹ thuật số “nước ngoài”.

“Ví dụ, tôi có một số người bạn từ Trung Quốc sống ở Mỹ, khi họ đặt đồ ăn tại một nhà hàng Trung Quốc, họ thanh toán qua Alipay. Có nghĩa là, mặc dù thực tế là cả khách hàng và chủ nhà hàng đều ở Mỹ và giao dịch được thực hiện ở Mỹ, nhưng tiền đi qua hệ thống thanh toán của Trung Quốc”, nhà kinh tế này đưa ra một ví dụ.

Trong một môi trường mà thanh toán bằng tiền mặt ngày càng bị thay thế bởi các phương thức kỹ thuật số và những gã khổng lồ công nghệ có nhiều ảnh hưởng và quyền lực hơn, hệ thống tài chính có thể chuyển hướng sang các nền tảng kỹ thuật số. Hậu quả nghiêm trọng nhất của điều này có thể là các đại lý bắt đầu ký hợp đồng theo đơn vị kế toán dành riêng cho nền tảng, thay vì đơn vị kế toán của ngân hàng trung ương. "Đô-la hóa" kỹ thuật số có thể dẫn đến thực tế là đồng tiền quốc gia sẽ không còn thực hiện các chức năng của tiền, cơ quan quản lý sẽ mất khả năng điều hành chính sách tiền tệ và chủ quyền tiền tệ của quốc gia sẽ bị suy yếu hoặc mất đi.

Các nền kinh tế nhỏ, các nền kinh tế có khu vực phi chính thức lớn, các quốc gia có hệ thống quản lý kém hiệu quả và các quốc gia không có hệ thống thanh toán điện tử quốc gia hiệu quả dễ bị tổn thương nhất bởi “đô-la hóa” kỹ thuật số.

Các tuyến phòng thủ

Trong tương lai, hệ thống tiền tệ sẽ không chỉ tính đến vai trò của chính phủ và các ngân hàng, mà còn phải tính đến vai trò của các công ty công nghệ lớn. Dữ liệu lớn của các nền tảng kỹ thuật số là một lợi thế lớn, nhưng nó cũng có thể được sử dụng bởi các ngân hàng và ngân hàng cũng có thể trở thành các công ty công nghệ.

Nhà nước cần duy trì chủ quyền tiền tệ, điều tối quan trọng để quản lý nền kinh tế. Nó đòi hỏi sự quản lý hiệu quả các công ty công nghệ, nhưng đồng thời, giải pháp có thể là các ngân hàng trung ương phát hành tiền tệ kỹ thuật số quốc gia hay còn gọi là tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (Central Bank Digital Currency - CBDC).


Trong nền kinh tế hiện đại, hầu như không có sự tương tác tiền tệ trực tiếp giữa các cơ quan quản lý tiền tệ và các cá nhân: tiền mặt chỉ đại diện cho một phần nhỏ của cung tiền và hầu hết người tiêu dùng giữ phần lớn tiền của họ dưới dạng tiền gửi ngân hàng. Các ngân hàng trung ương có thể tác động nhất định đến dân cư bằng cách điều tiết lãi suất mà các ngân hàng có thể vay và cho vay. Tuy nhiên, nếu sự xuất hiện các loại tiền kỹ thuật số dựa trên nền tảng làm thay đổi hệ thống phân cấp tài chính từ tập trung vào ngân hàng sang tập trung vào nền tảng thì vai trò của các ngân hàng có thể giảm đi. CBDC có thể trở thành một phương thức tự nhiên để chống lại những tác động tiêu cực của số hóa và là kênh trực tiếp để truyền tải chính sách tiền tệ trong thế giới số mới, cũng như duy trì sự cần thiết về đơn vị thanh toán của ngân hàng trung ương trong một nền kinh tế số đang thay đổi nhanh chóng.

Tương tác giữa CBDC và các nền tảng kỹ thuật số lớn sẽ có ý nghĩa quan trọng: CBDC có thể không đủ hấp dẫn đối với công chúng nếu nó không thể được sử dụng trên các nền tảng phổ biến và đồng thời, mọi người sẽ có xu hướng sử dụng một nền tảng, nơi mà CBDC có thể được sử dụng để thanh toán.

Tài liệu tham khảo:

Markus K. Brunnermeier, Harold James, Jean-PierreLandau (2019), "The Digitalization of Money", 19th BIS Annual Conference.

TS. Nguyễn Đình Trung (Hà Nội)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tại Việt Nam. Thông qua tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước kết hợp với mô hình định lượng, nghiên cứu sẽ làm rõ tác động của rủi ro địa chính trị ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.
Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa bất bình đẳng kinh tế giữa các địa phương và hoạt động kinh doanh bền vững của doanh nghiệp tại Việt Nam dựa trên tiêu chí ESG. Dữ liệu được thu thập từ hình ảnh vệ tinh và thông tin của hơn 1.000 doanh nghiệp trên cả nước. Kết quả giúp đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội đến hoạt động bền vững và đưa ra khuyến nghị chính sách phù hợp.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng