Tạo nguồn lực từ các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách giúp doanh nghiệp phát triển

Chính sách
Theo quy định hiện hành, nhiều địa phương có trên 12 Quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách, trong đó đa số được hình thành từ 3 nguồn chủ yếu: Ngân sách tỉnh, thành phố cấp, điều phối từ trung ương ...
aa

Theo quy định hiện hành, nhiều địa phương có trên 12 Quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách, trong đó đa số được hình thành từ 3 nguồn chủ yếu: Ngân sách tỉnh, thành phố cấp, điều phối từ trung ương (ở một số Quỹ); và từ kết quả hoạt động, huy động đóng góp các tổ chức, cá nhân.




Hoàn thiện khung pháp lý thống nhất quản lý và sử dụng Quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách

sẽ tạo thành tổng nguồn lực mạnh giúp doanh nghiệp, tổ chức kinh tế kinh doanh, hoạt động hiệu quả

Một số Quỹ nhiều nội dung tương đồng trong cơ cấu tổ chức, nguyên tắc, phương thức, đối tượng hoạt động; Quỹ hình thành ban đầu từ Ngân sách địa phương đều thực hiện hỗ trợ, cho vay, đầu tư, bảo lãnh nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng, những lĩnh vực doanh nghiệp không “mặn mà” do đầu tư có tính mạo hiểm, phục vụ công cộng, lợi nhuận không cao; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tổ chức kinh tế; thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo chủ trương của địa phương. Tuy nhiên, mỗi Quỹ tổ chức và hoạt động theo Nghị định, văn bản quy phạm khác nhau, có điều lệ mẫu riêng; chức năng nhiệm vụ có nội dung khác nhau. Do vậy, nhiều nơi thành lập các Quỹ này theo nhiều mô hình khác nhau, đã làm phân tán nguồn lực của địa phương giúp doanh nghiệp. Đòi hỏi rất cần có tổng kết, cơ cấu lại hệ thống Quỹ để nguồn lực được phát huy.

Nhiều địa phương có trên 12 Quỹ tài chính nhà nước ngoài Ngân sách được thành lập và tổ chức hoạt động theo luật, nghị định của Chính phủ, các thông tư của bộ, ngành có liên quan, do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập và quy định điều lệ, quy chế hoạt động. Trong đó, có đến 9 Quỹ do Ngân sách địa phương cấp để thành lập và hoạt động; với 6 Quỹ cấp theo hình thức vốn điều lệ gồm: Quỹ Đầu tư phát triển, Quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ bảo vệ môi trường, Quỹ hỗ trợ hợp tác xã, Quỹ khoa học và công nghệ, Quỹ phát triển đất, và một loại “có nơi lập Quỹ” Ngân sách cấp do HĐND cấp tỉnh giao tổ chức tài chính Nhà nước của địa phương có chức năng đầu tư tài chính thực hiện đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Các Quỹ này và 3 Quỹ: hỗ trợ nông dân, tài năng trẻ, giải quyết việc làm hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn; cơ bản không vì mục tiêu lợi nhuận, tự chủ tài chính; bộ máy hoạt động chuyên trách Ngân sách không cấp kinh phí; các hoạt động tài chính, kế toán, kiểm toán và báo cáo nhiều nội dung tương đồng từ lập kế hoạch, quản lý, sử dụng vốn, phân phối kết quả tài chính; và có cùng mục tiêu hỗ trợ, cho vay, đầu tư để các tổ chức sản xuất kinh doanh hoạt động theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội địa phương định ra. Cơ chế hoạt động nhìn chung là hỗ trợ lãi suất vay vốn để các tổ chức sản xuất kinh doanh có vốn; có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; thực hiện ý tưởng hay, sáng tạo hoặc đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội mà các loại hình doanh nghiệp ít quan tâm (do tính rủi ro cao) như kết cấu hạ tầng công cộng, bảo vệ môi trường, đền bù giải phóng mặt bằng, bảo tồn tài nguyên sinh học... nhằm thực hiện mục tiêu, định hướng của địa phương trong giai đoạn nhất định (5 năm, 10 năm); đồng thời còn giúp các tổ chức kinh tế đã, đang khó khăn có điều kiện tiếp cận tổ chức thương mại tín dụng để khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh. Đối tượng của các Quỹ này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ chức kinh tế trên địa bàn.

Theo luật định: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch được đăng ký thành lập theo quy định để kinh doanh, có tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, tổng doanh thu năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng, có số lao động tham gia Bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, ít nhất có 7 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã. Với chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước hiện nay, nhiều địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác thành lập năm sau cao hơn năm trước, đa số theo loại hình nhỏ và vừa, có tài sản nhưng nhỏ, có ý tưởng, phương án sản xuất kinh doanh, nhu cầu đầu tư lớn. Nên rất cần sự vào cuộc của các Quỹ giúp doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức hoạt động.

Thực tế, ở các tỉnh, thành phố, mô hình tổ chức các Quỹ này rất khác nhau: có nơi gộp Quỹ Đầu tư phát triển với Quỹ bảo lãnh, hoặc Quỹ phát triển đất, hoặc Quỹ khoa học công nghệ, hoặc một số Quỹ khác có hoạt động tương đồng. Có nơi, Quỹ Đầu tư phát triển nhận ủy thác; một số nơi đang triển khai thực hiện Nghị quyết 18/NQ-TW của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đã và đang thực hiện theo hai mô hình (Sáp nhập một số Quỹ có chức năng, nhiệm vụ tương đồng; và ủy thác cho Quỹ Đầu tư phát triển ở địa phương).

Qua khảo sát ở địa phương, các Quỹ tài chính nhà nước ngoài Ngân sách đang hoạt động độc lập cho thấy: nhiều Quỹ được thành lập nhưng vốn điều lệ thấp, có những Quỹ chưa cấp đủ vốn theo Quyết định thành lập. Mặc dù nguồn Ngân sách ở các địa phương những năm gần đây năm sau cao hơn năm trước, song nhu cầu chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển lại rất lớn. Nên ngân sách dành cho Quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách ở địa phương không cao, lại phân bổ cho số lượng các Quỹ nhiều (trên 10 Quỹ), nên nguồn vốn hoạt động của mỗi Quỹ bé, vốn chủ sở hữu thấp. Ngân sách cấp cho các Quỹ bị phân tán. Địa phương nào tỉnh quan tâm, lãnh đạo chỉ đạo sâu sát, gắn với chức năng nhiệm vụ như: định hướng rõ doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức kinh tế được hỗ trợ, đầu tư từ Quỹ; làm rõ chức năng nhiệm vụ của Quỹ gắn với thực tiễn ở địa phương, chỉ đạo về đầu tư, hỗ trợ trực tiếp dự án hoặc vay đầu tư hoặc cấp đủ vốn thì hiệu quả hoạt động của Quỹ đó được nổi bật.

Tuy nhiên, đã bộc lộ một số hạn chế: một số Quỹ có mục tiêu, nhiệm vụ và đối tượng phục vụ trùng lặp như: Quỹ hỗ trợ nông dân, Quỹ hỗ trợ hợp tác xã, Quỹ phát triển tài năng trẻ; hay giữa Quỹ Đầu tư phát triển với Quỹ bảo vệ môi trường, Quỹ khoa học công nghệ, Quỹ đầu tư phát triển đất (liên quan đến đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu đất chuyển đổi mục đích sử dụng)… Có nơi Quỹ sử dụng vốn đạt thấp (dưới 50% vốn chủ sở hữu); số lượng doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đến với Quỹ vay và sử dụng nguồn vốn không nhiều do đối tượng phục vụ bị bó hẹp; nguồn vốn không đủ lớn để đảm bảo tỷ lệ mức vốn đáp ứng cho doanh nghiệp.

Mỗi Quỹ có một hệ thống tổ chức hoạt động độc lập gồm: Hội đồng quản lý, Ban điều hành, Ban kiểm soát (có Quỹ tổ chức bộ máy hoạt động kiêm nhiệm, có Quỹ, có nơi tổ chức chuyên trách). Trong khi đó, cơ chế, quy trình thủ tục mỗi Quỹ có những nội dung khác nhau song cơ bản đều do Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý, sử dụng vốn theo nguyên tắc chung thống nhất. Trong khi đó, số lượng khách hàng của mỗi Quỹ trong một tháng, năm không nhiều nên năng suất lao động của một số bộ phận ở một số Quỹ không cao, chưa phát huy được tối đa và hiệu quả lực lượng cán bộ, nhân viên hiện có.

Một số Quỹ vốn chủ sở hữu thấp, định mức cho một khách hàng sử dụng vốn nhỏ. Lĩnh vực hoạt động của Quỹ bị bó hẹp; nhiều dự án đầu tư kết cấu hạ tầng, công trình khoa học ứng dụng do đơn vị sự nghiệp, chính quyền các cấp làm chủ đầu tư (chính quyền không được vay vốn làm kinh tế) Dự án đúng đối tượng nhưng không thể dùng được vốn từ Quỹ. Nên Quỹ đã hạn hẹp đối tượng lại càng khó khăn trong hoạt động. Một số khách hàng đúng đối tượng, đảm bảo điều kiện nhưng số vốn Quỹ thấp, không đáp ứng được khách hàng.

Trong số các Quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách, có nơi, có lúc, có Quỹ sử dụng hết vốn chủ sở hữu, rất cần bổ sung. Có Quỹ thời gian dài sử dụng dưới 50% vốn. Theo cơ chế, có thể một khách hàng sử dụng vốn ở nhiều Quỹ nhưng hồ sơ thủ tục (nhất là tài sản đảm bảo) bị vướng mắc nên có Quỹ tồn vốn, có Quỹ sử dụng hết.

Các Quỹ này bản chất không phải là tổ chức tín dụng thương mại, có nguồn tài chính đa số là từ ngân sách địa phương dành ra để tạo cơ chế, hỗ trợ giúp các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn sản xuất kinh doanh theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; nghiệp vụ chuyên môn theo hướng dẫn của các bộ, ngành có liên quan theo từng lĩnh vực. Mô hình hoạt động lưỡng tính vừa thuộc doanh nghiệp Nhà nước sở hữu 100% vốn, vừa theo mô hình ngân hàng chính sách. Nên Quỹ hoạt động với cơ chế hỗ trợ, “mồi” để khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh theo định hướng của tỉnh mạnh dạn đầu tư. Trong quá trình hoạt động còn có vướng mắc chưa được quy định rõ như: chế độ bảo mật; quy trình thủ tục cho vay, hỗ trợ, góp vốn thành lập doanh nghiệp, xử lý nợ đọng để áp dụng thống nhất.

Để các Quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách hoạt động có hiệu quả đáp ứng chủ trương của Đảng, một cơ quan thực hiện nhiều việc có chức năng nhiệm vụ tương đồng, một việc chỉ giao cho một cơ quan, một người chủ trì và chịu trách nhiệm chính, rất cần tổ chức có giải pháp khắc phục hạn chế, cụ thể:

Một là, các địa phương cần tổ chức tổng kết đánh giá kết quả hoạt động của các Quỹ từ khi thành lập đến nay; làm rõ những mặt hạn chế; đồng thời rà soát, kiểm tra toàn bộ các Quỹ để có hướng xử lý những tồn tại và có cơ sở chọn ra mô hình tổ chức và hoạt động cho phù hợp với thực tế ở địa phương.

Hai là, trên cơ sở tổng kết đánh giá, kiến nghị đề xuất của các địa phương, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan rà soát hệ thống các văn bản liên quan đến tổ chức và hoạt động của các Quỹ, trình cấp có thẩm quyền hoàn thiện khung pháp lý thống nhất quản lý và sử dụng Quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách theo hướng gắn kết các Quỹ thành một nguồn tài chính Nhà nước ở địa phương ngoài Ngân sách để phục vụ nhiệm vụ hỗ trợ, cho vay, đầu tư, bảo lãnh cho các tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh theo từng lĩnh vực theo các Quỹ hiện nay đang hoạt động độc lập. Đây là một phần Ngân sách địa phương đưa ra phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nên cũng cần phải được phản ánh trong hoạt động kinh tế - xã hội, tài chính Ngân sách để cơ quan có thẩm quyền, nhân dân theo dõi, giám sát.

Ba là, với bản chất các Quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách là hỗ trợ, khuyến khích cho các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hoạt động theo mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương từ nguồn Ngân sách địa phương là chính. Do vậy những Quỹ có chung mục tiêu, nhiệm vụ tương đồng với các đối tượng trùng lặp nên gộp, giao một cơ quan có chức năng quản lý, điều hành để giảm chi phí quản lý, tạo nguồn lực tổng hợp từ vốn đến đội ngũ cán bộ nhân viên và quy trình thủ tục, hồ sơ, hoạt động thẩm định, giải ngân, giám sát, kiểm tra, thu hồi vốn.

Bốn là, mô hình tổ chức bộ máy của các Quỹ theo hướng hoạt động kiêm nhiệm. Hội đồng quản lý của Quỹ gồm Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND tỉnh là Chủ tịch; Giám đốc Quỹ là Phó chủ tịch Hội đồng, các thành viên là lãnh đạo các Sở, Ngành có liên quan đến hoạt động của các Quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách. Ban điều hành gồm Giám đốc, 2 - 3 Phó Giám đốc phụ trách các lĩnh vực của các Quỹ. Các phòng chuyên môn theo hướng: phòng Hành chính tổng hợp, phòng Kế hoạch - Tài chính, các phòng nghiệp vụ chuyên môn đảm nhận các chức năng, nhiệm vụ ở các Quỹ có chức năng nhiệm vụ tương đồng. Ban Kiểm soát gồm Trưởng ban và các thành viên hoạt động chuyên trách nhưng kiểm soát hoạt động của các Quỹ. Được như vậy, bộ máy tinh giản, mỗi Quỹ vẫn có bộ máy tổ chức quản lý, điều hành mang tính độc lập (Quỹ có cán bộ, nhân viên hoạt động mang tính chuyên môn hóa). Nguồn tài chính của các quỹ được sử dụng linh hoạt và có hiệu quả hơn.

Năm là, các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính... nên có các quy định về quy trình, thủ tục hoạt động của các quỹ, về chế độ bảo mật thông tin, cung cấp thông tin... để Quỹ hoạt động đồng bộ, thống nhất. Trong đó, quy định rõ Bộ, Ngành hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn; UBND cấp tỉnh quy định tổ chức và hoạt động và quản lý quỹ trên địa bàn.

Thực hiện được như vậy, tin rằng các Quỹ tài chính nhà nước ngoài Ngân sách sẽ tạo thành tổng nguồn lực mạnh giúp doanh nghiệp, tổ chức kinh tế kinh doanh, hoạt động hiệu quả.


Văn Đức Sơn

Nguồn: TCNH - Số CĐ ĐB 2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Xem thêm
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc