Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 dưới khía cạnh pháp lý về tài chính

Bài viết khoa học chuyên sâu
Tóm tắt: Trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn để tồn tại và phát triển, một trong những thách thức lớn nhất mà các doanh nghiệp đang phải đối diện là gánh nặng tài chính.
aa

Tóm tắt: Trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn để tồn tại và phát triển, một trong những thách thức lớn nhất mà các doanh nghiệp đang phải đối diện là gánh nặng tài chính. Mặc dù Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo, xây dựng, ban hành các chính sách, pháp luật để hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp trước tình hình dịch bệnh, tuy nhiên, quá trình triển khai chính sách vẫn tồn tại một số khó khăn, thách thức nhất định. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung: (i) Phân tích tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 đến doanh nghiệp Việt Nam;(ii) Đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp tháo gỡ khó khăn về mặt tài chính của doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19; (iii) Đề xuất một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp về tài chính trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

Từ khóa: Khó khăn, doanh nghiệp, tài chính, Covid-19.

REMOVING DIFFICULTIES FOR BUSINESSES AFFECTED BY THE COVID-19 PANDEMIC IN TERMS OF FINANCIAL LEGISLATION

Abstract: In the face of the complex development of the Covid-19 pandemic, businesses have encountered many difficulties in survival and development, one of the biggest challenges that businesses are facing is the financial burden. Although Vietnamese Government has formulated and promulgated a number of policies and laws to provide timely support to enterprises in the face of the epidemic situation, this problem still exists some shortcomings, difficulties and challenges. Thereby, the focused article (i) analyzes the negative impact of the Covid-19 pandemic on Vietnamese enterprises, (ii) assesses the implementation of financial difficulties of enterprises in the context of Covid-19, (iii) thereby making a number of proposals to solve the difficulties of enterprises in finance in the context of the current Covid-19 pandemic.

Keywords: Difficulties, business, finance, Covid-19.

Đặt vấn đề

Covid-19 là một hiểm họa của thế giới, không chỉ đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của con người mà còn thử thách “sức đề kháng” của doanh nghiệp. Ngày 23/01/2020, Việt Nam phát hiện ca nhiễm Covid-19 đầu tiên và hiện tại vẫn đang phải đối mặt với diễn biến phức tạp của dịch bệnh. Trước bối cảnh đại dịch hoành hành, các doanh nghiệp dường như đang phải bước vào cuộc chiến cân não với “bài toán tài chính” do chính thực tế tạo ra. Nếu hoàn thành tốt sẽ tiếp tục trụ vững và có triển vọng để vực dậy, ngược lại, nếu không giải đúng bài toán này thì doanh nghiệp có thể sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị phá sản.

1. Tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 đến doanh nghiệp tại Việt Nam

Kể từ khi xuất hiện và bùng phát mạnh mẽ tại Việt Nam, đại dịch Covid-19 đã không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của con người mà còn tác động không nhỏ đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Hầu như các chủ thể trong xã hội đều chịu sự ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid-19 và một trong số đó là cộng đồng doanh nghiệp. Theo đó, dịch bệnh Covid-19 đã tác động tiêu cực mãnh mẽ đến quá trình hoạt động, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện cụ thể qua các khía cạnh sau:

Một là, một số doanh nghiệp đã phải ngừng hoạt động. Trước sự nguy hiểm và lây lan nhanh chóng của dịch bệnh, Chính phủ đã có chỉ đạo kịp thời về việc quyết liệt thực hiện đợt cao điểm phòng, chống dịch Covid-19 với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, chấp nhận thiệt hại về kinh tế để phòng, chống dịch1. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tạm đình chỉ hoạt động các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn, trừ các cơ sở kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định cơ sở kinh doanh, dịch vụ cần đóng cửa. Như vậy, tại thời điểm cao điểm, một số công ty kinh doanh dịch vụ như du lịch, vận tải, làm đẹp, karaoke… đều phải tạm ngưng hoạt động. Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển của các doanh nghiệp. Theo Báo cáo tác động của dịch bệnh Covid-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, đại dịch Covid-19 nhìn chung có tác động nghiêm trọng đến doanh nghiệp tại Việt Nam, với 87,2% doanh nghiệp cho biết chịu ảnh hưởng ở mức “phần lớn” hoặc “hoàn toàn tiêu cực” 2. Trong đó, chịu ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn cả là các doanh nghiệp mới hoạt động dưới 03 năm, nhóm có quy mô siêu nhỏ, nhỏ hoặc các doanh nghiệp tại vùng Duyên hải miền Trung. Mặt khác, việc tạm đình chỉ hoạt động của các doanh nghiệp cũng dẫn đến hệ quả là sự sụt giảm nghiêm trọng về doanh thu của các doanh nghiệp này. Một số doanh nghiệp tuy không phải tạm dừng hoạt động kinh doanh theo chỉ đạo của Chính phủ nhưng do ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh cũng đã chọn cách rút lui khỏi thị trường bằng việc tạm ngừng kinh doanh có thời hạn hoặc giải thể.


Hai là, đại dịch Covid-19 đã kéo theo hàng loạt gánh nặng về tài chính cho doanh nghiệp. Các gánh nặng về tài chính doanh nghiệp gặp phải trong bối cảnh hiện nay gồm: Chi phí thuê mặt bằng, chi phí thanh toán lương và chế độ cho người lao động, công nợ và các khoản vay quá hạn… Thực tế, hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng trụ sở thuê, các hợp đồng thuê này thường có thời hạn dài 01 năm, 02 năm thậm chí là 05 đến 10 năm và doanh nghiệp thường sẽ phải đặt cọc một khoản tiền hoặc thanh toán trước chi phí thuê trong vài tháng. Tuy nhiên, sự tác động của dịch Covid-19 hầu như không loại trừ bất cứ chủ thể nào của nền kinh tế, do đó, doanh nghiệp khó có thể đi đến một thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thuê hay giảm chi phí thuê bởi cả doanh nghiệp và bên cho thuê đều đang trong tình trạng khó khăn như nhau. Do vậy, doanh nghiệp đứng trước hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan”, nếu chấm dứt hợp đồng thuê thì phải đối diện với việc mất trắng tiền đặt cọc, tiền thuê đã thanh toán trước, bồi thường hợp đồng, nhưng nếu không chấm dứt hợp đồng thuê thì không thể gồng gánh nổi chi phí. Một trong số những vấn đề khiến doanh nghiệp “đau đầu” là giải quyết việc làm và lương, chế độ cho người lao động. Các doanh nghiệp tạm ngưng kinh doanh buộc phải cho người lao động nghỉ việc, tuy nhiên phải đảm bảo quyền lợi của người lao động theo quy định của pháp luật. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, việc phải tạm ngưng các hoạt động kinh doanh để phòng, chống dịch dẫn đến các doanh nghiệp không tạo ra doanh thu trong khi phải giải quyết rất nhiều chi phí, nguồn tiền dự trữ của họ đôi khi không đủ để thanh toán lương và chế độ cho người lao động. Đối với các doanh nghiệp được phép kinh doanh, để giảm thiểu gánh nặng khi kinh doanh không đạt hiệu quả nhưng vẫn phải chi trả lương, đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động thì điều tiên quyết là phải có phương án cắt giảm chi phí, trong đó bao gồm việc cắt giảm người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp hoặc cắt giảm các chi phí liên quan đến lương, thưởng. Tuy nhiên, việc cắt giảm lao động và giảm lương cần phải tuân thủ quy định pháp luật. Doanh nghiệp lúc này vừa gặp khó khăn trong việc “đối ngoại” là phải tìm cách để duy trì hoạt động, vừa khó khăn trong “đối nội” khi phải giải quyết hàng loạt các vấn đề trong nội bộ công ty. Ngoài ra, trong bối cảnh dịch bệnh kéo dài, các chủ nợ, đối tác hay ngân hàng có tâm lý dè chừng về khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

Ba là, nguồn cung nguyên liệu sản xuất khan hiếm; xuất, nhập khẩu hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Đối với một số ngành nghề như sản xuất ô tô, điện tử, dệt may nguyên liệu thường được nhập khẩu từ các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 trên thế giới, để đảm bảo an toàn cho quốc gia mình, một số quốc gia chọn cách đóng cửa, các đường bay quốc tế và vận chuyển đường biển rất hạn chế, do đó việc xuất, nhập khẩu hàng hóa gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng khan hiếm nguyên liệu sản xuất. Từ đó dẫn đến hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh những ngành nghề này gặp rất nhiều khó khăn vì không có nguyên liệu để sản xuất, đồng thời, việc xuất khẩu hàng hóa gặp nhiều thách thức không kém.

2. Thực trạng áp dụng biện pháp tháo gỡ khó khăn về mặt tài chính của doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19

Trước những tác động do dịch Covid-19 gây ra, hầu hết các doanh nghiệp đều bị ảnh hưởng, nhất là về tài chính. Do đó, để đối mặt với hiện tại và ứng phó với tương lai khi dịch bệnh chưa biết thời gian dừng lại, các doanh nghiệp cần phải tự mình có các phương án hoặc tận dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước để tháo gỡ khó khăn. Trong thời gian qua, một số biện pháp mà các doanh nghiệp thường thực hiện để tháo gỡ khó khăn về mặt tài chính gồm:

Một là, thực hiện kế hoạch cắt giảm chi phí doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả đã chọn phương án làm thủ tục tạm ngừng hoạt động kinh doanh trong một thời gian nhất định để giảm các chi phí về thuế, hóa đơn. Một số doanh nghiệp khác từ chỗ chịu đựng đang dần chuyển sang thích nghi với hoàn cảnh. Thay vì ngưng trệ các hoạt động sản xuất kinh doanh dẫn đến thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng như thời điểm đại dịch mới xảy ra, nhiều doanh nghiệp bắt đầu nhận ra đại dịch không thể kết thúc sớm, xác định cần linh hoạt thay đổi để thích nghi và tồn tại. Có doanh nghiệp chọn phương án tái cơ cấu, tinh gọn bộ máy theo hướng sáp nhập hoặc loại bỏ các phòng ban không cần thiết, từ đó xây dựng phương án sử dụng lao động phù hợp với tình trạng của doanh nghiệp bằng cách cho người lao động nghỉ việc vì lý do tái cơ cấu hoặc chuyển người lao động sang làm công việc khác với mức lương tối thiểu bằng 85% mức lương ở công việc cũ. Ngoài ra, một số doanh nghiệp chuyển hình thức làm việc từ trực tiếp sang làm việc online tại nhà (work from home - WFH) và thỏa thuận về mức lương khi WFH hay thỏa thuận về việc chậm thanh toán lương. Các phương án này có thể giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng về chi phí tiền lương, chi phí hoạt động.

Việc cắt giảm chi phí thuê mặt bằng cũng được các doanh nghiệp áp dụng như thỏa thuận giảm chi phí thuê mặt bằng hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng bằng việc viện dẫn sự kiện “bất khả kháng” là dịch bệnh Covid-19. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thỏa thuận này không hề dễ dàng bởi cả bên cho thuê và bên thuê đều có những khó khăn nhất định về tài chính trong thời điểm này. Hơn thế, chưa có văn bản nào xem xét dịch Covid-19 là sự kiện bất khả kháng nên nếu trong Hợp đồng thuê mặt bằng các bên không thỏa thuận điều khoản này thì rất khó để áp dụng, thậm chí cần phải nhờ đến việc xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, theo nhóm tác giả, khi xét theo quy định của Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015 thì dịch Covid-19 hoàn toàn đáp ứng đầy đủ các điều kiện về bất khả kháng, bởi đây là sự kiện khách quan, không thể lường trước và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép, nên cần mặc nhiên xem đây là một sự kiện bất khả kháng để thỏa thuận việc chấm dứt Hợp đồng thuê mặt bằng.

Hai là, doanh nghiệp tận dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước về thuế, tín dụng, bảo hiểm xã hội trong dịch Covid-19. Từ khi dịch Covid-19 xuất hiện tại Việt Nam, Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cùng các bộ, ngành đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Trong đó quan trọng nhất là triển khai đồng bộ các giải pháp tài chính. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/3/2020 về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19, bao gồm các nhiệm vụ và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp như: Tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi về tiếp cận vốn, tín dụng, tài chính, thuế, thương mại, thanh toán điện tử; rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, chi phí cho doanh nghiệp. Cùng với đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 (được hướng dẫn bởi Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 và sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020). Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ban, ngành và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã có những văn bản cụ thể về các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, có thể kể đến các gói hỗ trợ lớn như: Chính sách tiền tệ, trọng tâm là cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi suất, hỗ trợ tín dụng với quy mô 250 nghìn tỷ đồng; chính sách hỗ trợ bảo đảm an sinh xã hội 62 nghìn tỷ đồng; chính sách tài khóa, trọng tâm là gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất với quy mô 180 nghìn tỷ đồng và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trả lương cho người lao động 16 nghìn tỷ đồng3. Tuy nhiên, chỉ mới có một số ít doanh nghiệp tiếp cận được các chính sách này, còn lại số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như chưa tiếp cận được. Theo khảo sát của Trường Đại học Kinh tế quốc dân, có hơn 80% doanh nghiệp chưa tiếp cận được các chính sách này4. Đánh giá về chính sách hỗ trợ Covid-19, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết: Đến ngày 27/5/2021, gói hỗ trợ tiền mặt mới thực hiện được 13.100 tỷ đồng, tương đương 36,5% quy mô gói (35.880 tỷ đồng). Tương tự, mới có 245 doanh nghiệp được vay để trả lương cho người lao động nghỉ việc do Covid-19 thông qua gói vay 16.000 tỷ đồng của Ngân hàng Chính sách xã hội, với tổng số tiền gần 42 tỷ đồng, tức là gói hỗ trợ này mới giải ngân được 0,26%. Còn gói hỗ trợ thông qua chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất với quy mô khoảng 6.500 tỷ đồng hiện cũng mới giải ngân được trên 12%, theo đó, 192.503 lao động của 1.846 đơn vị, doanh nghiệp với tổng số tiền là trên 786 tỷ đồng được thụ hưởng từ gói này. Theo thống kê, 98% doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 đang khó khăn hoặc đứng trước nguy cơ phá sản, nhưng chỉ 2% số này được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước5. Nguyên nhân dẫn đến việc thực thi chưa hiệu quả các chính sách này là do thủ tục còn khá rườm rà, các địa phương áp dụng không thống nhất các nội dung chỉ đạo, một số doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện để được hỗ trợ.


Đối diện với đợt dịch bùng phát dịch bệnh Covid-19 lần thứ tư, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Các chính sách này có tiến bộ và phù hợp với thực tiễn hơn các chính sách trước đó theo Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 (được hướng dẫn bởi Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020; sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 32/2020/QĐ-TTg ngày 19/10/2020; sửa đổi, bổ sung bằng Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020). Theo đó, để được hưởng chính sách về tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất thì doanh nghiệp chỉ cần đáp ứng khi giảm 15% người lao động tham gia bảo hiểm trở lên thay vì 50% hay 20% như trước; đối với chính sách cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất thì không còn quy định điều kiện về tỷ lệ giảm doanh thu so với quý trước (trước đó doanh nghiệp chỉ được vay để trả lương ngừng việc chứ không được vay để trả lương phục hồi sản xuất và phải đảm bảo điều kiện giảm 20% doanh thu trở lên so với quý trước thì mới được vay vốn6. Cũng theo hướng dẫn tại Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, đã có hướng dẫn về thời gian thực hiện thủ tục cho doanh nghiệp vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất là không quá 07 ngày kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ của doanh nghiệp7. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, thực hiện đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc, do đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 68/NQ-CP và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg. Tính đến ngày 31/12/2021, NHCSXH đã thực hiện giải ngân cho 2.474 lượt người sử dụng lao động với số tiền 2.316 tỷ đồng để trả lương cho 603.050 lượt người lao động.


Mới đây nhất, ngày 11/01/2022, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, theo đó, tổng quy mô gói hỗ trợ gần 350.000 tỷ đồng (trong đó, hỗ trợ tài khóa khoảng 291.000 tỷ đồng; hỗ trợ tiền tệ khoảng 46.000 tỷ đồng, hỗ trợ qua các quỹ khác gần 10.000 tỷ đồng và một số khoản khác) là một sự kiện chưa từng có và lớn nhất trong chuỗi các gói hỗ trợ phục hồi và kích thích phát triển kinh tế trong suốt thời gian chống dịch Covid-19 từ trước đến nay, kỳ vọng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, vực dậy và phát triển sản xuất kinh doanh.

3. Một số đề xuất nhằm tháo gỡ khó khăn về tài chính cho doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch Covid-19

Dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp và không xác định được thời điểm kết thúc, do đó, việc triển khai các biện pháp tháo gỡ khó khăn về tài chính cho doanh nghiệp cần được ưu tiên áp dụng một cách nhanh chóng, kịp thời. Hiện tại, đa số các giải pháp mà doanh nghiệp thực hiện đều có kết quả nhất định, các chính sách của Chính phủ cũng được đánh giá là phù hợp và được sự ủng hộ của doanh nghiệp, tuy nhiên, việc triển khai các chính sách này trên thực tế vẫn còn một số vướng mắc. Nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất để việc triển khai tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp tạo sự đồng thuận, đánh giá cao của xã hội, góp phần tiếp thêm động lực cho doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, khôi phục sản xuất kinh doanh, cụ thể:

Một là, cần triển khai, hướng dẫn cụ thể về các chỉ đạo, chính sách của Chính phủ để các cơ quan, ban, ngành có cách hiểu thống nhất, tránh cách hiểu mang tính địa phương, cục bộ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình làm hồ sơ xin hỗ trợ.

Hai là, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện rà soát lại quy định của pháp luật để đơn giản hóa thủ tục cho doanh nghiệp nhằm đảm bảo việc thực hiện chính sách nhanh chóng, kịp thời. Đồng thời, đôn đốc các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ và báo cáo kết quả thực hiện chính sách, bởi điều doanh nghiệp cần là các quy định phù hợp, kịp thời nhưng phải thực thi hiệu quả, chứ không phải là quy định “trên giấy” và phải đáp ứng được tính hỗ trợ khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Trên thực tế, có nhiều trường hợp khi doanh nghiệp đã vực dậy thì tiền hỗ trợ mới tới tay, điều này không đáp ứng nguyên tắc “Bảo đảm hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch, không để lợi dụng, trục lợi chính sách”8 hay “Bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của các chính sách và nguồn lực để thực hiện…”9.


Ba là, cần thiết phải có những thay đổi về các điều kiện của chính sách nhằm mở rộng phạm vi đối tượng doanh nghiệp được hỗ trợ bởi dù ít hay nhiều thì các doanh nghiệp đều bị thiệt hại do chịu ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid-19. Do đó, có thể đưa ra các điều kiện tương ứng với mức độ thiệt hại của doanh nghiệp để làm căn cứ xem xét đưa doanh nghiệp vào diện được hỗ trợ. Điều này một mặt có thể hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, mặc khác tạo niềm tin cho doanh nghiệp về sự quan tâm của Chính phủ, Nhà nước và hứa hẹn về sự cống hiến của doanh nghiệp trong tương lai cho nền kinh tế.

Kết luận

Dịch bệnh Covid-19 đã tác động ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Điều này đã gây ra không ít khó khăn, thách thức cho doanh nghiệp về nhiều mặt, trong đó có vấn đề về tài chính. Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành một số chính sách, pháp luật cụ thể để hỗ trợ về mặt tài chính cho doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết được các khó khăn tạm thời. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được vẫn còn tồn tại một số khó khăn, thách thức, bất cập trong việc xây dựng và thực thi các chính sách, pháp luật hỗ trợ về mặt tài chính cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, tiếp tục nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh, khắc phục những hạn chế, bất cập trong việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về mặt tài chính để hỗ trợ kịp thời, hiệu quả, thiết thực cho các doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng, cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1Mục 1 Chỉ thị số15/CT-TTg ngày 27/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về quyết liệt thực hiện đợt cao điểm phòng, chống dịch Covid-19.


2Thu Trang (2021), “Gần 90% doanh nghiệp tại Việt Nam bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19”, Tin tức thông tấn xã Việt Nam, truy cập ngày 26/11/2021, <https://baotintuc.vn/kinh-te/gan-90-doanh-nghiep-tai-viet-nam-bi-anh-huong-boi-dich-benh-covid19-20210312100553768.htm>.


3 Huy Thắng (2020), “Hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, xóa khoảng cách từ chính sách đến thực thi”, Báo điện tử Chính phủ, truy cập ngày 26/11/2021, <http://baochinhphu.vn/Doanh-nghiep/Ho-tro-doanh nghiep-bi-anh-huong-do-dich-Covid-19-xoa-khoang-cach-tu-chinh-sach-den-thuc-thi/416438.vgp>.


4Thanh Thanh (2021), “Doanh nghiệp khó khăn do Covid-19: Đề xuất nào cho gói hỗ trợ tiếp theo?”, Pháp luật Việt Nam, truy cập ngày 26/11/2021, <https://baophapluat.vn/doanh-nghiep-kho-khan-do-covid-19-de-xuat-nao-cho-goi-ho-tro-tiep-theo-post367250.html>.

5Anh Minh (2021), “Gói hỗ trợ Covid-19 chưa 'chạm' tới đối tượng dễ bị tổn thương”, VNvneExpress, truy cập ngày 26/11/2021,<https://vnexpress.net/goi-ho-tro-covid-19-chua-cham-toi-doi-tuong-de-bi-ton-thuong 4294503.html>.

6 Điểm b mục 1 Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.


7 Khoản 4, 5 Điều 41 Quyết định số 23/2021/QĐ-Tg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.

8 Điểm 2a Mục I Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.

9Điểm 2c Mục I Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.



Tài liệu tham khảo

1. Anh Minh (2021), “Gói hỗ trợ Covid-19 chưa “chạm” tới đối tượng dễ bị tổn thương”, VnExpress, truy cập ngày 26/11/2021, <https://vnexpress.net/goi-ho-tro-covid-19-chua-cham-toi-doi-tuong-de-bi-ton-thuong-4294503.html>

2. Thu Trang (2021), “Gần 90% doanh nghiệp tại Việt Nam bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19”, Tin tức thông tấn xã Việt Nam, truy cập ngày 26/11/2021, <https://baotintuc.vn/kinh-te/gan-90-doanh-nghiep-tai-viet-nam-bi-anh-huong-boi-dich-benh-covid19-20210312100553768.htm>

3. Huy Thắng (2020), “Hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, xóa khoảng cách từ chính sách đến thực thi”, Báo điện tử Chính phủ, truy cập ngày 26/11/2021, <http://baochinhphu.vn/Doanh-nghiep/Ho-tro-DN-bi-anh-huong-do-dich-Covid-19 -xoa-khoang-cach-tu-chinh-sach-den-thuc-thi/416438.vgp>

4. Thanh Thanh (2021), “Doanh nghiệp khó khăn do Covid-19: Đề xuất nào cho gói hỗ trợ tiếp theo?”, Pháp luật Việt Nam, truy cập ngày 26/11/2021, <https://baophapluat.vn/doanh-nghiep-kho-khan-do-covid-19-de-xuat-nao-cho-goi-ho-tro-tiep-theo-post367250.html>

ThS. Trần Linh Huân
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Hòa giải viên thương mại, Trung tâm Trọng tài Thương mại Phía Nam (STAC)


LS. Nguyễn Cảnh Trường
Phó Giám đốc, Công ty Luật TNHH Đức và Thương

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Mục đích của nghiên cứu là cung cấp cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 78 doanh nghiệp trong giai đoạn 2019 - 2023. Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính trên phần mềm Stata 17, kết quả cho thấy các yếu tố như kiểm soát nội bộ, khả năng sinh lời, vốn trí tuệ, đòn bẩy tài chính và chất lượng kiểm toán độc lập có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp này, từ đó nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị cụ thể giúp các doanh nghiệp nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý thông tin tài chính, đồng thời, cung cấp góc nhìn hữu ích dành cho các nhà đầu tư, giúp họ có cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Phân tích báo cáo tài chính cung cấp thông tin rõ ràng về tình hình tài chính, vốn và công nợ của doanh nghiệp, giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định điều hành và đầu tư chính xác. Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các chỉ số tài chính của nhóm doanh nghiệp có nguy cơ phá sản và nhóm doanh nghiệp không có nguy cơ phá sản. Các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản thường có chỉ số tài chính không ổn định (quá cao hoặc quá thấp) so với các doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Những năm gần đây, với sự chuyển đổi số mạnh mẽ và sự phát triển không ngừng của các công nghệ tiên tiến, việc đo lường mức độ chấp nhận và sử dụng công nghệ mới của người dùng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sự sẵn sàng áp dụng công nghệ của một cá nhân sẽ phản ánh khuynh hướng chấp nhận công nghệ của họ trong các hoạt động thường ngày. Để đánh giá chính xác xu hướng này, Chỉ số sẵn sàng công nghệ đã trở thành một công cụ hữu ích, giúp đo lường tâm lý, thái độ và hành vi của người dùng đối với các ứng dụng công nghệ. Từ đó, doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về mức độ sẵn sàng áp dụng công nghệ của các đối tượng mục tiêu, cũng như dự báo xu hướng phát triển của thị trường.
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Để đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng, nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng kết hợp với định tính. Quy trình nghiên cứu được thực hiện theo các bước: Thống kê mô tả, đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy tuyến tính bội và kiểm định giả thuyết. Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc gửi phiếu khảo sát dưới hình thức online đến sinh viên các trường đại học.
Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp phải nhiều bất cập do những hạn chế về pháp lý, thủ tục hành chính phức tạp, thời hạn sử dụng đất ngắn và thiếu sự minh bạch trong quản lý đất đai. Các rào cản này không chỉ làm giảm sức hút của môi trường đầu tư Việt Nam mà còn cản trở sự phát triển bền vững của các dự án FDI. Để nâng cao hiệu quả quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp...
Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng mang lại nhiều lợi ích vượt trội, góp phần hiện đại hóa hoạt động, nâng cao trải nghiệm khách hàng và bảo đảm an toàn giao dịch. Các công nghệ sinh trắc học phổ biến như nhận diện khuôn mặt, quét vân tay, mống mắt hay xác thực giọng nói... không chỉ cải thiện quy trình vận hành mà còn gia tăng mức độ tin cậy trong các giao dịch tài chính.
Tính độc lập của thư tín dụng và ngoại lệ gian lận: Thực tiễn áp dụng tại một số quốc gia và đề xuất cho Việt Nam

Tính độc lập của thư tín dụng và ngoại lệ gian lận: Thực tiễn áp dụng tại một số quốc gia và đề xuất cho Việt Nam

Phương thức thanh toán bằng L/C được các doanh nghiệp sử dụng rộng rãi trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Phương thức thanh toán này giúp các bên giảm thiểu rủi ro do khoảng cách về địa lý và sự khác biệt của pháp luật giữa các quốc gia.
Cơ hội và thách thức của ngành Ngân hàng trong việc đạt mục tiêu ESG

Cơ hội và thách thức của ngành Ngân hàng trong việc đạt mục tiêu ESG

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với những thách thức lớn từ biến đổi khí hậu, bất bình đẳng xã hội và sự thiếu minh bạch trong quản trị, khái niệm ESG đã nổi lên như một giải pháp không thể thiếu để hướng tới sự phát triển bền vững.
Xem thêm
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc