Thông điệp từ áp dụng ESG trong ngành Ngân hàng

Hoạt động ngân hàng
ESG là bộ tiêu chuẩn đo lường những yếu tố liên quan đến hoạt động phát triển bền vững của một doanh nghiệp...
aa

Tóm tắt: Tiêu chuẩn bền vững hiện được xem là một trong những vấn đề cấp bách nhất của thời đại. Ngày càng nhiều tổ chức tài chính áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị (ESG: Environmental - Social - Governance) vào hoạt động thực tiễn của mình để hướng tới thông điệp chung tay vì sự phát triển bền vững. Theo nghiên cứu của Tổ chức DARA International, Việt Nam là quốc gia có thể chịu tổn thất khoảng 15 tỉ USD/năm do biến đổi khí hậu, tương đương khoảng 5% GDP. Việc áp dụng các tiêu chí ESG là giải pháp để ngành Ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, cũng như nâng cao uy tín, vị thế của mình cả trong nước và quốc tế.

Từ khóa: ESG, ngân hàng xanh, tín dụng xanh, phát triển bền vững.

THE MESSAGE FROM IMPLEMENTING ESG IN THE BANKING INDUSTRY

Abstract: Sustainable standards are currently regarded as one of the most urgent issues of our time. An increasing number of financial organizations are integrating Environmental, Social, and Governance (ESG) standards into their practical operations to advocate for collective sustainable development. According to research by DARA, Vietnam can suffer losses of approximately 15 billion USD per year due to climate change, equivalent to about 5% of GDP. Applying ESG is a solution for the banking sector to contribute to promoting green growth and sustainable development, as well as enhancing its reputation and position both domestically and internationally.

Keywords: ESG, green banking, green credit, sustainable development.

1. Xu hướng và những thành quả đáng ghi nhận về áp dụng ESG

ESG là bộ tiêu chuẩn đo lường những yếu tố liên quan đến hoạt động phát triển bền vững của một doanh nghiệp. ESG cung cấp một khuôn khổ chung để xem xét tác động và sự phụ thuộc của doanh nghiệp đối với môi trường và xã hội cũng như chất lượng quản trị của chính doanh nghiệp.

Theo khảo sát của Finastra tại Hồng Kông và Singapore, gần 90% giám đốc điều hành tài chính cho rằng, hỗ trợ các sáng kiến ​​ESG là rất quan trọng đối với ngành dịch vụ tài chính và ngân hàng.

Việc áp dụng ESG trong ngành Ngân hàng, kênh truyền dẫn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, đang được xem là một trong những xu hướng trên thế giới, trực tiếp và gián tiếp đóng góp quan trọng cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và các cam kết trong Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu. Dựa trên quy trình thẩm định rủi ro chặt chẽ, qua đó điều phối và cung cấp nguồn vốn, ngân hàng đã luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt nền kinh tế. Sự tiên phong trong việc thực thi ESG của ngành Ngân hàng đã góp phần tạo ra sự thúc đẩy lớn đối với các doanh nghiệp trong việc thiết lập những chuẩn mực mới về phát triển bền vững.

Ngoài ra, ESG cũng sẽ ngày càng ảnh hưởng đến chiến lược M&A trong tương lai khi các nhà đầu tư sử dụng các tiêu chí này để đánh giá rủi ro và xác định các cơ hội kiến tạo giá trị. Với cam kết về giảm phát thải carbon của nhiều doanh nghiệp và quỹ đầu tư tư nhân, nguồn vốn gia tăng sẽ được huy động đầu tư cho quá trình chuyển đổi sang những mô hình kinh doanh xanh hơn và có trách nhiệm với xã hội hơn.

Đồng thời, việc áp dụng ESG và kết hợp ba yếu tố ESG vào một báo cáo tích hợp và chiến lược tổng quát của ngân hàng sẽ đưa ra thông điệp rằng ngân hàng đang thực hiện các bước đi cần thiết để gia tăng tính khả thi và sinh lời trong dài hạn. Đây là một nhân tố tích cực trong việc đáp ứng các kì vọng từ bên ngoài của nhà đầu tư, cổ đông, đối tác, nhân viên, khách hàng của ngân hàng.

Sớm đồng hành cùng xu hướng này và để tạo điều kiện cho việc áp dụng các tiêu chí ESG trong ngành Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành nhiều chỉ thị, kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Ngày 07/8/2018, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 1604/QĐ-NHNN phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. Đồng thời, NHNN cũng đã công bố Sổ tay đánh giá rủi ro môi trường và xã hội cho 10 ngành kinh tế trong hoạt động cấp tín dụng. Đến ngày 23/12/2022, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 17/2022/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện quản lí rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cùng với đó, NHNN đẩy mạnh công tác đào tạo, truyền thông về ngân hàng xanh, tín dụng xanh...

Đặc biệt, việc Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực thực thi từ ngày 01/01/2022 đã thể hiện cam kết của Việt Nam đối với tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Luật đặt ra khuôn khổ để NHNN triển khai các chính sách liên quan nhằm bảo vệ môi trường thông qua dòng vốn đầu tư; qua đó, hình thành bộ khung pháp lí cơ bản về ESG dựa trên các quy định, thông lệ tại Việt Nam và tham chiếu tới 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc để tích hợp các tiêu chí ESG vào hoạt động ngành Ngân hàng.

Với các khung khổ pháp lí trên, các ngân hàng đều đã nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng xanh, ngân hàng xanh và vai trò của ESG trong hoạt động. Ngoài việc sử dụng ESG là một thước đo cho việc cung cấp dòng vốn đầu tư, các ngân hàng tại Việt Nam cũng đã phát triển và thực thi ESG trong các hoạt động của chính mình như: Ưu tiên tăng trưởng tín dụng xanh, tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan về rủi ro môi trường, xã hội; xây dựng các quy định nội bộ về quản lí rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động của ngân hàng; hoàn thiện cơ cấu tổ chức để thúc đẩy phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh. Đặc biệt, nhiều ngân hàng chú ý loại trừ các lĩnh vực và công ty có tác động tiêu cực đáng kể đến tính bền vững; sàng lọc tốt nhất trong các công ty cùng loại theo tiêu chí ESG; liên kết các khoản vay và lãi suất với các mục tiêu bền vững; tạo mục tiêu cho vay đối với các giải pháp biến đổi khí hậu và phát triển các sản phẩm sáng tạo; đồng thời, phát triển các kế hoạch để tích hợp các chiến lược ESG vào các hoạt động kinh doanh cốt lõi của khách hàng...

Nhìn chung, Việt Nam hiện được đánh giá là một trong 38 thị trường đang phát triển có những bước tiến đáng kể trong nỗ lực thúc đẩy ngành tài chính - ngân hàng hướng tới phát triển bền vững và được xếp vào nhóm các quốc gia trong giai đoạn triển khai Ma trận tiến bộ của Mạng lưới ngân hàng bền vững (SBN); xếp thứ hạng cao so với các nước châu Á và toàn cầu trong các chính sách liên quan đến đóng góp quốc gia tự quyết NDCs.

NHNN cho biết: Giai đoạn 2017 - 2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm.

Tính đến ngày 30/9/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 564 nghìn tỉ đồng, chiếm tỉ trọng khoảng 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Trong số 12 lĩnh vực xanh NHNN hướng dẫn các TCTD cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%).

Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Quân đội (MB) là một trong những ngân hàng đi đầu về việc thực thi ESG toàn diện trên các phương diện xã hội, môi trường, kinh tế và quản trị. Ngay từ năm 2017, Ngân hàng này đã từng bước thực thi dựa trên các tiêu chuẩn, ban hành khung chiến lược phát triển ngân hàng xanh theo cấp độ 3, từ đó hướng tới cấp độ 5 được đề xuất tại Đề án xây dựng ngân hàng xanh theo Công văn số 4141/VCL-NHNN của NHNN. Từ năm 2021 đã có đến gần 90% hoạt động nội bộ của MB không sử dụng giấy tờ, mà áp dụng số hóa trong nhiều khâu. Đến năm 2023, MB cam kết thực hiện chiến lược ESG một cách bài bản, theo chuẩn đo lường quốc tế, xấp xỉ 100% hoạt động nội bộ hoàn toàn không giấy tờ. MB cũng đã số hóa tới 90% sản phẩm tích hợp trên hệ sinh thái App MBBank cho khách hàng cá nhân, BIZ MBBank cho khách hàng doanh nghiệp, giúp tối giảm tối đa việc sử dụng giấy tờ trong các khâu, tối ưu thời gian công sức cho cả khách hàng và nhân lực ngân hàng. MB hiện đang quản lí hơn 20 triệu khách hàng cá nhân và 500.000 khách hàng doanh nghiệp. Quá trình số hóa này đã và đang giúp MB giảm đáng kể chi phí vận hành, nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lí rủi ro tốt hơn đúng theo chuẩn quốc tế của ESG; cải thiện môi trường làm việc của MB theo hướng thân thiện, chuyên nghiệp và năng suất lao động tăng lên. Tỉ lệ tín dụng xanh hiện chiếm từ 10 - 11% tổng tín dụng hằng năm của MB, tăng trưởng khoảng 15 - 20% mỗi năm (hiện tại dư nợ cho vay của MB là trên 600 nghìn tỉ đồng) thì đây là con số rất lớn vì hiện nay một số ngân hàng lớn trên thế giới chỉ dùng khoảng 8% dư nợ để cho vay năng lượng tái tạo, tín dụng xanh...

Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) vừa được Tạp chí Asiamoney vinh danh là “Ngân hàng có tác động ESG tốt nhất”. Trước đó, trung tuần tháng 6/2023, FinanceAsia - Tạp chí uy tín hàng đầu châu Á trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng cũng đã vinh danh SHB là “Ngân hàng có tác động ESG tốt nhất Việt Nam” cho những tác động tích cực liên quan đến môi trường, xã hội và quản trị. SHB cũng nằm trong Top 10 doanh nghiệp xanh và phát triển bền vững theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế xanh vì một Quốc gia phát triển bền vững năm 2023 do Hiệp hội Môi trường Việt Nam tổ chức; đồng thời còn thuộc Top 10 ngân hàng thu xếp vốn đầu tư hiệu quả cho các dự án năng lượng Việt Nam giai đoạn 2017 - 2021 do Hiệp hội Năng lượng Việt Nam vinh danh... Việc liên tục được các tổ chức uy tín trong nước và quốc tế vinh danh các giải thưởng về ESG, tín dụng xanh là minh chứng những thành quả rõ nét của ngân hàng trong chiến lược phát triển bền vững. Xây dựng và triển khai thành công khung quản trị ESG đã giúp SHB thu hút thành công hàng tỉ USD nguồn vốn ODA từ các tổ chức quốc tế, qua đó giúp SHB đảm bảo nguồn vốn để tiếp tục hỗ trợ các dự án chuyển đổi xanh và mang lại tác động tích cực đến kinh tế - xã hội cũng như củng cố vị thế của một ngân hàng xanh và bền vững hàng đầu Việt Nam.

Hưởng ứng ESG, Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank) còn có một bộ phận môi trường và xã hội (E&S) thuộc Khối khách hàng doanh nghiệp, có nhóm E&S riêng; bộ phận văn phòng lãnh đạo, Khối nhân sự tham vấn cho Ban điều hành và HĐQT về ESG. Mới đây, HDBank đã kí kết thỏa thuận “Tín dụng xanh” với IFC trị giá 70 triệu USD, các khoản vay sử dụng nguồn vốn này sẽ phải tuân thủ theo chính sách E&S nghiêm ngặt của IFC. HDBank cũng đã hoàn thiện quy trình “Quản lí trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESMS)” áp dụng cho toàn danh mục của ngân hàng trong năm 2022...

2. Một số thách thức và giải pháp trong việc thực thi ESG

Thực tế cũng cho thấy, các ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức trong quá trình áp dụng ESG, như:

Thứ nhất, sự không nhất quán trong các tiêu chuẩn báo cáo về ESG ở cấp quốc tế.

Chẳng hạn, Sáng kiến ​​Báo cáo Toàn cầu (GRI) cung cấp các hướng dẫn toàn diện để xác định rủi ro ESG, trong khi Tổ chức Báo cáo giá trị (VRF) đặt ra các tiêu chuẩn để xác định giá trị doanh nghiệp. Tương tự, các tiêu chí khác nhau đã được các nhà cung cấp dữ liệu thị trường lớn sử dụng để phát triển xếp hạng ESG độc lập của mình. Ở Trung Quốc, các cơ quan quản lí và nhà đầu tư là những trọng tài chính cho các tiêu chuẩn và chính sách. Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng, chính phủ nước này sẽ không sớm đưa ra các hành động chính thức. Tại Mỹ, Ủy ban Chứng khoán và Sàn giao dịch Mỹ (SEC) đã đề xuất một bộ hướng dẫn được công bố vào tháng 3/2022, nhưng sau đó bị lùi lại 7 tháng mà không có thời hạn mới nào được thiết lập. Ở châu Âu, Chỉ thị Báo cáo Phát triển Bền vững Doanh nghiệp (CSRD) do Nhóm Tư vấn Báo cáo Tài chính châu Âu (EFRAG) đề xuất một bộ nguyên tắc nâng cao và toàn diện, đồng thời thông tin được sử dụng để xác thực việc tuân thủ phải được các bên thứ ba xem xét kĩ lưỡng. Nhiều khác biệt trong phương pháp xếp hạng toàn cầu và khuôn khổ báo cáo có thể dẫn đến những lợi thế không công bằng. Một công ty hoạt động ở Mỹ, có chế độ ít nghiêm ngặt hơn, có thể có xếp hạng ESG cao hơn so với một công ty tương tự hoạt động trong chế độ chặt chẽ hơn. Các ngân hàng cũng khó đánh giá chính xác rủi ro do chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này cho thấy có rất nhiều sự chú ý đối với Ủy ban Tiêu chuẩn Bền vững Quốc tế (ISSB), nhằm mục đích phát triển một bộ tiêu chí bền vững toàn diện được thiết kế để tương thích với các tiêu chuẩn cụ thể của khu vực pháp lí.

Thứ hai, ở trong nước, nhiều ngân hàng gặp khó khăn trong tìm kiếm nhân sự về E&S, dự án mang tính kĩ thuật phức tạp, tính khả thi của việc thuê chuyên gia E&S.

Ngoài việc xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động áp dụng ESG, các ngân hàng còn cần đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và có kinh nghiệm trong các hoạt động ESG, có khả năng đánh giá rủi ro ESG để đề ra các phương án giải quyết phù hợp. Chính sự mới mẻ của khái niệm rủi ro ESG khiến việc triển khai áp dụng các công tác quản trị, đánh giá rủi ro ESG tại các TCTD gặp nhiều vướng mắc.

Ngoài ra, các ngân hàng cũng yêu cầu nhiều mô hình mạnh hơn để đánh giá rủi ro. Các mô hình truyền thống thường dựa vào dữ liệu lịch sử để đưa ra các dự báo trong tương lai, nhưng điều này không đáng tin cậy. Thay vào đó, các ngân hàng cần dữ liệu và mô hình hướng tới tương lai để dự đoán các tác động của khí hậu và đánh giá rủi ro một cách chính xác.

Đối với các ngân hàng phát triển, các yếu tố như hệ thống cũ, thiếu đào tạo nhân viên và nguồn lực có thể gây khó khăn cho việc truy cập và báo cáo kịp thời về cấp dữ liệu sâu hơn, chẳng hạn như đối với phát thải khí nhà kính ở phạm vi 3.

Sử dụng dữ liệu và báo cáo để tạo ra thay đổi có ý nghĩa là một thách thức khác. Ernst & Young (EY) - một hãng dịch vụ kiểm toán chuyên nghiệp đa quốc gia có trụ sở tại London (Anh) - chỉ ra rằng, dưới 30% trong số các công ty đề cập đến các vấn đề liên quan đến khí hậu trong báo cáo tài chính của họ.

Nếu không có mối tương quan rõ ràng giữa các tác động liên quan đến khí hậu và kết quả tài chính, các tổ chức sẽ thiếu cái nhìn sâu sắc để thực hiện hành động tích cực và giảm thiểu rủi ro tài chính.

Những khó khăn trong việc sử dụng dữ liệu một cách hiệu quả, cùng với việc thiếu các chỉ số rõ ràng và nhất quán để đánh giá các tác động liên quan đến khí hậu, đang khiến các ngân hàng phải cải thiện báo cáo ESG và giảm thiểu rủi ro tài chính thông qua công nghệ.

Trên thực tế, có nhiều giải pháp Fintech tự động hóa việc thu thập dữ liệu từ lượng nhiên liệu được sử dụng, sản phẩm đã mua, đến việc đi lại của nhân viên, có thể được tích hợp ngay vào quy trình làm việc của ngân hàng. Sau đó, dữ liệu được đưa vào công cụ tính toán của ngân hàng. Những giải pháp khác cho phép nhập thông tin trực tiếp từ các hệ thống ERP nội bộ để đánh giá doanh nghiệp dựa trên nhiều điểm dữ liệu.

Với các API và nền tảng mở, các ngân hàng đang thiết lập nền tảng quản lí rủi ro mở và kết nối các sản phẩm. API cung cấp chức năng “plug and play”, gần như cho phép tích hợp đơn giản với các hệ thống ERP cốt lõi.

Sau khi tích hợp các giải pháp của bên thứ ba vào khung rủi ro tiêu chuẩn, các tổ chức có thể sử dụng các kịch bản liên quan đến khí hậu và các mô hình tối ưu hóa sổ ngân hàng hiện có để hướng dẫn đạt mục tiêu danh mục đầu tư bằng không. Việc chọn đối tác nền tảng phù hợp có thể tạo điều kiện tích hợp liền mạch và nhanh chóng. Do rủi ro tài chính ESG ngày càng leo thang và yêu cầu báo cáo ngày càng tăng ở các khu vực khác nhau, cả ngân hàng phát triển và ngân hàng toàn cầu đều cần có nhiều công cụ để thu thập dữ liệu và đánh giá tác động.

Bên cạnh đó, kì vọng của các định chế phát triển khác nhau và quy định pháp luật/tiêu chuẩn của Việt Nam, khả năng thích ứng thực tế của doanh nghiệp Việt Nam vẫn là một rào cản.

Bởi vậy, để tăng cường áp dụng và lan tỏa các thông điệp ESG, cần chú ý chuẩn hóa điều kiện E&S được chấp nhận rộng rãi giúp việc triển khai được đồng bộ; NHNN khuyến khích các ngân hàng thương mại thực hiện tốt E&S, phát triển bền vững; tăng cường các khóa đào tạo có sự tham gia của các tổ chức quốc tế, NHNN, Bộ Tài chính, hệ thống ngân hàng thương mại đến doanh nghiệp.

Trong giai đoạn 2021 - 2030 và hướng tới năm 2050, ngành Ngân hàng tập trung triển khai ban hành quy định khuyến khích các TCTD tài trợ, cho vay ưu đãi đối với dự án thuộc danh mục phân loại xanh; hướng dẫn quản lí rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng... NHNN tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các TCTD tập trung bố trí nguồn vốn phù hợp để cho vay ưu đãi, khuyến khích chủ đầu tư thực hiện dự án thuộc danh mục phân loại xanh theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy định về tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh; phát hành trái phiếu xanh phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ các TCTD tiếp nhận nguồn vốn viện trợ, cho vay ưu đãi nước ngoài để tài trợ cho dự án thuộc danh mục phân loại xanh; nghiên cứu, xây dựng kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. https://nguoiquansat.vn/esg-kim-chi-nam-cho-ngan-hang-trong-muc-tieu-so-hoa-mot-ngan-hang-duoc-vinh-danh-98464.html

2. http://khoahocnganhang.org.vn/news/vi/hoi-thao-khoa-hoc-cap-nganh-cac-rui-ro-moi-truong-xa-hoi-quan-tri-trong-hoat-dong-ngan-hang/

3. https://thitruongtaichinhtiente.vn/cac-ngan-hang-phat-trien-thuc-day-tieu-chuan-esg-thong-qua-cong-nghe-48508.html

4. https://www.tinnhanhchungkhoan.vn/thuc-thi-esg-ngan-hang-can-hanh-dong-manh-hon-post298552.html

5. https://thoibaonganhang.vn/esg-kim-chi-nam-cho-ngan-hang-trong-muc-tieu-so-hoa-129049.html

6. https://cafef.vn/thuc-thi-chien-luoc-esg-nhung-duoc-mat-tu-nguoi-di-tien-phong-188231020123752692.chn

7. https://www.tinnhanhchungkhoan.vn/du-no-cap-tin-dung-xanh-tang-binh-quan-hon-23nam-post335161.html


TS. Nguyễn Minh Phong, ThS. Nguyễn Trần Minh Trí (Hà Nội)
ThS. Nguyễn Thị Duyên (Tạp chí Ngân hàng)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong thời gian qua, việc triển khai tín dụng xanh ở Việt Nam, dù đã có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Để tín dụng xanh thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh; tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng về công tác thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) - mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là dịp ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường và khát vọng vươn lên của dân tộc, mà còn là thời điểm nhìn lại chặng đường phát triển của các ngành, lĩnh vực then chốt, trong đó có ngành Ngân hàng.
Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Xem thêm
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô