Thực tiễn hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội và một số khuyến nghị chính sách

Hoạt động ngân hàng
PGS., TS. Nguyễn Trọng Tài Đứng trên góc độ kinh tế vĩ mô thì đi đôi với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời chú ý giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội chính là tạo nền tảng cho kinh t...
aa

PGS., TS. Nguyễn Trọng Tài


Đứng trên góc độ kinh tế vĩ mô thì đi đôi với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời chú ý giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội chính là tạo nền tảng cho kinh tế phát triển bền vững. Với việc ra đời của Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (NHCSXH) chính là nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói trong xã hội, tạo nền tảng để kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững.

Bài viết này tập trung phân tích thực tiễn hoạt động của NHCSXH trải qua 15 năm hình thành và phát triển, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, những vấn đề còn bất cập, từ đó sẽ đưa ra một số khuyến nghị chính sách về mô hình tổ chức và hoạt động, giúp ngân hàng này thực hiện tốt những nhiệm vụ chính trị đặt ra cho nó.

1. Khái quát quá trình ra đời và hoạt động của NHCSXH
1.1. Quan điểm về giảm đói nghèo ở nước ta
Đường lối phát triển kinh tế - xã hội nước ta là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, việc phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, cho nên, việc đưa ra các biện pháp để hỗ trợ tích cực các đối tượng chính sách trở thành mục tiêu ưu tiên nhất quán trong suốt quá trình thực hiện chiến lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước những năm qua, tạo điều kiện để mỗi người trong xã hội đều được thụ hưởng những thành quả của tăng trưởng kinh tế. Chính nhờ có chủ trương và định hướng đúng đắn như vậy nên cùng với việc thực hiện chiến lược CNH-HĐH đất nước, vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nước ta những năm qua được thực hiện khá tốt cùng với tăng trưởng kinh tế duy trì bền vững và thu nhập của dân chúng ngày càng tăng lên, tỷ lệ nghèo đói giảm rất nhanh, sự công bằng trong thụ hưởng những thành quả của sự phát triển kinh tế đã và đang tiếp tục được cải thiện (thể hiện tại Biểu 1, Biểu 2, Biểu 3 và Biểu 4).




1.2. Quá trình ra đời và hoạt động của NHCSXH
Trong những năm qua, bên cạnh những hỗ trợ tích cực cho các đối tượng chính sách thông qua các hoạt động như xây tặng nhà tình nghĩa, quyên góp cho các hoạt động cứu trợ, các hoạt động thiện nguyện khác… thì một loại hình hỗ trợ tích cực nhất để trợ giúp các đối tượng chính sách ở nước ta phải kể đến đó là hỗ trợ vốn. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ V Khóa 7 (tháng 6/1993) đã đưa ra chủ trương “phải hỗ trợ giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn, tranh thủ nguồn vốn tài trợ nhân đạo trong và ngoài nước, phấn đấu tăng hộ giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo…”. Từ chủ trương này, tháng 3/1995, Quĩ cho vay ưu đãi hộ nghèo đã được thiết lập với phương châm cho các hộ nghèo vay vốn ưu đãi về lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM) và đến tháng 9/1995, Thống đốc NHNN đã quyết định thành lập Ngân hàng Phục vụ Người nghèo (Quyết định số 230/QĐ-NH5 ngày 1/9/1995) với phương châm hoạt động là phục vụ người nghèo và các đối tượng thuộc diện chính sách, không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc thành lập Ngân hàng Phục vụ Người nghèo đã tạo ra kênh tín dụng quan trọng dành cho các hộ nghèo và thuộc diện chính sách được vay vốn với lãi suất thấp và các điều kiện tín dụng ưu đãi, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo, một số hộ nghèo từng bước vươn lên làm giàu. Theo các tư liệu thống kê chính thức cho thấy, trải qua 7 năm tồn tại mô hình Ngân hàng Phục vụ Người nghèo, hơn 7.000 tỷ đồng vốn tín dụng đã đến được với gần 3 triệu hộ nghèo, giúp cho khoảng 1/3 số hộ này thoát nghèo, các hộ nghèo này đã từng bước tiếp cận được với kinh tế thị trường. Tuy vậy, do nguồn lực tài chính bị hạn chế, lại bị phân tán trong nhiều tổ chức tài chính tiền tệ quản lý, việc phân định thiếu rõ ràng minh bạch giữa tín dụng chính sách với tín dụng thương mại ngay trong hệ thống ngân hàng đã tác động tiêu cực tới hoạt động tín dụng, đồng thời hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo cũng không cao. Chính từ những bất cập này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP (ngày 4/10/2002) về tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg (ngày 4/10/2002) về việc thành lập NHCSXH trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ Người nghèo để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Phương châm hoạt động cơ bản của NHCSXH vẫn là phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách, không vì lợi nhuận. Theo qui định tại Nghị định này thì NHCSXH có vốn điều lệ ban đầu là 5.000 tỷ đồng, thời hạn hoạt động là 99 năm. Các đối tượng thuộc diện được vay vốn tín dụng ưu đãi từ NHCSXH theo Nghị định số 78 gồm: (i) Hộ nghèo; (ii) Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề; (iii) Các đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11 tháng 04 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); (iv) Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; (v) Các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo; thuộc khu vực II, III miền núi và thuộc Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135); (vi) Các đối tượng khác khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Để có thể nhận được vốn từ NHCSXH thì ngoài các qui định hiện hành của Nhà nước và các qui định của Chính phủ về tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, khách hàng phải có trong danh sách hộ nghèo được Ủy ban Nhân dân cấp xã quyết định theo chuẩn mực người nghèo do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố, được tổ tiết kiệm và vay vốn bình xét, lập danh sách có xác nhận của Ủy ban Nhân dân cấp xã.
Từ khi được thành lập và đi vào hoạt động đến nay, hoạt động của NHCSXH đã tỏ rõ tính ưu việt của nó đó là mô hình NHCSXH hoạt động vừa tính chất thị trường (tức là “có vay - có trả”), nhưng cũng không hoàn toàn mang tính chất thị trường, bởi các đối tượng khách hàng của NHCSXH được sự ưu đãi về lãi suất vay vốn kèm theo các hỗ trợ về cơ chế chính sách khác gắn với các món vay. Bản chất hoạt động của NHCSXH không phải là mang tiền để cấp phát cho các đối tượng chính sách, mà thông qua cơ chế tiền tệ ưu đãi để người nghèo và các đối tượng chính sách có vốn làm ăn và trang trải các chi phí gắn với các hoạt động nghề nghiệp khác. Các kết quả đạt được của NHCSXH là rất khả quan: Trên 24,5 triệu lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách trên toàn quốc được vay vốn từ NHCSXH với tổng số tiền trên 285 nghìn tỷ đồng. Nguồn vốn chính sách từ NHCSXH giúp trên 3,6 triệu lượt hộ vượt qua ngưỡng nghèo, thu hút tạo việc làm cho trên 11 triệu lao động, hỗ trợ trên 3,3 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập, xây dựng trên 700 nhà chòi tránh lũ cho hộ nghèo tại 7 tỉnh miền Trung, trên 484 nghìn căn nhà vượt lũ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên 484 nghìn ngôi nhà vững chãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khắp vùng miền trong cả nước. Nguồn vốn chính sách từ Ngân hàng này tập trung vào các chương trình tín dụng trọng điểm và ưu tiên đầu tư vào các khu vực trọng điểm thuộc vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, biên giới hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai và đồng bào dân tộc thiểu số… (Dương Quyết Thắng, 2015). NHCSXH cũng đã từng bước xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy quản trị và điều hành thống nhất từ trung ương đến địa phương với Hội đồng quản trị gồm lãnh đạo các Bộ, ban, ngành trung ương (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Trung ương đoàn thanh niên, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT, Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội, Ủy ban Dân tộc) đặt dưới sự điều hành chung của Thống đốc NHNN và ban điều hành ngân hàng tại Hội sở và tại chi nhánh 63 tỉnh/thành, 626 phòng giao dịch cấp huyện với trên 9 nghìn cán bộ/nhân viên phối kết hợp chặt chẽ với các tổ tiết kiệm/vay vốn. Các kết quả đạt được của NHCSXH là kết quả của việc thực hiện phương châm phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, ngành và các tổ chức chính trị xã hội, tạo thế và lực cho NHCSXH ngày càng phát triển vững mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vốn vay của các đối tượng chính sách. Gắn với đó là những đổi mới, chấn chỉnh phương thức giao dịch, từng bước giảm cấp trung gian, đem lại hiệu quả trên cả 3 phương diện kinh tế - chính trị - xã hội. Công tác quản lý tài chính, hoạt động thanh toán, công tác kiểm tra, kiểm toán… cũng được triển khai đồng bộ, thường xuyên và hiệu quả. Công tác thông tin tuyên truyền về các hoạt động của ngân hàng cũng được thực hiện khá bài bản, sâu rộng, qua đó, vừa giúp củng cố phát huy tinh thần nhiệt huyết của đội ngũ trên 9 nghìn cán bộ, nhưng cũng vừa giúp các đối tượng chính sách hiểu biết ngày càng rõ ràng hơn về hoạt động của ngân hàng, từ đó, tiếp cận vốn tín dụng chính sách một cách rộng rãi, giúp thực thi có hiệu quả mục tiêu chung của Đảng và Nhà nước - đó là đem nguồn vốn đến tận tay đúng đối tượng thuộc diện chính sách và giúp các đối tượng này từng bước giảm nghèo, vươn lên làm giàu - đây chính là biện pháp để thực hiện tốt nhất chính sách an sinh xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế bền vững của đất nước.
2. Những vấn đề đặt ra
Có thể nhận thấy rằng các kết quả đạt được trong 15 năm hoạt động của NHCSXH là rất rõ ràng, tuy vậy, vẫn còn một số tồn tại đã và đang tiếp tục đặt ra đòi hỏi NHCSXH cần phải chú ý xem xét và tìm giải pháp xử lý
Thứ nhất, vấn đề cho các đối tượng hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi là rất cần thiết nhằm bảo đảm sự phát triển kinh tế bền vững, nhưng liệu có cần phải thành lập một bộ máy quản trị rộng rãi như hiện nay hay không? Vấn đề kiểm soát nguồn vốn ngân sách cho vay các đối tượng chính sách là cần thiết, song, vẫn có thể thay thế bằng công cụ khác, chẳng hạn, thông qua các tiêu chí và chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả nguồn vốn chính sách thay vì phải “tổng huy động” lãnh đạo từ các Bộ, ngành, hội đoàn thể để vào cuộc kiểm soát các hoạt động sử dụng nguồn lực ngân sách cho việc thực hiện các mục tiêu chính sách của Nhà nước. Phải chăng chỉ cần sự ràng buộc của các cấp chính quyền địa phương (chủ yếu cấp xã với sự kiểm soát của chính quyền cấp huyện). Mạng lưới chi nhánh được tổ chức rải khắp các tỉnh/thành với một hệ thống phòng giao dịch len lỏi tới tận các huyện liệu có cần thiết không? Phải chăng chỉ cần bố trí các văn phòng đại diện khu vực tùy theo đặc điểm và qui mô khách hàng?
Thứ hai, nghiên cứu nhằm tăng sự ràng buộc trách nhiệm các tổ chức, hội đoàn thể tại các địa phương. Hiện nay, cho vay hộ nghèo và đối tượng thuộc diện chính sách chủ yếu vẫn phải thông qua xác nhận của Ủy ban xã, vậy phải chăng có thể nghiên cứu triển khai các phần mềm quản lý các đối tượng chính sách xuống tận cấp xã, từ đó, ngân hàng sẽ nghiên cứu hồ sơ và ra quyết định cho vay thông qua mạng lưới đại lý (chủ yếu là các chi nhánh NHTM địa phương) hoặc các công ty triển khai các hoạt động (xuất khẩu lao động), các trường (cho vay học sinh sinh viên). Việc thu nợ chủ yếu thông qua mạng lưới ngân hàng đại lý (các chi nhánh NHTM tại địa bàn). Trong trường hợp khách hàng chậm trả nợ thì mới cần cán bộ của ngân hàng tại các văn phòng khu vực trực tiếp tiếp xúc khách hàng, bởi vì đây là hoạt động cho vay khách hàng thuộc diện chính sách (không phải là cho vay thương mại) với các ràng buộc chặt chẽ với các tổ chức, hội đoàn thể, chính quyền địa phương nên thường các món vay được trả đúng hạn2. Nghiên cứu nhằm tăng sự ràng buộc trách nhiệm của các cấp chính quyền huyện/xã cũng như các tổ chức, hội đoàn thể tại các địa phương với các món vay chính sách là tiền đề cần thiết nhằm từng bước tiết giảm đội ngũ cán bộ của NHCSXH, qua đó, giúp giảm chi phí nhưng vẫn triển khai hiệu quả tín dụng chính sách.
Thứ ba, lãi suất cho vay thấp tạo ra các hiệu ứng bất cập trên thị trường tài chính. Hiện nay, lãi suất cho vay của NHCSXH là một mức lãi suất ưu đãi thấp hơn khá nhiều só với lãi suất cho vay của các NHTM hay các quĩ tín dụng nhân dân. Lãi suất thấp tạo ra các hiệu ứng: (i) Cầu về tín dụng từ NHCSXH luôn lớn hơn khá nhiều so với cung. Sự bấp cập này trong cung - cầu về vốn tín dụng chính sách luôn tiềm ẩn nảy sinh những tiêu cực nếu như công tác giám sát tín dụng không hiệu quả; (ii) Tạo ra cách nghĩ lệch lạc của người nghèo về vốn tín dụng cho dù công tác truyền thông của NHCSXH luôn được chú trọng, bởi vì người vay chỉ bằng mọi cách vay được vốn ưu đãi nhưng không quan tâm đúng mức về khả năng trả nợ. Điều này có thể dẫn tới nghịch lý trong cho vay: Càng có nhiều đối tượng thuộc diện chính sách thì qui mô cho vay chính sách càng mở rộng trong khi nguồn cung về vốn cho vay chính sách bị hạn chế, điều này khiến cho các nguy cơ tiềm ẩn về mất khả năng trả nợ sẽ cao cũng như qui mô các món cho vay chính sách bị thu hẹp; (iii) Tăng nguy cơ bị động trong hoạt động của NHCSXH, bởi vì nguồn vốn của ngân hàng này có tính phụ thuộc rất cao với vốn cấp từ ngân sách thường chỉ chiểm khoảng trên 30%, còn lại là nguồn vốn huy động trên thị trường và tiền gửi từ các tổ chức tín dụng Nhà nước, vốn nhận tài trợ, ủy thác đầu tư từ chính quyền địa phương rất thấp và do vậy, ngân hàng càng huy động nhiều thì phần cấp bù chênh lệch lãi suất huy động càng cao, nhưng việc cấp bù chênh lệch lãi suất từ ngân sách nhà nước không phải lúc nào cũng kịp thời, điều này khiến ngân hàng bị đặt trong tình thế bị động về vốn hoạt động; (iv) Gây khó khăn cho các TCTD khác trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt ở các địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi người nghèo và các đối tượng chính sách thường chiếm tỷ lệ khá cao.
Thứ tư, bản chất tín dụng là cho vay có hoàn trả gốc và lãi, cho dù mức lãi suất chính sách là khá thấp nhưng người vay vẫn phải kinh doanh có lãi thì mới trả được gốc và lãi vốn vay. Xuất phát từ đối tượng khách hàng của NHCSXH đa phần là những người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn do neo đơn, kém hoặc mất sức lao động, trình độ, năng lực sản xuất kinh doanh bị hạn chế hoặc trong các vùng chịu nhiều khó khăn về sản xuất bởi thiên tai, ảnh hưởng bất lợi đến khả năng trả nợ gốc và lãi vốn vay của ngân hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoạt động ổn định bền vững của NHCSXH.

1 Số liệu trên đây được tính toán theo chuẩn nghèo của Việt Nam, nhưng nếu tính theo chuẩn nghèo đa chiều thì tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam sẽ tăng cao hơn. Xem thêm tại địa chỉ: http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/thanh-nien-that-nghiep-cao-gap-3-lan-ty-le-chung-3304392.html
2 Theo thống kê thì tỷ lệ nợ xấu của NHCSX H thường khá thấp, cụ thể: Năm 2008: 2,17%; Năm 2009: 2,2%; Năm 2010: 2,11%; Năm 2011: 3,3%, Năm 2013: 0,79%; Năm 2014: 0,41% (Lê Thị Thu Thủy, 2016); Năm 2015: 0,78%; Năm 2016: 0,75% (Kình Dương, 2017).

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Kình Dương (2017): Năm 2016, dư nợ của Ngân hàng Chính sách xã hội đạt trên 157.000 tỷ. http://vietnamfinance.vn/ngan-hang/nam-2016-du-no-cua-ngan-hang-chinh-sach-xa-hoi-dat-tren-157000-ty-20170124113222404.htm (Truy cập ngày 24/1/2017).
2. IMF (2013): Worrld Economic Outlook 2013. (10/2013).
3. Phan Thị Thu Hà (2014): Một số ý kiến về hoạt động của NHCSXH. http://vbsp.org.vn/mot-so-y-kien-ve-hoat-dong-cua-nhcsxh.html. Truy cập ngày 25/10/2014.
4. Phương Hòa (2015): Thanh niên thất nghiệp cao gấp 3 lần tỷ lệ chung. http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/thanh-nien-that-nghiep-cao-gap-3-lan-ty-le-chung-3304392.html. Truy cập ngày 30/10/2015.
5. Dương Quyết Thắng (2015: Phát huy tính ưu việt của Ngân hàng vì người nghèo. Tạp chí Ngân hàng. Số 18. Tháng 9.
6. Lê Thị Thu Thủy (2016): Xử lý nợ xấu của Ngân hàng chính sách xã hội - Thực trạng và những vấn đề đặt ra. Tạp chí Khoa học Ðại học Quốc gia Hà Nội. Tập 32, Số 1.

(Tạp chí Ngân hàng số 12, tháng 6/2017)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng