Thực trạng cung ứng phái sinh tại các tổ chức tín dụng Việt Nam và một số khuyến nghị

Công nghệ & ngân hàng số
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, bên cạnh các nghiệp vụ mang tính truyền thống, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ mới, hiện đại,...
aa

Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, bên cạnh các nghiệp vụ mang tính truyền thống, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ mới, hiện đại, trong đó, phải kể đến các giao dịch phái sinh (Derivaties) bao gồm các hợp đồng kỳ hạn, tương lai, quyền chọn và hoán đổi. Việc cung ứng các giao dịch phái sinh giúp các TCTD thu được lợi nhuận từ phí dịch vụ, đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng hiện tại, ví dụ hỗ trợ khách hàng phòng ngừa rủi ro trong các giao dịch gốc. Các sản phẩm phái sinh cũng cung cấp thêm cho các TCTD một công cụ hữu hiệu để quản trị rủi ro lãi suất cho hoạt động kinh doanh của mình. Bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp, tập trung phân tích một số vấn đề về mặt pháp lý và thực trạng cung ứng phái sinh tại các TCTD, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển sản phẩm này tại các TCTD Việt Nam.

1. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động cung ứng dịch vụ phái sinh tại Việt Nam

Các TCTD thường cung ứng các sản phẩm phái sinh để phục vụ nhu cầu khách hàng, đồng thời phục vụ cho các mục tiêu của chính bản thân ngân hàng và chủ yếu tham gia trên thị trường phái sinh phi chính thức (Li, L. và Yu, Z., 2010). Tại Việt Nam, thị trường phái sinh còn đang trong giai đoạn mới vận hành và còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro (Đinh Bảo Ngọc, Võ Hoàng Diễm Trinh, 2017, Võ Thị Phương, 2016). Để thị trường hoạt động hiệu quả, việc xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động phái sinh là điều vô cùng cần thiết. Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các TCTD tại Việt Nam được điều chỉnh theo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ bao gồm Luật các TCTD, Pháp lệnh Ngoại hối và các văn bản quy định do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành. Đây là cơ sở giúp các TCTD triển khai các nghiệp vụ này trong thực tế.

Các quy định hiện hành về cung ứng sản phẩm phái sinh đối với các TCTD:

Luật các TCTD 2010

Hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng và TCTD nói chung chịu sự điều chỉnh của Luật các TCTD 2010. Theo đó, hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các NHTM cũng được điều chỉnh theo luật này. Khoản 23, Điều 4 đã quy định “Sản phẩm phái sinh là công cụ tài chính được định giá theo biến động dự kiến về giá trị của một tài sản tài chính gốc như tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ hoặc tài sản tài chính khác.”. Việc cung ứng sản phẩm phái sinh của các NHTM Việt Nam được thực hiện theo Điều 105: "1. Sau khi được NHNN chấp thuận bằng văn bản, NHTM được kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản phẩm sau đây: a) Ngoại hối; b) Phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác.”; “2. NHNN quy định về phạm vi kinh doanh ngoại hối; điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận việc kinh doanh ngoại hối; kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh của NHTM.”... Trong Điều 107 cũng quy định về các hoạt động kinh doanh khác của NHTM sau khi được NHNN cấp phép, bao gồm cả cung ứng dịch vụ phái sinh.

Pháp lệnh Ngoại hối

Trong các sản phẩm phái sinh, ngoại tệ là loại tài sản cơ sở quan trọng và phổ biến, vì thế, hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh cũng nằm dưới sự quản lý của các quy định về hoạt động ngoại hối tại Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2005, Pháp lệnh số 06/2013/PL-UBTVQH13 ngày 18/3/2013 (Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối) và Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối.

Quy định của NHNN

Trên cơ sở Luật các TCTD, Pháp lệnh Ngoại hối, NHNN đã ban hành các quy định làm nền tảng cho triển khai các công cụ tài chính phái sinh, cụ thể bao gồm:

- Về cấp giấy phép đối với nghiệp vụ phái sinh của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (CNNHNNg): Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-NHNN ngày 29/11/2017 quy định về việc cấp giấy phép và tổ chức, hoạt động của NHTM, CNNHNNg, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.

- Về nghiệp vụ kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh:

+ Thông tư số 15/2015/TT-NHNN ngày 02/10/2015 hướng dẫn giao dịch ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ của các TCTD được phép hoạt động ngoại hối. Văn bản này đưa ra các quy định cụ thể về các sản phẩm kỳ hạn, hoán đổi và quyền chọn ngoại tệ của các NHTM.

+ Thông tư số 01/2015/TT-NHNN ngày 06/01/2015 quy định hoạt động kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất của NHTM, CNNHNNg.

+ Thông tư số 40/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa của NHTM.

- Về hoạt động ngoại hối: Văn bản hợp nhất số 45/VBHN-NHNN ngày 17/10/2016 hướng dẫn về phạm vi hoạt động ngoại hối, điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận hoạt động ngoại hối của TCTD, CNNHNNg.

2. Thực trạng cung ứng dịch vụ phái sinh tại các TCTD Việt Nam

Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, các TCTD Việt Nam đã triển khai phát triển cung ứng sản phẩm phái sinh cho khách hàng của mình. Các sản phẩm phái sinh của các TCTD tập trung chủ yếu vào 3 nhóm phái sinh được NHNN cho phép thực hiện bao gồm phái sinh ngoại tệ, lãi suất và giá cả hàng hóa.

2.1. Phái sinh ngoại tệ

Đây là một trong những sản phẩm phái sinh được thực hiện sớm nhất tại các NHTM Việt Nam. Các giao dịch về kỳ hạn ngoại tệ và hoán đổi được thực hiện từ những năm 90, trong khi đó quyền chọn ngoại tệ cũng bắt đầu được thực hiện từ năm 2004. Hiện nay, việc cung ứng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ chịu sự hướng dẫn của Thông tư số 15/2015/TT-NHNN và Văn bản hợp nhất số 45/VBHN-NHNN.

Về điều kiện thực hiện: Việc thực hiện giao dịch ngoại tệ phù hợp phạm vi hoạt động ngoại hối của từng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được NHNN chấp thuận tại Giấy phép thành lập và hoạt động. Các TCTD khi thực hiện giao dịch ngoại tệ với khách hàng có trách nhiệm xem xét, kiểm tra, lưu giữ các giấy tờ và chứng từ phù hợp với giao dịch thực tế để đảm bảo giao dịch ngoại tệ được thực hiện đúng mục đích và phù hợp quy định của pháp luật. Đồng thời, các TCTD được phép phải ban hành quy định nội bộ về quy trình thực hiện, tuân thủ các quy định của NHNN về giới hạn, tỷ lệ an toàn, trạng thái ngoại tệ và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

Về đối tượng được thực hiện: Các tổ chức được phép thực hiện phái sinh ngoại hối bao gồm các NHTM, các TCTD phi ngân hàng và các CNNHNNg được kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối. Khách hàng sẽ bao gồm: Người cư trú là tổ chức kinh tế (bao gồm cả TCTD không phải TCTD được phép), tổ chức khác và cá nhân.

Về sản phẩm: Các phái sinh ngoại tệ được giao dịch theo Thông tư số 15/2015/TT-NHNN bao gồm: Sản phẩm mua, bán ngoại tệ kỳ hạn; sản phẩm hoán đổi ngoại tệ và sản phẩm quyền chọn mua, bán ngoại tệ. Các sản phẩm phái sinh ngoại tệ được cung ứng cho khách hàng theo quy định được mô tả ở bảng 1.

Có thể thấy rằng, theo Thông tư số 15/2015/TT-NHNN thì TCTD sẽ được cung ứng gần như đầy đủ các loại phái sinh ngoại tệ cho nhóm khách hàng trong nước; tuy nhiên, hiện nay, NHNN chưa cho phép các TCTD cung ứng sản phẩm phái sinh ngoại tệ cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Trong các giao dịch phái sinh ngoại tệ, giao dịch kỳ hạn và hoán đổi chiếm chủ yếu, còn các giao dịch quyền chọn về ngoại tệ không đáng kể. Đối với quyền chọn USD-VND, để hạn chế yếu tố đầu cơ ảnh hưởng đến điều hành tỷ giá, NHNN đã dừng cho phép thực hiện giao dịch này theo văn bản số 1820/NHNN-QLNH ngày 18/3/2009.

Hình 1 cho thấy, trong hai năm 2016 và 2017, doanh số giao dịch phái sinh có xu hướng tăng lên cả ở giao dịch với khách hàng và giao dịch liên ngân hàng. Năm 2017, tổng doanh số giao dịch phái sinh ngoại tệ (bao gồm kỳ hạn và hoán đổi của các cặp đồng tiền chính) với khách hàng đạt 28,2 tỷ USD, tăng 45,6% so với năm 2016. Trong khi đó, tổng doanh số giao dịch phái sinh ngoại tệ liên ngân hàng năm 2017 đạt 181,5 tỷ USD, tăng 71,9% so với năm 2016.

Tuy doanh số giao dịch phái sinh ngoại tệ có tăng lên nhưng tỷ trọng vẫn còn nhỏ so với doanh số giao ngay. Hình 2 cho thấy, tỷ trọng giao dịch phái sinh ngoại tệ năm 2017.


2.2. Phái sinh lãi suất

Văn bản quy định hiện hành liên quan đến phái sinh lãi suất được NHNN quy định trong Thông tư 01/2015/TT-NHNN hướng dẫn giao dịch ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trong nước giữa các TCTD được phép hoạt động ngoại hối với nhau và giữa TCTD được phép hoạt động ngoại hối với khách hàng.

Về điều kiện thực hiện: TCTD chỉ được kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất khi được NHNN chấp thuận tại Giấy phép thành lập và hoạt động, hoặc bằng văn bản riêng theo quy định của pháp luật; TCTD kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất liên quan đến ngoại hối phải thực hiện theo quy định của pháp luật về ngoại hối. TCTD kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất nhằm mục đích phòng ngừa, hạn chế rủi ro lãi suất cho khách hàng hoặc cho bản thân TCTD, đồng thời cần đảm bảo giới hạn lỗ ròng không vượt quá 5% vốn điều lệ, vốn được cấp của TCTD. NHNN quy định TCTD được kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất khi đã ban hành văn bản quy định nội bộ về hoạt động kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất, bảo đảm có cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro.

Về đối tượng được thực hiện: Thông tư quy định TCTD được phép kinh doanh, cung ứng các sản phẩm phái sinh lãi suất nhằm mục đích phòng ngừa và hạn chế rủi ro lãi suất với khách hàng (là các TCTD, CNNHNNg và pháp nhân tại thị trường trong nước) và với các tổ chức tài chính quốc tế (tại thị trường quốc tế). Bên cạnh đó, các TCTD cũng được sử dụng các sản phẩm phái sinh lãi suất để phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho bản thân các giao dịch hoặc từ bảng cân đối kế toán của mình.

Về sản phẩm: Các sản phẩm phái sinh lãi suất mà các TCTD được kinh doanh, cung ứng và sử dụng bao gồm: Kì hạn lãi suất, hoán đổi lãi suất một đồng tiền, hoán đổi lãi suất một đồng tiền cộng dồn, hoán đổi lãi suất hai đồng tiền, hoán đổi lãi suất hai đồng tiền cộng dồn, quyền chọn lãi suất giới hạn trần, quyền chọn lãi suất giới hạn sàn, quyền chọn lãi suất kết hợp trần sàn.

Các sản phẩm phái sinh lãi suất được NHNN cho phép tương đối đa dạng, tuy nhiên sản phẩm được các TCTD kinh doanh, cung ứng và sử dụng nhiều nhất là hợp đồng hoán đổi lãi suất một đồng tiền (USD) và hai đồng tiền (chủ yếu là cặp đồng tiền USD/JPY và USD/VND). Sản phẩm quyền chọn và kỳ hạn lãi suất chưa có giao dịch phái sinh.

Các TCTD chủ yếu cung ứng và kinh doanh các sản phẩm phái sinh cho khách hàng và trên thị trường trong nước. Theo báo cáo của các TCTD đến cuối năm 2017, giá trị vốn gốc danh nghĩa của các sản phẩm phái sinh trong nước đạt 21.788 tỷ đồng so với 22.099 tỷ đồng tổng thị trường trong nước và quốc tế. Tại thị trường trong nước, năm 2017, các TCTD kinh doanh và cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất với số vốn danh nghĩa 21.480 tỷ đồng (chiếm 98,59%) so với 308 tỷ đồng sử dụng phái sinh lãi suất (chiếm 1,41%). Bên cạnh đó, các TCTD cũng kí kết 17.636 tỷ đồng vốn gốc danh nghĩa các sản phẩm phái sinh lãi suất cho hoạt động đối ứng với các hợp đồng phái sinh lãi suất với khách hàng. (Hình 3)


2.3. Phái sinh khác

Hiện nay, bên cạnh các giao dịch phái sinh lãi suất và ngoại tệ, một số NHTM còn thực hiện cung ứng phái sinh giá cả hàng hóa (GCHH) cho các khách hàng của mình. Hoạt động phái sinh GCHH của NHTM được quy định tại Thông tư số 40/2016/TT-NHNN, chính thức tạo lập khuôn khổ pháp lý cho việc cung ứng dịch vụ phái sinh GCHH của các NHTM, CNNHNNg. Theo đó, các NHTM sẽ cung ứng sản phẩm phái sinh GCHH nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro cho khách hàng của mình.

Đối với các sản phẩm trên thị trường phi tập trung, các NHTM sẽ giao kết và thực hiện hợp đồng không tiêu chuẩn (hoán đổi và quyền chọn) về phái sinh GCHH với khách hàng trên thị trường nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro GCHH cho khách hàng. Khi ký kết các hợp đồng này, NHTM phải thực hiện giao dịch đối ứng với đối tác nước ngoài để cân bằng rủi ro từ hợp đồng không tiêu chuẩn về phái sinh GCHH đã giao kết và thực hiện với khách hàng. Còn đối với các sản phẩm phái sinh trên thị trường tập trung, do Việt Nam chưa có thị trường tương lai về GCHH nên các TCTD chủ yếu thực hiện lệnh mua bán hợp đồng tiêu chuẩn về phái sinh GCHH hộ khách hàng trên các sàn giao dịch hàng hóa ở nước ngoài.

Các TCTD này hiện đang cung ứng các sản phẩm phái sinh GCHH trên các hàng hóa bao gồm: Nông sản và nhiên liệu cho các nhóm đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp mua, bán hàng hóa trong nước, doanh nghiệp xuất nhập khẩu, công ty hàng không và hộ kinh doanh xuất nhập khẩu.

Hiện nay, số lượng NHTM cung ứng dịch vụ phái sinh GCHH không nhiều. Khối lượng giao dịch của các NHTM cũng không cao. Theo số liệu tổng hợp của các NHTM, tính đến năm 2016, có khoảng 6 - 8 NHTM đã thực hiện các giao dịch phái sinh GCHH. Trong năm 2016, tổng giá trị thực hiện khoảng 26 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2015. Trong các sản phẩm phái sinh GCHH, khối lượng giao dịch hợp đồng tương lai chiếm vị trí chủ yếu, còn các giao dịch quyền chọn hay hoán đổi có số lượng rất khiêm tốn. Cụ thể, năm 2016, giá trị giao dịch tương lai GCHH chiếm tỷ trọng 99,46%, quyền chọn tỷ trọng 0,18% và hoán đổi tỷ trọng 0,36%.

3. Một số khuyến nghị

Năm 2015, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 42/2015/NĐ-CP ngày 5/5/2015 về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 11/2016/TT-BTC ngày 19/01/2016 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 42/2015/NĐ-CP nhằm tạo cơ sở pháp lý để vận hành thị trường chứng khoán phái sinh trong thời gian tới.

Việc phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường tài chính phái sinh nói riêng không thể không nhắc tới sự tham gia của các TCTD.

Để phát triển hoạt động cung ứng và sử dụng các công cụ phái sinh tại các TCTD, chúng tôi xin có một số khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về sản phẩm phái sinh. Hiện nay, vẫn chưa có chuẩn mực kế toán đối với các công cụ tài chính phái sinh nói chung để dựa trên đó, NHNN có hướng dẫn cụ thể hơn về chuẩn mức kế toán với các sản phẩm phái sinh của TCTD. Song song với hoàn thiện thể chế để phát triển thị trường chứng khoán nói chung và thị trường phái sinh nói riêng (Lê Thị Thùy Vân, 2017).

Thứ hai, xây dựng đường cong lãi suất chuẩn cả về ngắn hạn và dài hạn. Đường cong lãi suất chuẩn là căn cứ để định giá và xác định giá trị của các sản phẩm phái sinh, từ đó các chủ thể đưa ra các quyết định liên quan đến sử dụng, mua bán các sản phẩm phái sinh. Có đường cong lãi suất chuẩn sẽ tạo điều kiện giúp các TCTD có căn cứ tin cậy hơn trong các quyết định cung ứng và sử dụng sản phẩm phái sinh.

Thứ ba, nên xem xét cho các TCTD thực hiện thí điểm nhằm đa dạng hóa các sản phẩm phái sinh một cách thận trọng. Các sản phẩm hiện tại được cấp phép cũng tương đối đa dạng, tuy nhiên các TCTD vẫn có những nhu cầu về các sản phẩm chưa được cấp phép; trong điều kiện đó, NHNN có thể xem xét tạo điều kiện để các TCTD thí điểm triển khai. Các sản phẩm TCTD đang có nhu cầu ngoài quy định hiện hành như phái sinh ngoại tệ có thời hạn trên 365 ngày do khách hàng gặp rủi ro tỷ giá ở các khoản nợ trung dài hạn bằng ngoại tệ, hay các sản phẩm phái sinh lãi suất để phòng ngừa rủi ro lãi suất ngoài bảng cân đối.

Thứ tư, TCTD chủ động hơn trong việc kiểm soát rủi ro khi cung ứng, sử dụng các sản phẩm phái sinh. Các TCTD cần chủ động trong việc đưa ra các quy định nội bộ về kiểm soát, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro liên quan đến hoạt động kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh. Đặc biệt, lưu ý tới các sản phẩm tương lai và quyền chọn, được coi là rủi ro hơn so với sản phẩm kì hạn và hoán đổi Keffala, M. R. (2015).

Thứ năm, NHNN cùng các TCTD cần mở các lớp tập huấn cho khách hàng về ích lợi và cách thức sử dụng các sản phẩm phái sinh, tăng sự hiểu biết của cộng đồng về sản phẩm phái sinh. Khi có những khách hàng am hiểu về sản phẩm, TCTD sẽ hạn chế được rủi ro sử dụng sản phẩm phái sinh sai mục đích.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đinh Bảo Ngọc, Võ Hoàng Diễm Trinh, (2017), “Thị trường chứng khoán phái sinh: Cảnh báo rủi ro trong giai đoạn vận hành”, Tạp chí Tài chính, (3), 24-29.

2. Lê Thị Thùy Vân, (2017), “ Hoàn thiện thể chế và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2020”, Tạp chí Ngân hàng, (19), 2-9.

3. Li, L. and Yu, Z., (2010), “The Impact of Derivatives Activity on Commercial Banks: Evidence from U.S. Bank Holding Companies”, Asia-Pac Financ Markets, (17), 303-322.

4. Keffala, M. R., (2015), “How using derivatives affects bank stability in emerging countries? Evidence from the recent financial crisis”, Research in International Business and Finance, (35), 75-87.

5. Võ Thị Phương, (2016), “Phát triển thị trường chứng khoán phái sinh: Kinh nghiệm từ các nước Châu Á”, Tạp chí Tài chính, (5), 54 - 56.

ThS. Đỗ Thu Hằng
ThS. Nguyễn Thị Thu Trang


Nguồn: TCNH số 24/2018

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Bài toán cấp tín dụng là một trong những vấn đề trọng yếu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính hoặc các nền tảng cho vay ngang hàng. Mục tiêu của bài toán này là đánh giá rủi ro tín dụng của từng khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra quyết định liệu có nên cấp tín dụng hay không, nếu có thì với điều kiện như thế nào. Trong thực tế, việc đưa ra quyết định cấp tín dụng không chỉ đơn thuần là lựa chọn giữa “cấp” hay “không cấp”, mà là một quá trình ra quyết định phức tạp, cần cân bằng giữa rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận kỳ vọng. Một quyết định sai lầm, ví dụ như cấp tín dụng cho khách hàng có khả năng vỡ nợ, có thể dẫn đến tổn thất tài chính nghiêm trọng. Ngược lại, từ chối một khách hàng có khả năng hoàn trả tốt cũng là bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai là xu hướng mới đầy tiềm năng, hứa hẹn tái định nghĩa trải nghiệm ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Sự xuất hiện của bản sao số khách hàng đánh dấu bước chuyển đổi căn bản trong ngành Ngân hàng, từ mô hình quản lý khách hàng phản ứng sang chiến lược chủ động dựa trên dự đoán và tương tác cá nhân hóa sâu. Bằng cách xây dựng các mô hình ảo động, bản sao số khách hàng cho phép ngân hàng mô phỏng hành vi, dự báo nhu cầu và phân tích động lực đằng sau quyết định tài chính của từng cá nhân. Giá trị cốt lõi của bản sao số khách hàng nằm ở khả năng siêu cá nhân hóa dịch vụ, thúc đẩy lòng trung thành và tối ưu hóa giá trị vòng đời khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý rủi ro và đổi mới sản phẩm.
Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Bài nghiên cứu này đã nêu rõ vai trò chuyển đổi của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận, nhấn mạnh khả năng phân tích tập dữ liệu giao dịch khổng lồ, xác định các điểm bất thường và tăng cường bảo mật ngân hàng số... Việc trí tuệ nhân tạo và học máy được áp dụng rộng rãi sẽ phụ thuộc vào cách các tổ chức tài chính điều chỉnh chiến lược của mình để thích ứng hiệu quả hơn với các mô hình đang ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn bởi các quy định. Sự thành công của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận sẽ được quyết định bởi việc đổi mới công nghệ, chia sẻ thông tin tình báo về gian lận và các biện pháp quy định nhằm cân bằng giữa đạo đức trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong ngân hàng số.
Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Bài viết đề cập đến vai trò then chốt của ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện và xu thế toàn cầu hóa. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều chiến lược thúc đẩy chuyển đổi số, hiện đại hóa hoạt động toàn ngành. Bài viết đồng thời phân tích nhiệm vụ, thành tựu, khó khăn trong quá trình này và đề xuất giải pháp giúp ngành Ngân hàng thực hiện sứ mệnh phát triển trong thời kỳ mới.
Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thương mại điện tử phát triển mạnh sau đại dịch Covid-19 nhưng kéo theo nhiều rủi ro về bảo mật thông tin và dữ liệu cá nhân, gây ra tình trạng xâm phạm, đánh cắp dữ liệu và gia tăng tội phạm mạng. Do đó, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân trở thành yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh kinh tế số. Bài viết phân tích thực trạng bảo vệ dữ liệu, chỉ ra những hạn chế và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Phát triển ngân hàng số  và thanh toán không dùng tiền mặt  tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Phát triển ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Nghiên cứu phân tích sự bùng nổ của ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024, với sự tăng trưởng mạnh về số lượng khách hàng, giao dịch và chuyển dịch sang kênh điện tử. Động lực là sự phối hợp giữa chính sách, đổi mới từ ngân hàng, công nghệ và sự hưởng ứng của người dân. Nghiên cứu kết luận giai đoạn này góp phần thúc đẩy chuyển đổi số và đề xuất giải pháp duy trì tăng trưởng, khắc phục thách thức về an ninh và khoảng cách số.
Đặc trưng của chuyển đổi số  và những tác động đến hoạt động  của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Đặc trưng của chuyển đổi số và những tác động đến hoạt động của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Chuyển đổi số, nổi bật trong bối cảnh CMCN 4.0, đang thay đổi sâu sắc cách vận hành và cung cấp dịch vụ trong ngành ngân hàng, bao gồm cả ngân hàng trung ương. Bài viết làm rõ khái niệm, đặc điểm của chuyển đổi số trong lĩnh vực này, phân tích tác động đến hoạt động của các NHTW trên thế giới và đề xuất gợi ý cho Việt Nam.
Xem thêm
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng