Trái phiếu xanh: Công cụ thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Đặt vấn đề: Phát hành trái phiếu xanh đang là xu hướng toàn cầu với sự tham gia của các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châ...
aa

Đặt vấn đề: Phát hành trái phiếu xanh đang là xu hướng toàn cầu với sự tham gia của các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)... và được xem là một kênh huy động vốn quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng bền vững. Tại Việt Nam, nhu cầu vốn cho phát triển các dự án xanh, đặc biệt là dự án năng lượng tái tạo rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu này, việc đẩy mạnh các sản phẩm tài chính xanh, trong đó có trái phiếu xanh là tất yếu.

1. Xu hướng trái phiếu xanh trên thế giới

Theo Tổ chức năng lượng quốc tế (IEA), để giảm một nửa lượng khí thải toàn cầu vào năm 2050, thế giới sẽ cần đến 46 nghìn tỷ USD, tương đương với 1 nghìn tỷ USD/năm. Trong bối cảnh đó, trái phiếu xanh (TPX) được xem như một kênh thu hút vốn mới và là giải pháp hiệu quả, có thể giúp huy động hàng trăm tỷ USD/năm cho phát triển một nền kinh tế xanh và bền vững.


Theo định nghĩa của Tổ chức Sáng kiến Trái phiếu Khí hậu (CBI), TPX là trái phiếu được phát hành nhằm huy động vốn cho những giải pháp biến đổi khí hậu do chính phủ, ngân hàng, địa phương hoặc doanh nghiệp phát hành, dán nhãn TPX dưới dạng chứng khoán nợ bao gồm chứng khoán hóa, phát hành riêng lẻ, trái phiếu có đảm bảo,... cũng như các khoản vay được dán nhãn xanh tuân thủ nguyên tắc trái phiếu xanh (Green Bond Principles - GBP) hoặc nguyên tắc cho vay xanh (Green Loan Principles - GLP). CBI phân loại TPX theo 8 lĩnh vực gồm năng lượng, tòa nhà, giao thông, nước, chất thải, tài sản có nguồn gốc tự nhiên, công nghiệp và công nghệ thông tin (ICT).

Năm 2007, thị trường đón nhận đợt phát hành TPX hạng AAA đầu tiên của các tổ chức phát hành là EIB và WB. Cho đến nay, các tổ chức phát hành TPX đã rất đa dạng và phong phú từ các tổ chức phi lợi nhuận, các chính phủ, các ngân hàng và cả các doanh nghiệp. Theo báo cáo từ tổ chức phi lợi nhuận Climate Bonds Initiative, giá trị TPX phát hành trên toàn cầu tăng nhanh trong các năm gần đây trong đó năm 2015 đạt 42 tỷ USD, năm 2016 tăng gấp đôi đạt 87 tỷ USD, năm 2017 đạt 160,8 tỷ USD, tăng 78% so với năm 2016 và năm 2018 giá trị TPX đã đạt khoảng 175 tỷ USD. TPX được sử dụng chủ yếu vào việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, đầu tư xây dựng các tòa nhà phát thải carbon thấp và có hiệu năng cao. (Bảng 1)


Về kỳ hạn trái phiếu, các tổ chức phát hành gọi vốn nhiều nhất qua TPX trung hạn 2 - 5 năm, tiếp đến là 5-10 năm và có rất ít đợt phát hành TPX kỳ hạn 20 năm. Tương tự như năm 2017, Mỹ, Trung Quốc và Pháp là ba quốc gia phát hành TPX lớn nhất thế giới, chiếm 46% tổng giá trị phát hành TPX toàn cầu năm 2018. Top 3 nhà phát hành TPX của năm gồm Fannie Mae, USA (USD tỷ 20.1); Ngân hàng Công nghiệp Trung Quốc (9,6 tỷ USD); Cộng hòa Pháp (6 tỷ USD). (Bảng 2)

Năm 2018, có 8 thị trường TPX mới gồm Iceland, Indonesia, Lebanon, Namibia, Bồ Đào Nha, Seychelles, Thái Lan và Uruguay với giá trị phát hành là 3,3 tỷ USD và 204 công ty phát hành TPX lần đầu tiên với tổng giá trị phát hành là 61,2 tỷ USD chiếm 37% giá trị toàn thị trường (năm 2017 có 161 tổ chức phát hành mới với thị phần là 35%). Xét về tốc độ tăng trưởng, Châu Á Thái Bình Dương là khu vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất với tốc độ tăng là 35% và có khối lượng phát hành lớn thứ 2 sau Châu Âu. Tại khu vực Asean, hiện tổng giá trị dư nợ TPX và bền vững lên tới 1,6 tỷ USD; trong đó, xây dựng là hạng mục được TPX cấp vốn nhiều nhất (43% theo khối lượng thị trường), tiếp theo là năng lượng ở mức 32%[1].

2. Cơ chế, chính sách phát triển thị trường TPX tại Việt Nam

Theo nghiên cứu của các tổ chức quốc tế và các cơ quan chức năng của Việt Nam, Việt Nam là quốc gia có thể chịu tổn thất khoảng 15 tỷ USD/năm do biến đổi khi hậu, tương đương khoảng 5% GDP và 20% dân số chịu tác động bởi sự gia tăng của mực nước biến, diện tích canh tác bị thu hẹp do ngập lụt và xâm ngập mặn. Bên cạnh đó, theo ước tính của Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ), Việt Nam cần khoảng 30,7 tỷ USD cho đến năm 2020 và cần khoảng 21,2 tỷ USD cho 10 năm tiếp theo để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững. Có thể thấy nhu cầu vốn cho tăng trưởng xanh là rất lớn, trong khi theo dự tính chỉ có khoảng 30% vốn đến từ NSNN (bao gồm ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh và viện trợ phát triển không chính thức), còn lại 70% sẽ đến từ khu vực tư nhân. Vì vậy, thị trường vốn, đặc biệt thị trường trái phiếu với điểm nhấn TPX đang được xem là một kênh thu hút vốn mới và hiệu quả nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính sách mang tính định hướng về phát triển thị trường TPX. Trong đó, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ), Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh (Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ) đã xác định từ năm 2012, Việt Nam đã có định hướng về tài chính xanh và các sản phẩm tài chính xanh cho thị trường chứng khoán Việt Nam để tạo nguồn lực tài chính cho tăng trưởng xanh.

Trên cơ sở Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên, BVMT và chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, ngày 20/10/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 2183/QĐ-BTC phê duyệt Kế hoạch hành động của ngành tài chính thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020. Theo đó, Quyết định nêu rõ việc xây dựng, hoàn thiện khung chính sách tài chính, nhằm phát triển thị trường vốn xanh và các sản phẩm tài chính xanh, bao gồm: Thiết lập khung tài chính xanh cho các hoạt động trên thị trường vốn như ban hành các quy định, điều kiện khi niêm yết cổ phiếu (niêm yết xanh), báo cáo (trong báo cáo bền vững) và giám sát (theo các tiêu chí tài chính xanh); huy động vốn đầu tư cho tăng trưởng xanh thông qua thị trường vốn cho các doanh nghiệp, dự án và sản phẩm xanh, niêm yết, phát hành TPX cho các dự án, chương trình và lĩnh vực xanh... Cùng với những văn bản trên, Quyết định số 1191/QĐ-TTg ngày 14/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động phát triển của thị trường TPX ở Việt Nam. Theo Quyết định này, các cơ chế, chính sách về phát triển thị trường TPX được xây dựng theo hướng tạo thuận lợi cho các chủ thể huy động vốn TPX để thực hiện các dự án xanh.

Mới đây, trong Nghị định 163/2018/NĐ-CP ngày 4/12/2018 của Chính phủ quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã đưa ra khái niệm “Trái phiếu doanh nghiệp xanh là trái phiếu doanh nghiệp được phát hành để đầu tư cho các dự án bảo vệ môi trường theo quy định của Luật bảo vệ môi trường” cũng như đưa ra nguyên tắc phát hành và sử dụng vốn TPX; công bố thông tin trước đợt phát hành, công bố thông tin định kỳ,... Bên cạnh đó, theo quy định tại Nghị định số 95/2018/NĐ-CP về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch công cụ nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khoán, TPX là loại trái phiếu Chính phủ phát hành để đầu tư cho các dự án liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường (dự án xanh) và nằm trong danh mục dự án được phân bổ vốn đầu tư công theo quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước.

3. Huy động TPX cho các dự án năng lượng

Trong giai đoạn 2011-2015, ngành năng lượng Việt Nam đã đầu tư bình quân 7,8 tỷ USD mỗi năm và hơn 80% nguồn vốn đầu tư này tập trung cho lĩnh vực phát điện, chủ yếu dành cho các dự án nguồn điện lớn gồm điện than; điện khí và thủy điện. Trong giai đoạn 2016-2030 nhu cầu đầu tư còn lớn hơn, trong khi tỷ lệ đầu tư của ngành điện theo GDP sẽ tiếp tục giảm, bình quân 2,3 - 2,8% mỗi năm trong giai đoạn 2016 - 2030. Theo RPDP7 của Chính phủ, tổng nhu cầu đầu tư vào ngành điện trong giai đoạn dự báo 2016 - 2030 được ước tính khoảng 152 - 185 tỷ USD, trung bình nhu cầu hàng năm ước tính từ 8 - 12 tỷ USD. (Bảng 3)


Bên cạnh đó, nhằm thực hiện các cam kết của Việt Nam trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định cho Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu, tăng công suất năng lượng tái tạo từ mức 12 GW hiện tại lên 30 GW vào năm 2030. Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn cho năng lượng tái tạo. Dự kiến, trong giai đoạn 2016-2030, năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) sẽ đứng thứ hai về danh mục đầu tư (xếp sau nhiệt điện than) và khí thiên nhiên cũng sẽ chiếm tỷ lệ lớn. Số lượng nguồn vốn đầu tư vào năng lượng tái tạo mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu. Đến năm 2030 dự báo cần có tới 90.000 tỷ USD để đạt được các mục tiêu khí hậu và phát triển bền vững toàn cầu. Riêng đối với khu vực ASEAN, nhu cầu vốn xanh ước tính khoảng 2.650 - 3.000 tỷ USD, bình quân cần tới 200 tỷ USD/năm trong giai đoạn 15 năm. Trong đó, thị trường Việt Nam chiếm khoảng 16% tổng quy mô của toàn thị trường ASEAN, đứng vị trí thứ 2 chỉ sau Indonesia (chiếm 36%). Vì vậy, các sản phẩm tài chính xanh, trong đó có TPX đang được xem là công cụ hiệu quả thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam. (Bảng 4)


Thực tế thời gian qua cho thấy, huy động tài chính xanh cho các dự án năng lượng tái tạo chủ yếu đến từ nguồn tín dụng xanh, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương xanh và trái phiếu doanh nghiệp xanh là những sản phẩm mới giúp đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường và thu hút nhà đầu tư, các tổ chức phát hành. Tuy nhiên do một số vướng mắc về khung pháp lý nên về cơ bản mới chỉ thực hiện thí điểm. Cụ thể:

Đối với trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương xanh, từ cuối năm 2015, trong chương trình hợp tác giữa Ủy ban Chứng khoán Quốc gia với Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) đã xây dựng Đề án phát triển thị trường TPX. Trên cơ sở đó, ngày 20/10/2016, lãnh đạo Bộ Tài chính đã phê duyệt Đề án phát hành thí điểm TPX của chính quyền địa phương và chỉ đạo các đơn vị liên quan triển khai thí điểm TPX. Năm 2016, hai địa phương đầu tiên là TP. Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu huy động vốn thông qua phát hành TPX. Trong đó, TP. Hồ Chí Minh phát hành 523 tỉ đồng để tài trợ cho 11 dự án xanh (quản lý nguồn nước bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và các công trình cơ sở hạ tầng bền vững) và Bà Rịa - Vũng Tàu phát hành 80 tỉ đồng TPX để tài trợ cho một dự án về quản lý nguồn nước. Đến năm 2018, TP. Hồ Chí Minh đã phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu chính quyền địa phương xanh cho 34 dự án, trong đó lập danh mục 11 dự án xanh dựa trên “Danh mục dự án xanh” do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Đồng thời, Bà Rịa - Vũng Tàu đã chuẩn bị cho đợt phát hành TPX đầu tiên 500 tỷ đồng cho 8 dự án xanh.

Đối với trái phiếu doanh nghiệp xanh: Trong chương trình hợp tác từ năm 2018, GIZ dự kiến sẽ phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Quốc gia, hai Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cùng với IFC xây dựng đề án phát triển TPX doanh nghiệp và TPX định chế tài chính và thí điểm phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh, trước mắt có thể là các công ty thuộc VNSI (Top 20 doanh nghiệp về phát triển bền vững) và các ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam. Bên cạnh đó, theo thông tin công bố công khai, cuối tháng 8/2019, Công ty cổ phần (CTCP) Điện mặt trời Trung Nam đã phát hành thành công 2.100 tỷ đồng trái phiếu riêng lẻ có kỳ hạn 9 năm và CTCP Trung Nam (sở hữu 70% vốn của CTCP Điện mặt trời Trung Nam) cũng phát hành thành công 945 tỷ đồng với kỳ hạn 5 năm, lãi suất thả nổi bằng lãi suất tiền gửi kỳ hạn 2 năm cộng biên độ 3,5%/năm, riêng năm đầu tiên là 10,5%/năm. Tổng số tiền hai công ty này huy động được là 3.045 tỷ đồng và được sử dụng cho dự án điện mặt trời tại Ninh Thuận. Đầu tháng 10/2019, CTCP Bamboo Capital (BCG) công bố kế hoạch dự kiến phát hành 900.000 trái phiếu chuyển đổi trong quý IV/2019, lãi suất 5%/năm, kỳ hạn 3 năm, trong đó dự kiến 350 tỷ đồng đầu tư các dự án năng lượng mặt trời, 500 tỷ đồng đầu tư vào các dự án bất động sản, 50 tỷ bổ sung vốn lưu động.

Như vậy có thể thấy, mặc dù cần nhu cầu vốn lớn như việc huy động nguồn vốn từ TPX cho phát triển năng lượng tái tạo còn rất hạn chế do một số nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân đầu tiên là do khung khổ pháp lý đối với phát triển TPX hiện tại ở Việt Nam còn nhiều khoảng trống, hiện chưa có văn bản pháp lý cụ thể quy định và hướng dẫn về thị trường TPX. Tuy nhiên, mới đây nhất Việt Nam đã đưa được khái niệm TPX vào các Nghị định, tạo tiền đề cho việc ban hành khung pháp lý thống nhất về TPX. Bên cạnh đó, những nền tảng cơ bản cho phát hành TPX như quy mô thị trường trái phiếu còn nhỏ (chiếm khoảng 25% GDP, Trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 9% GDP); các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian như tổ chức định mức tín nhiệm, tổ chức đánh giá độc lập còn ít; mức độ đa dạng nhà đầu tư trên thị trường còn rất hạn chế chủ yếu là các ngân hàng thương mại... cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của thị trường TPX.

4. Giải pháp phát triển TPX cho các dự án năng lượng tái tạo

Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) dự báo, tổng tiềm năng đầu tư vào các dự án liên quan đến khí hậu của Việt Nam có thể lên đến 753 tỷ USD từ nay tới năm 2030, trong đó 59 tỷ USD đầu tư vào năng lượng tái tạo, 80 tỷ USD đối với các dự án công trình xanh... Vì vậy, khoảng trống cho TPX là rất lớn. Để phát triển thị trường TPX nói chung và thúc đẩy phát hành trái phiếu huy động vốn cho các dự án năng lượng tái tạo nói riêng, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về TPX. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, việc ban hành các chính sách để hoàn thiện môi trường pháp lý cho sự phát triển chính thức của thị trường TPX là thực sự cần thiết. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã ban hành Chỉ thị về TPX trong đó quy định một số nội dung cơ bản như khái niệm TPX, danh mục các ngành được huy động vốn từ TPX, chủ thể được phép phát hành TPX, thủ tục phát hành, nguyên tắc trong quá trình sử dụng và quản lý nguồn thu từ TPX... Vì vậy, Chính phủ tiếp tục có những hướng dẫn cụ thể hơn về TPX. Trong đó:(i) hoàn thiện đề án trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương xanh làm rõ tiêu chí TPX, lộ trình phát triển, ngành/lĩnh vực đầu tư. Việc phát triển trái phiếu chính quyền địa phương xanh để đầu tư cho các dự án/chương trình xanh hoặc cơ sở hạ tầng mềm thuộc nhiệm vụ chi NSNN là xu hướng được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng trong giai đoạn đầu xây dựng thị trường TPX; (ii) hướng dẫn về cơ chế báo cáo, công khai thông tin về việc phát hành, quản lý sử dụng vốn trái phiếu cho các dự án xanh và cơ chế phát hành, quản lý, giám sát nguồn vốn sử dụng TPX; (iii) nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật chứng khoán về các sản phẩm của thị trường vốn xanh, yêu cầu công bố về ESG liên quan đến quản trị công ty, bộ tiêu chí về công bố thông tin các dự án xanh, danh mục dự án xanh ưu tiên sử dụng TPX… nhằm minh bạch và nâng cao trách nhiệm của các tổ chức phát hành; (iii) xây dựng và phát triển thị trường TPX, chứng chỉ đầu tư cho các dự án xanh, xây dựng các bộ chỉ số xanh...; (iv) ban hành Bộ nguyên tắc đầu tư cho trách nhiệm yêu cầu các công ty niêm yết cung cấp các báo cáo tổng hợp về hoạt động và rủi ro xã hội, môi trường của công ty, làm cơ sở cho nhà đầu tư xác định những ngành chính đáp ứng tiêu chuẩn tài trợ và đầu tư từ TPX...

Hai là, tiếp tục triển khai các chính sách tài chính để khuyến khích DN huy động vốn đầu tư cho tăng trưởng xanh thông qua phát hành, niêm yết trái phiếu, cổ phiếu xanh. Đồng thời, cần có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ DN, quỹ đầu tư trong thủ tục, cơ chế đầu tư thuận lợi khi phát hành trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư cho các dự án, chương trình và lĩnh vực xanh. Bên cạnh đó, để thúc đẩy thanh khoản cho TPX cần có cơ chế chấp nhận sử dụng TPX trong hoạt động thị trường mở với tỷ lệ chiết khấu cao hơn các trái phiếu cùng loại; cho phép các tổ chức tín dụng sử dụng TPX (trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh...) làm dự trữ bắt buộc.

Ba là, nghiên cứu thêm các chính sách ưu đãi đối với phát hành TPX như (i) nghiên cứu cơ chế khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp, quỹ đầu tư về thủ tục, cơ chế đầu tư thuận lợi khi phát hành TPX như đơn giản hóa thủ tục phát hành trái phiếu, rút ngắn thời gian chấp thuận đối với các đợt phát hành TPX...; (ii) áp dụng chính sách hỗ trợ về lãi suất đối với TPX dựa trên những tiêu chí cụ thể về giá trị phát hành, kỳ hạn; (iii) nghiên cứu chính sách thuế, phí để khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn đầu tư cho các dự án năng lượng tái tạo thông qua phát hành, niêm yết TPX; (iv) nghiên cứu cơ chế chấp nhận sử dụng TPX trong hoạt động thị trường mở với tỷ lệ chiết khấu cao hơn các trái phiếu cùng loại; cho phép các tổ chức tín dụng sử dụng TPX (trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh...) làm dự trữ bắt buộc để tăng tính thanh khoản cho TPX.

________________________

[1] Marlon Joseph Apanada, chương trình Sáng kiến tài chính xanh, kiêm Giám đốc Allotrope Partners, Philippines.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- CBI (2018), Green bond the state of the market 2018.

- Nguyễn Thị Tuyết Mai, Xu hướng phát triển thị trường TPX trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam. Truy cập: http://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/xu-huong-phat-trien-thi-truong-trai-phieu-xanh-tren-the-gioi-va-kinh-nghiem-cho-viet-nam-302121.html; ngày 4/11/2019.

- Trần Thế Anh (Ngân hàng Phương Đông), Giải pháp thúc đẩy phát triển TPX tại Việt Nam, Tạp chí Môi trường, số 5/2018.

- Vụ TCNH (2017), Triển vọng thị trường TPX tại Việt Nam, hội nghị “Phát triển thị trường vốn xanh tại Việt Nam”, tháng 11/2017:

- http://gizmacro.ciem.org.vn/

- Viện CL&CSTC (2018), Kỷ yếu hội thảo “Cơ chế tài chính phát triển mô hình kinh tế xanh, hướng đến phát triển bền vững”, tháng 9/2018.


PGS., TS.Phạm Tiến Đạt,
ThS. Lê Minh Hương


TCNH số 24/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của đất nước, Đảng ủy Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) xác định siết chặt kỷ cương là yếu tố then chốt và đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng với thách thức kinh tế hiện nay.
Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ để thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050 và đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững, ESG đã và đang trở thành một yêu cầu tất yếu đối với hệ thống tài chính nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng...
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân là kim chỉ nam giúp chúng ta xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, không chỉ hội nhập thành công với thế giới mà còn giữ vững được bản sắc dân tộc, bảo đảm sự ổn định và phát triển lâu dài cho đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Những năm gần đây, nhiều tập đoàn đã bắt đầu chú trọng vào các vấn đề đảm bảo tính bền vững trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chuỗi cung ứng và các quyết định đầu tư của mình. Tại các buổi thảo luận của Liên hợp quốc, các quốc gia trong nhóm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và G20 đã thể hiện sự đồng thuận mang tính quốc tế cao rằng, để tăng cường tính ổn định tài chính và phát triển kinh tế dài hạn, cần nhanh chóng cải thiện các hoạt động về quản trị trách nhiệm với môi trường và xã hội (Environmental and Social Governance - E&S) tại các doanh nghiệp. Một trong những hoạt động mà Liên hợp quốc hướng tới là khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện Báo cáo phát triển bền vững.
Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Xem thêm
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng