Tác động của nghiên cứu - phát triển, môi trường - xã hội - quản trị đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Bài viết khoa học chuyên sâu
Với sự phát triển không ngừng của công nghệ số đang bùng nổ trong kỉ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) được xem là chiến lược quan trọng với doanh nghiệp (trong đó có ngân hàng) để duy trì tính cạnh tranh, R&D cho phép các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm mới mà đối thủ khó có thể sao chép được, bên cạnh đó, quy trình tạo ra sản phẩm mới, cũng như công năng của sản phẩm mang lại đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sẽ hỗ trợ doanh nghiệp trong tiến trình phát triển bền vững.
aa

Tóm tắt: Với sự phát triển không ngừng của công nghệ số đang bùng nổ trong kỉ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) được xem là chiến lược quan trọng với doanh nghiệp (trong đó có ngân hàng) để duy trì tính cạnh tranh, R&D cho phép các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm mới mà đối thủ khó có thể sao chép được, bên cạnh đó, quy trình tạo ra sản phẩm mới, cũng như công năng của sản phẩm mang lại đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sẽ hỗ trợ doanh nghiệp trong tiến trình phát triển bền vững. Đầu tư vào R&D và thực thi bộ tiêu chuẩn ESG (môi trường - xã hội - quản trị) của các ngân hàng hướng đến cung ứng các sản phẩm tài chính xanh, trong đó nguồn vốn vay xanh thông qua hoạt động cho vay xanh của ngân hàng sẽ là chuỗi cung ứng giá trị xanh cho sản phẩm của doanh nghiệp. Bài nghiên cứu điều tra sự ảnh hưởng của R&D và thực thi ESG ở các ngân hàng, chủ yếu dựa vào chi phí đầu tư cho R&D và xếp hạng ESG của ngân hàng có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thông qua chỉ số Tobin’Q, tỉ số lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA), tỉ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE). Kết quả nghiên cứu là bằng chứng thực nghiệm giải thích khi các ngân hàng tăng chi phí đầu tư R&D, ESG sẽ giúp gia tăng hiệu quả hoạt động thể hiện qua các chỉ tiêu tài chính đều tăng, bên cạnh đó còn gia tăng giá trị thương hiệu là ngân hàng xanh, ngân hàng bền vững, tăng đánh giá xếp hạng tín nhiệm, mang lại lợi ích kinh tế về giá trị cổ phiếu tăng, khả năng tiếp cận vốn và năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Từ khóa: ESG, điểm ESG, hiệu quả hoạt động, R&D.

IMPACT OF RESEARCH-DEVELOPMENT (R&D), ENVIRONMENTAL-SOCIAL-GOVERNANCE (ESG)
ON BANK PERFORMANCE

Abstract: With the continuous development of digital technology that is exploding in the era of the Fourth Industrial Revolution, investment in R&D is considered an important strategy for businesses (including banks) to maintain competitiveness. R&D allows businesses to create new products that are difficult for competitors to copy. In addition, the process of creating new products, as well as the functions of the products that meet environmental protection standards, will support businesses in the process of sustainable development. Investment in R&D and ESG of banks aims to provide green financial products, in which green loan capital through the bank’s green lending activities will be the green value chain for the products of businesses. This study investigates the impact of R&D and ESG implementation in banks, mainly based on the cost of investment in R&D and the bank’s ESG rating, on operational efficiency through the Tobin’s Q, ROA, and ROE indicators.

The research findings provide empirical evidence that when banks increase their R&D investment, ESG practices can help enhance operational efficiency, as evidenced by the increase in all financial indicators. Additionally, ESG practices can also increase brand value by positioning the bank as a “green” and “sustainable” bank, improve credit ratings, and bring economic benefits such as increased stock prices, improved access to capital, and enhanced competitiveness in the international market.

Keywords: ESG, ESG score, bank performance, R&D.

1. Đặt vấn đề

Quá trình xây dựng một nền kinh tế xanh, bền vững xuất phát từ xây dựng hệ thống tài chính xanh, ngân hàng xanh với tư cách là nhân tố kinh tế tài trợ vốn chính cho nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng xanh đóng vai trò cốt lõi trong chính sách cho vay của ngân hàng (Yadav, 2013). Các thành phần kinh tế khi tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng xanh buộc phải tuân thủ các điều kiện về bảo vệ môi trường (Sahoo, 2008). Thuật ngữ ngân hàng xanh thường gắn liền với hoạt động R&D và triển khai thực hiện các hoạt động liên quan đến ESG. ESG là một bộ tiêu chuẩn dùng để đo lường sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Điểm ESG là thước đo đánh giá kết quả thực hành ESG của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có điểm ESG càng cao thì quản trị rủi ro tác động xấu đến môi trường cộng đồng càng tốt và triển khai chiến lược phát triển bền vững càng thành công (Wajahat Azmi, 2021; Refinitive, 2022).

Trên thế giới, các tổ chức xếp hạng ESG gồm có Refinitiv, MSCI, Sustainalytics, S&P Global Inc. Điểm ESG được tính theo công thức sau:

- Điểm ESG

Trong đó:

i: Lần lượt là khía cạnh môi trường, xã hội, quản trị.

- Điểm ESG môi trường

Trong đó:

j: Lần lượt là chỉ tiêu con như sử dụng tài nguyên, phát thải carbon, sự đổi mới.

- Điểm ESG xã hội


Trong đó:

z: Lần lượt là chỉ tiêu con như lực lượng lao động, quyền con người, cộng đồng, trách nhiệm, sản phẩm.

- Điểm ESG quản trị

Trong đó:

t: Lần lượt là chỉ tiêu con như cấu trúc quản lí, cổ đông, chiến lược ESG.

Mỗi tổ chức xếp hạng sẽ có tỉ trọng trọng số ở các điểm dữ liệu khác nhau và thường xuyên cập nhật bổ sung nhằm hoàn thiện phương pháp tính điểm, nhưng cơ bản, quá trình thu thập điểm dữ liệu ở các tổ chức xếp hạng hiện nay vẫn sử dụng đồng thời hai phương pháp định tính và định lượng, tùy theo những đặc điểm về con người, xã hội mà vận dụng phương pháp thu thập dữ liệu thích hợp.

Nghiên cứu của nhóm tác giả sử dụng cách tính điểm ESG theo Refinitiv, với lí do đây là tổ chức uy tín và có vị thế toàn cầu, là một công ty con thuộc London Stock Exchange Group (LSEG), một tổ chức tài chính uy tín với lịch sử hơn 300 năm, Refinitiv cung cấp dữ liệu và phân tích cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp trên toàn cầu, phục vụ hơn 40.000 tổ chức tại 190 quốc gia. Giải pháp đánh giá ESG của Refinitiv được các nhà đầu tư, tổ chức, công ty và cơ quan quản lí tin tưởng sử dụng. Dữ liệu từ Refinitiv thu thập dữ liệu ESG từ hơn 7.000 công ty niêm yết trên 60 sàn giao dịch trên toàn cầu, tổ chức này đánh giá điểm ESG của một tổ chức một cách tổng thể trên 186 tiêu chí tương ứng 186 điểm dữ liệu ở các khía cạnh.

Tuy nhiên, tính đến giữa tháng 3/2024, số liệu từ các tổ chức xếp hạng ESG chỉ mới cập nhật ESG của các doanh nghiệp đến hết năm 2022. Nghiên cứu về ngân hàng xanh của Jennifer Bell và các cộng sự (2023), Ikram Ullah Khan và các cộng sự (2022), Yonghui Lian và các cộng sự (2022), Hina Najam và các cộng sự (2022), Sumei Luo và các cộng sự (2022), Nguyễn Công Nhẫn (2023), Hồ Thị Thúy Hằng (2023), Trần Thị Thanh Tú và các cộng sự (2021), Đào Mỹ Hằng (2020), Trịnh Chi Mai và các cộng sự (2020) đã chỉ ra có sự tương quan dương giữa hiệu suất bảo vệ môi trường và hiệu quả hoạt động.

Ngành Ngân hàng được xem là nhân tố chủ đạo của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các nỗ lực toàn diện hướng tới sự phát triển bền vững. Khi các ngân hàng xây dựng chiến lược R&D áp dụng các tiêu chí đánh giá ESG vào hoạt động ngân hàng xanh của mình bao gồm xây dựng ngân hàng trực tuyến (Khan, 2021); khuyến khích giảm lượng giấy sử dụng càng nhiều càng tốt, xây dựng các chương trình cho vay hoặc cấp các khoản vay xanh hỗ trợ tài chính các cho dự án thân thiện với môi trường (Giraudet, 2021; Bukhari, 2020); khuyến khích khách hàng sử dụng công nghệ xanh như thẻ tín dụng xanh, thẻ tín dụng phi vật lí (Huang, 2018)… trong đó hoạt động cho vay các khoản vay xanh tài trợ vốn đầu tư các dự án thân thiện với môi trường (như đầu tư cho khí hậu, cắt giảm mức độ sử dụng nguyên liệu hóa thạch…), phát hành trái phiếu xanh tài trợ cho các dự án ESG, thúc đẩy tài chính xanh, chuyển chiến lược ESG và hệ sinh thái của khách hàng doanh nghiệp… được xem là yếu tố chính giúp ngân hàng đạt tới hiệu quả bảo vệ môi trường nhanh nhất.

Mục tiêu nghiên cứu kiểm định tác động của ESG, R&D đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng khoa học cho ban lãnh đạo ngân hàng xây dựng chiến lược R&D với mục tiêu cải tiến quy trình thẩm định dự án của doanh nghiệp trên cơ sở thấy rõ lợi ích của R&D và ESG đến mục tiêu và kết quả hoạt động kinh doanh bền vững của ngân hàng; từ đó thúc đẩy quá trình xây dựng chiến lược đầu tư vào R&D và ESG giúp ngân hàng phát triển phù hợp với xu hướng xanh của thế giới.

2. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu

Khía cạnh môi trường và hiệu quả hoạt động

Hành động bảo vệ môi trường từ chính hoạt động hằng ngày của ngân hàng, cũng như đối với khách hàng của ngân hàng là cách tham gia trực tiếp bảo vệ môi trường, vì thế một ngân hàng triển khai xây dựng hệ thống quản lí môi trường sẽ dẫn đến việc áp dụng một chiến lược kinh doanh vì môi trường có lợi cho ngân hàng và khách hàng. Từ đó, cam kết vì môi trường của ngân hàng có thể được xem xét từ ba khía cạnh: Tài trợ cho các dự án thân thiện với môi trường, giảm rủi ro khi cho các ngành công nghiệp có tác động lớn đến môi trường vay vốn và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong chính ngân hàng cho các vấn đề về bảo vệ môi trường. Hướng đến việc đưa các chính sách bảo vệ môi trường vào chính sách cho vay của ngân hàng sẽ xây dựng các sản phẩm, dịch vụ tài chính “xanh” (Elisa Menicucci, Guido Paolucci, 2023) là cam kết của ngân hàng với chính sách môi trường.

Các ngân hàng không thể bỏ qua hoạt động ESG như trước đây, vì hiện nay, các yêu cầu về ESG tại ngân hàng được xem là tạo ra lợi thế cạnh tranh và xây dựng danh tiếng của ngân hàng so với các đối thủ cùng ngành. ESG dần được xem như yếu tố bắt buộc cho hoạt động kinh doanh ngân hàng khi tiếp cận với thị trường tài chính thế giới (Bischof R., 2021).

Các ngân hàng có điểm ESG cao hơn có thể được coi là ít rủi ro (Albuquerque và cộng sự, 2020; Broadstock và cộng sự, 2020) và có thể vượt trội so với thị trường trong thời kì khủng hoảng (Takahashi và Yamada, 2020). Nếu một ngân hàng tham gia vào các hoạt động ESG ở mức thấp, có thể báo hiệu chất lượng của ngân hàng cho các nhà đầu tư về khả năng rủi ro cao có thể xảy ra khi thị trường bắt đầu tiến vào thời kì khủng hoảng.

Theo kết quả nghiên cứu về mối quan hệ phi tuyến tính giữa hoạt động ESG và hiệu quả hoạt động ngân hàng thông qua xem xét hệ số Tobin’ Q, nghiên cứu cho thấy, tại các quốc gia đang phát triển, những ngân hàng có mức độ hoạt động ESG thấp có tác động tích cực đến hiệu quả ngân hàng, ngược lại hoạt động ESG ở mức độ cao hơn tác động giảm hiệu quả ngân hàng. Bên cạnh đó, các hoạt động ESG của ngân hàng làm tăng thêm giá trị định giá ngân hàng, điều này phù hợp với lí thuyết các bên liên quan, nhưng giá trị tăng thêm này nằm trong ngưỡng nhất định theo sơ đồ hình chữ U ngược, vì khi đến mức độ đỉnh giá trị biên của mỗi yếu tố môi trường, xã hội và quản trị bổ sung sẽ làm giảm hiệu quả mang lại (Wajahat Azmi, 2021). Tuy nhiên, với chiến lược thực hành ESG hiện nay của các ngân hàng ở khu vực Đông Nam Á đang diễn ra ở giai đoạn đầu, khi đó mỗi yếu tố ESG đều mang lại giá trị tăng thêm cho hiệu quả hoạt động, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết cùng chiều.

H1a: Khía cạnh môi trường của ESG có tác động dương đến hiệu quả hoạt động ngân hàng

Khía cạnh xã hội và hiệu quả hoạt động

Một số nghiên cứu chỉ ra hoạt động trách nhiệm xã hội (CSR) có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (Edward, 1984; Freedman và Jaggi, 1988; Donaldson và Preston, 1995; Verrecchia, 2001; Lev và cộng sự, 2010; Surroca và cộng sự, 2010; Dhaliwal và cộng sự, 2011; Kim và cộng sự, 2013). Các nghiên cứu vừa nêu chỉ ra, khi chi phí xã hội tăng lên theo thời gian, dựa trên lí thuyết các bên liên quan nhằm bảo vệ lợi ích của cộng đồng, doanh nghiệp sẽ tiết giảm chi phí sản xuất dẫn đến lợi nhuận tăng. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp đưa CSR vào chiến lược và thực hiện chiến lược làm tăng hiệu quả hoạt động, danh tiếng, sự hài lòng của khách hàng với các sản phẩm của doanh nghiệp (Taneja và các cộng sự, 2011). Tương tự, việc thực hành CSR giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn thông qua kênh ngân hàng, phát hành cổ phiếu/trái phiếu… vì sự kì vọng doanh nghiệp sẽ tăng trưởng trong tương lai của nhà đầu tư (Barnett, 2012).

Theo quan điểm dựa trên nguồn lực, CSR cũng có thể giúp các ngân hàng phân biệt mình với các đối thủ cạnh tranh và nâng cao nhận thức của công chúng về hoạt động của họ; giữ gìn danh tiếng tốt và nâng cao lòng trung thành của khách hàng; tạo được niềm tin và các cơ hội kinh doanh (Jo, H., Kim, H. và Park, K, 2015). Tương tự, CSR cải thiện hiệu quả tài chính dài hạn, vị thế thị trường của ngân hàng, nâng cao nhận thức của công chúng và danh tiếng của ngân hàng (Buallay, 2021). Giả thuyết tác động xã hội bắt nguồn từ lí thuyết các bên liên quan và kì vọng rằng sự gia tăng mức độ CSR có liên quan chặt chẽ với sự gia tăng hiệu quả tài chính (Wu, 2017). Shen và các cộng sự (2016) chỉ ra rằng, các ngân hàng không thực hiện CSR hoạt động kém hơn so với các ngân hàng thực hiện CSR về khả năng sinh lời và hiệu quả trong bối cảnh phân tích dữ liệu từ các ngân hàng toàn cầu ở 18 quốc gia.

Dựa trên các lí thuyết trên, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết khía cạnh xã hội có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động.

H1b: Khía cạnh xã hội của ESG có tác động dương đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.

Khía cạnh quản trị và hiệu quả hoạt động

Sau khủng hoảng tài chính năm 2008, các nhà kinh tế và chính phủ các quốc gia đều nhận ra rằng, quản trị doanh nghiệp (đặc biệt đối với các ngân hàng) kém được coi là nguyên nhân chính tạo ra các cuộc khủng hoảng tài chính (Nollet, 2016). Vai trò của quản trị đã trở thành một vấn đề quan trọng và quá trình xây dựng cơ chế giám sát nhằm tăng cường hiệu quả quản trị, các quy định về công bố thông tin minh bạch được nhắc đến nhiều tại các diễn đàn kinh tế nhằm hướng đến sự phát triển bền vững.

Chất lượng quản trị là tác động tổng hợp của một tập hợp các yếu tố như đa dạng văn hóa và bình đẳng giới trong hội đồng quản trị, quy mô hội đồng quản trị, năng lực và chuyên môn của giám đốc, sự độc lập của giám đốc, kiêm nhiệm CEO - chủ tịch, thù lao điều hành và quản trị rủi ro. Do đó, các doanh nghiệp phải đổi mới mô hình kinh doanh, nhận thức lại cấu trúc chuỗi giá trị và suy nghĩ lại về cơ chế quản trị để cải thiện hiệu quả tài chính (Youssef, 2021; Centobelli, 2020). Dựa trên lí thuyết đại diện, các cơ chế quản trị doanh nghiệp mạnh sẽ có thể gắn kết các nhà quản lí và lợi ích của cổ đông (Elali, 2021). Các ngân hàng có những đặc thù riêng và các cơ quan quản lí đóng một vai trò quan trọng bằng cách gây áp lực lên các tổ chức ngân hàng để thực hiện các cơ cấu quản trị doanh nghiệp hiệu quả và an toàn (John, 2016) do tính phức tạp của hoạt động kinh doanh và quy định pháp lí chặt chẽ.

Một số nghiên cứu về tác động của chất lượng quản trị công ty đến hiệu quả tài chính trong lĩnh vực ngân hàng (Anginer, 2018; Buallay A, 2019; Aslam, 2020; Harkin, 2020; Nobanee, 2022) đã chứng minh rằng quản trị công ty tốt làm tăng hiệu quả tài chính và giảm các vấn đề về chi phí đại diện (Esteban-Sanchez, 2017; Orazalin, 2019). Các thông lệ quản trị cải thiện hiệu suất bằng cách nâng cao danh tiếng, tăng cường giám sát và giảm thiểu tình trạng quản lí yếu kém (Zehri, 2020). Các tài liệu trước đây cho rằng, danh tiếng tốt của ngân hàng dựa trên việc lập kế hoạch cẩn thận cho các quy trình kinh doanh, cơ cấu quản trị rõ ràng và hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả. Theo nghĩa này, lí thuyết đại diện dự đoán rằng các khuyến khích của ban quản lí và hội đồng quản trị đại diện cho một trong những đặc điểm quan trọng của quản trị doanh nghiệp để củng cố hiệu quả hoạt động (Harkin, 2020). Điều này sẽ góp phần tạo nên mối liên hệ tích cực giữa quản trị và hiệu quả hoạt động (Saona, 2016; Miras-Rodrı´guez, 2015).

Kết quả các nghiên cứu đã cung cấp cơ sở khoa học nhằm xây dựng giả thuyết khía cạnh quản trị có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động.

H1c: Khía cạnh quản trị của ESG có tác động dương đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.


R&D và hiệu quả hoạt động

Trên dòng xoáy đổi mới và phát triển nhanh chóng hiện nay, các doanh nghiệp trong đó có ngân hàng trên khắp thế giới bị xoáy vào vòng xoáy cạnh tranh khốc liệt nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh dựa trên những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, ngân hàng đầu tư vào R&D có thể gia tăng hiệu quả hoạt động (Xu và Sim, 2018; Jung và Kwak, 2018; Alam và cộng sự, 2020). R&D có tác động đáng kể đến hiệu hoạt động của doanh nghiệp, từ việc đầu tư cho phát triển sản phẩm mới tạo ra thị trường (C. A. Varum, 2009). Nghiên cứu của B. H. Hall, J. Mairesseb (2015) chỉ ra các doanh nghiệp có số lượng bằng sáng chế mới có doanh thu tăng trưởng vượt bậc so với các doanh nghiệp khác cùng ngành, hoạt động R&D có ảnh hưởng đến hướng sáng tạo của doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp sản xuất. Quá trình triển khai R&D giúp doanh nghiệp tích lũy kiến thức nhân loại, là tiền đề để xây dựng cải tiến quy trình hoạt động hiện tại. Các nỗ lực đầu tư vào R&D cho thể giúp cải thiện năng lực sản xuất, tạo ra lợi thế so với đối thủ cạnh tranh giúp tăng tỉ suất lợi nhuận, với góc nhìn rộng hơn R&D giúp chủ doanh nghiệp có thể dự đoán được nhu cầu trong tương lai của nhóm đối tượng khách hàng (K. Aiginger, 2001). R&D được xem làm một mô hình đầu tư vào tài sản vô hình, mang lại lợi nhuận kinh tế tích cực trong tương lai, tạo cơ hội giúp các doanh nghiệp phát triển lớn mạnh nhanh hơn với doanh thu và lợi nhuận cao hơn (Connolly, R. và Hirschey, M, 2005; Alam và cộng sự, 2020). Chi phí đầu tư cho hoạt động R&D là chìa khóa tạo ra cơ hội dẫn dắt doanh nghiệp tạo ra vị thế cạnh trạnh mới trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng thay đổi khốc liệt hơn trong trung và dài hạn (Alam và cộng sự, 2020). Với những cơ sở trên, nghiên cứu xây dựng giả thuyết về tương quan giữa R&D và hiệu quả hoạt động ngân hàng.

H2: R&D có tác động cùng chiều đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.

Mô hình nghiên cứu

Mô hình nghiên cứu trong bài được thể hiện dưới dạng phương trình:

BFi,t= β0 + β1*ESG_Ei,t + β2*ESG_Si,t + β3*ESG_Gi,t + β4*R&Di,t + β5*CARi,t + β6*SIZEi,t + β7*GDPt + β8*INFt + β9*DAi,t + β10*MCi,t + εi,t

(1) ROAi,t = β0 + β1*ESG_Ei,t + β2*ESG_Si,t + β3*ESG_Gi,t + β4*R&Di,t + β5*CARi,t + β6*SIZEi,t + β7*GDPt + β8*INFt+ β9*DAi,t + β10*MCi,t + εi,t


(2) ROEi,t = β0 + β1*ESG_Ei,t + β2*ESG_Si,t + β3*ESG_Gi,t + β4*R&Di,t + β5*CARi,t + β6*SIZEi,t + β7*GDPt + β8*INFt + β9*DAi,t + β10*MCi,t + εi,t

(3) TobinQi,t = β0 + β1*ESG_Ei,t + β2*ESG_Si,t + β3*ESG_Gi,t + β4*R&Di,t + β5*CARi,t + β6*SIZEi,t + β7*GDPt + β8*INFt + β9*DAi,t + β10*MCi,t + εi,t

Trong đó:

BFi,t - Biến phụ thuộc đại diện cho hiệu quả hoạt động ngân hàng bao gồm ROA, ROE, Tobin’ Q, được mô tả qua ba mô hình (1), (2), (3).

ESG_Ei,t - Biến đại diện cho khía cạnh môi trường của ESG.

ESG_Si,t - Biến đại diện cho khía cạnh xã hội của ESG.

ESG_Gi,t - Biến đại diện cho khía cạnh quản trị của ESG.

R&Di,t - Biến đại diện cho R&D.

CARi,t - Biến đại diện cho tỉ lệ an toàn vốn.

SIZEi,t - Biến đại diện cho quy mô tài sản của ngân hàng.

GDPt - Biến đại diện cho tốc độ tăng trưởng kinh tế.

INFt - Biến đại diện cho tỉ lệ lạm phát.

DAi,t - Biến đại diện cho tỉ lệ nợ trên tổng tài sản.

MCi,t - Biến đại diện cho vốn hóa thị trường của ngân hàng.

εi,t - Phần dư của mô hình hồi quy, sai số ngẫu nhiên.

3. Phương pháp nghiên cứu

Cơ sở dữ liệu

Khu vực Đông Nam Á có 10 quốc gia thành viên với hơn 1.300 ngân hàng hoạt động (World Bank, 2022), trong đó những ngân hàng đi đầu trong mảng tài chính xanh, ngân hàng xanh, có báo cáo phát triển bền vững và được các tổ chức thế giới như Refinitiv, MSCI, Sustainalytics, S&P Global Inc xếp hạng ESG trong giai đoạn từ 2008 - 2022 rất hạn chế.

Ngân hàng ở các quốc gia có lộ trình triển khai chiến lược phát triển bền vững, ngân hàng xanh khác nhau, kết quả đạt được ở những mức xếp hạng khác nhau. Bên cạnh đó, có các ngân hàng đã thực hiện chiến lược phát triển bền vững nhưng chưa được xếp hạng ESG. Dựa trên báo cáo điểm xếp hạng ESG của các ngân hàng ở khu vực Đông Nam Á, chỉ có 26 ngân hàng ở 06 quốc gia có dữ liệu xếp hạng ESG đầy đủ trong giai đoạn 2008 - 2022 để xây dựng dữ liệu nghiên cứu. Nghiên cứu vì thực hiện trên dữ liệu thu thập ở 26 ngân hàng tại 06 quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, có điểm xếp hạng ESG liên tục trong giai đoạn 2008 - 2022 (đây là khoảng thời gian mà các ngân hàng thực hiện công bố hệ số an toàn vốn (CAR) và báo cáo phát triển bền vững). Ngoài ra, tính đến ngày 22/3/2024, số liệu ESG của các doanh nghiệp chỉ mới được cập nhật đến hết năm 2022.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phần mềm Stata 17.0 nhằm tổng hợp và kiểm điểm sự phù hợp của mô hình nghiên cứu thông qua đánh giá kết quả của các hệ số hồi quy. Với cơ sở dữ liệu bảng, nhóm tác giả tiến hành lựa chọn mô hình phù hợp FEM hoặc REM. Mô hình ước lượng GLS được sử dụng nhằm kiểm định các khuyết tật của mô hình với giả định phương sai thay đổi, phân tích sự tương quan, kiểm định đa cộng tuyến. Mô hình nghiên cứu sau khi xử lí các khuyết tật được sử dụng mô hình hồi quy thích hợp nhằm kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu.

4. Kết quả nghiên cứu

Bảng 1: Kết quả hồi quy FGLS

(*,**,***: Có ý nghĩa thống kê tương ứng ở mức 10%, 5% và 1%)

Nguồn: Kết quả thống kê từ dữ liệu thu thập


Kết quả Bảng 1 cho thấy, R&D có tác động dương đến hiệu quả hoạt động ngân hàng, cụ thể, hệ số hồi quy của R&D đối với ROA là 0,016 (ở mức ý nghĩa 0,01), đối với ROE là 0,1497 (ở mức ý nghĩa 0,01) và đối với Tobin’Q là 0,0006 (ở mức ý nghĩa 0,05). Kết quả là bằng chứng thực nghiệm khi ngân hàng tăng chi phí đầu tư cho R&D, các nhà đầu tư đánh giá ngân hàng có tiềm năng phát triển trong tương lai, khi đó giá trị cổ phiếu trên thị trường sẽ tăng, ngân hàng có thể huy động vốn từ thị trường bằng cách phát hành thêm cổ phiếu hoặc trái phiếu, tận dụng nguồn vốn này tài trợ cho hoạt động R&D. Kết quả này cũng được giải thích bởi lí thuyết vòng đời sản phẩm, vì khi doanh nghiệp tăng chí phí đầu tư cho hoạt động R&D hướng đến cải tiến quy trình vận hành nhằm nâng cao năng suất tổng thể của bộ máy ngân hàng, đổi mới/cải tiến sản phẩm và dịch vụ hiện tại là một xu hướng mà các ngân hàng đang triển khai trong thời đại CMCN 4.0. Bên cạnh xu thế về sản phẩm thân thiện với môi trường ngày càng được quan tâm hơn, người tiêu dùng sẽ dần thay thế các sản phẩm có tác động xấu đến môi trường, từ đó ngân hàng sẽ gia tăng hiệu quả hoạt động.

Khía cạnh môi trường có tác động dương đến hiệu quả hoạt động ngân hàng, khi hệ số hồi quy của ESG_E đối với ROA là 0,004 (ở mức ý nghĩa 0,01), đối với ROE là 0,0439 (ở mức ý nghĩa 0,01) và đối với Tobin’ Q là 0,0003 (ở mức ý nghĩa 0,1); khía cạnh quản trị cũng có tác động dương đến hiệu quả hoạt động ngân hàng, cụ thể, hệ số hồi quy của ESG_G đối với ROA là 0,0042 (ở mức ý nghĩa 0,01), đối với ROE là 0,0181 (ở mức ý nghĩa 0,1) và đối với Tobin’ Q là 0,0004 (ở mức ý nghĩa 0,05); khía cạnh xã hội của ESG có tương quan âm đến hiệu quả hoạt động ngân hàng, khi hệ số hồi quy của ESG_S đối với ROA là -0,0033 (ở mức ý nghĩa 0,05), đối với ROE là -0,0454 (ở mức ý nghĩa 0,01) và đối với Tobin’ Q là -0,0003 (ở mức ý nghĩa 0,1). Kết quả là bằng chứng thực nghiệm cho việc các ngân hàng quan tâm đến điểm số môi trường, quản trị và tập trung tăng chí phí đầu tư vào các hoạt động hướng tới mục tiêu thân thiện với môi trường, quản trị điều hành sẽ có ảnh hưởng lớn đến giúp tăng hiệu quả hoạt động. Kết quả này giải thích rằng, các ngân hàng thực hiện chính sách môi trường, mô hình quản trị tốt, phù hợp, kết hợp với công bố thông tin và truyền thông sẽ giúp các nhà đầu tư có cái nhìn tiềm năng về ngân hàng; khi đó giá trị cổ phiếu sẽ được định giá cao và hệ số Tobin’s Q, ROA và ROE sẽ tăng.

Ở khía cạnh xã hội nghiên cứu xây dựng giả thuyết về đầu tư vào khía cạnh này từ việc gia tăng đào tạo thực hành CSR cho nhân viên, quyền con người, trách nhiệm của sản phẩm hướng đến lợi ích cộng đồng có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động, nhưng kết quả kiểm định lại cho kết quả ngược kì vọng ban đầu. Kết quả nghiên cứu được giải thích bởi đặc điểm các ngân hàng ở Đông Nam Á đang trong giai đoạn đầu thực hành tiêu chuẩn về ESG, trong đó có khía cạnh xã hội. Theo các nghiên cứu trước trong giai đoạn đầu thực hiện các chính sách CSR sẽ gây ra hiệu quả hoạt động giảm do chí phí đổi mới tăng, hiệu quả chưa mang lại ngay trong ngắn hạn, nhưng trong trung và dài hạn các chính sách CSR tạo ra những đặc điểm đặc trưng của doanh nghiệp và mang lại hiệu quả tài chính bền vững (Waddock, 2000).

5. Hàm ý chính sách

Về chiến lược ESG


ESG có ý nghĩa kinh tế quan trọng và tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của một ngân hàng, cụ thể:

Thứ nhất, tăng giá trị thương hiệu. Một chiến lược ESG hiệu quả giúp xây dựng và tăng giá trị thương hiệu của ngân hàng. Khách hàng ngày càng quan tâm đến các vấn đề xã hội và môi trường, họ thường ưu tiên lựa chọn sản phẩm và dịch vụ từ các ngân hàng có cam kết với ESG, điều này tạo ra lợi thế cạnh tranh và tăng khả năng thu hút, giữ chân khách hàng.

Thứ hai, tăng cường quan hệ với nhà đầu tư. Nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến các yếu tố ESG khi đánh giá tiềm năng đầu tư. Ngân hàng có chiến lược ESG mạnh mẽ có thể thu hút được sự quan tâm và đầu tư từ các nhà đầu tư có ý thức về trách nhiệm xã hội và môi trường, điều này giúp tăng cường nguồn vốn và cải thiện khả năng phát triển của ngân hàng.

Thứ ba, giảm rủi ro và chi phí.Một ngân hàng quản lí ESG tốt sẽ giảm rủi ro và chi phí hoạt động. Việc đầu tư vào công nghệ xanh và tiết kiệm năng lượng có thể giảm chi phí hoạt động và tăng tính bền vững của ngân hàng. Ngoài ra, tuân thủ các quy định và chuẩn mực ESG cũng giúp ngân hàng tránh các rủi ro pháp lí và hình phạt, từ đó bảo vệ danh tiếng và tài sản của ngân hàng.

Thứ tư, tạo ra cơ hội kinh doanh mới. Môi trường xã hội là môi trường thay đổi liên tục, các vấn đề như biến đổi khí hậu và bền vững đang trở thành ưu tiên hàng đầu. Ngân hàng có chiến lược ESG tốt có thể tận dụng các cơ hội kinh doanh mới trong cho vay hoặc huy động vốn với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, quản lí chất thải và sản phẩm xanh, từ đó mở rộng thị trường và tạo ra nguồn thu nhập mới.

Thứ năm, tăng cường quan hệ với cộng đồng. Một ngân hàng có cam kết với ESG tốt có thể tạo ra mối quan hệ tốt với cộng đồng, điều này giúp tạo dựng lòng tin và ủng hộ từ phía cộng đồng, từ đó tạo ra môi trường kinh doanh ổn định và tăng khả năng phát triển của ngân hàng.

Về chiến lược R&D

R&D có ý nghĩa kinh tế quan trọng và tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cụ thể:

Thứ nhất, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới. R&D giúp ngân hàng phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh mới và mở rộng thị trường. Sản phẩm và dịch vụ mới có thể mang lại lợi nhuận cao và tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường.

Thứ hai, nâng cao chất lượng sản phẩm. R&D giúp ngân hàng nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến để cải thiện chất lượng sản phẩm. Điều này giúp tăng độ tin cậy và uy tín của ngân hàng trong mắt khách hàng, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh và tăng doanh số bán hàng.

Thứ ba, tối ưu hóa quy trình sản xuất. R&D cung cấp cơ hội để phát triển các chiến lược kinh doanh mới, hiệu quả hơn và tiết kiệm chi phí. Chiến lược kinh doanh tối ưu hóa giúp ngân hàng tiết kiệm thời gian, nguồn lực và giảm thiểu lãng phí, từ đó cải thiện hiệu suất hoạt động và tăng khả năng cạnh tranh.

Thứ tư, tạo ra công nghệ mới. R&D đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra công nghệ mới và đột phá. Công nghệ mới có thể mang lại những tiến bộ đáng kể và tạo ra những cơ hội kinh doanh mới. Điều này giúp ngân hàng tiếp tục phát triển và thích ứng với sự thay đổi của thị trường.

Thứ năm, tăng cường sức mạnh cạnh tranh. R&D giúp ngân hàng tiếp cận và áp dụng những công nghệ tiên tiến, từ đó tạo ra lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh. Điều này có thể dẫn đến tăng trưởng doanh số, tăng lợi nhuận và tạo ra giá trị cho cổ đông.

Thứ sáu, khuyến khích sáng tạo và đổi mới. R&D tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích sáng tạo và đổi mới. Việc tạo ra môi trường R&D sẽ thúc đẩy nhân viên tìm kiếm ý tưởng mới, đưa ra giải pháp sáng tạo và thúc đẩy sự đổi mới trong các quy trình và sản phẩm của ngân hàng.

Nghiên cứu mặc dù cung cấp được bằng chứng thực nghiệm cho ngân hàng trong các quyết định đầu tư cho R&D và ESG. Tuy nhiên, do dữ liệu nghiên cứu được thu thập trong giai đoạn 2008 - 2022, giai đoạn bao gồm khi khủng hoảng kinh tế xảy ra năm 2008 và giai đoạn ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 trong các năm 2020 - 2021, hoạt động của các ngân hàng bị ảnh hưởng, khi đó chi phí đầu tư cho R&D, chi phí cho chiến lược ESG có thể bị cắt giảm như một lựa chọn thích ứng tạm thời, từ đó có tác động nhiễu đến các quan sát trên mô hình. Các nghiên cứu tiếp theo có thể nghiên cứu ở khu vực có cơ sở dữ liệu trong giai đoạn dài để có thể xác định tác động của các trạng thái nhiễu trong giai đoạn bất ổn kinh tế như khủng hoảng kinh tế, cũng như dịch Covid-19 có tác động như thế nào đến tương quan các biến nghiên cứu. Ngoài ra, các nghiên cứu tiếp theo có thể tiến hành thu thập chi tiết thêm những biến cấu thành nên ESG (gồm sử dụng tài nguyên, phát thải, sự đổi mới, lực lượng lao động, quyền con người, trách nhiệm sản phẩm, cấu trúc quản lí, cổ đông…) nhằm mở rộng và phản ánh đầy đủ hơn các nhân tố của ESG đến hiệu quả hoạt động.

Tài liệu tham khảo:

1. Huân, N. H., (2014). Xây dựng ngân hàng xanh tại Việt Nam. Tạp chí Kinh tế phát triển và hội nhập.

2. Ngọc, N. T. Á., (2023). Tín dụng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị. Tạp chí Ngân hàng.

3. Almeyda Raisa, Darmansya Asep, (2019). The Influence of Environmental, Social, and Governance (ESG) Disclosure on Firm Financial Performance. Journal of Proceedings Series.

4. Andreas Lars, (2004). How can R&D Strategy be Shaped, Integrated and Monitored to Support Corporate Strategy? A Theoretical Framework.

5. Anginer, D. D.-K. A. H. H. a. M. K., (2018). Corporate governance of banks and financial stability. Journal of Financial Economics.

6. Aslam, E. a. H. R., (2020). Does corporate governance affect the performance of Islamic banks? New insight into Islamic countries. Corporate Governance: The International Journal of Business in Society.

7. Azmi W., Hassan M.K., Houston R., Karim M.S, (2021). ESG activities and banking performance: International evidence from emerging economies. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money.

8. B. H. Hall, J. Mairesseb, (2015). Exploring the Relationship between R&D and Productivity in French Manufacturing Firms. Journal of Econometrics, Volume 65, pages 263-293.

9. Baskaran Maheswaran, Mysoon Al-Ansari, Latifah Al-Humaid, Joseph Sebastin Raj, Woong Kim, Natchimuthu Karmegam, Kasim Mohamed Rafi, (2023). In vivo degradation of polyethylene terephthalate using microbial isolates from plastic polluted environment. Chemosphere, p. Volume 310.

10. Bénabou R., Tirole J, (2010). Inpidual and corporate social responsibility. Economica.

11. Brainard William, C. & Tobin, J., (1968). Pitfalls in Financial Model Building. American Economic Review, Volume 58 (2): pages 99-122. JSTOR 1831802.

12. Buallay A, (2019). Is sustainability reporting (ESG) associated with performance? Evidence from the European banking sector. Management of Environmental Quality.

13. Buallay, A. F. S. A. J. a. S. S., (2021). Sustainability reporting and bank performance after financial crisis: evidence from developed and developing countries. Competitiveness Review: An International Business Journal.

14. Buallay, A. K. G. A. E. A. M. M. a. H. A., (2020). Corporate social responsibility disclosure and firms’ performance in Mediterranean countries: a stakeholders’s perspective. EuroMed Journal of Business,.

15. Bukhari, S. A. A. H. F. &. A. A., (2020). Green Banking: A road map for adoption. International Journal of Ethics and Systems, 36(3), pages 371-385.

16. Carroll, A., (1979). A three-dimensional conceptual model of corporate performance. Academy of Management Review.

17. Centobelli, P. C. R. C. D. D. V. P. a. U. A., (2020). Designing business models in circular economy: a systematic literature review and research agenda. Business Strategy and the Environment.

18. Chang, Q. and Devine, A., (2019). Environmentally-certified space and retail revenues: a study of US bank branches. Journal of Cleaner Production.

19. Elali, W., (2021). The importance of strategic agility to business survival during corona crisis and beyond. International Journal of Business Ethics and Governance.

20. Elisa Menicucci, Guido Paolucci, (2023). ESG dimensions and bank performance:. Emerald Publishing Limited.

21. Finger, M., Gavious, I. and Manos, R., (2018). Environmental risk management and financial performance in the banking industry: A cross-country comparison. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money.

22. Foray, D., & Van Ark, B, (2007). Smart specialisation in a truly integrated research area is the key to attracting more R&D to Europe. Knowledge economists policy brief.

23. Gangi, F. M. A. D. E. a. D. L., (2019). Sustainable development and corporate governance in the financial system: are environmentally friendly banks less risky?. Corporate Social Responsibility and Environmental Management,.

24. Giraudet, L.-G. P. A. &. F. L., (2021). Diferentiated green loans. Energy Policy, 149, p. 111861.

25. Glossner S, (2021). Repeat offenders: ESG incident recipism and investor underreaction. SSRN Electronic Journal.

26. Harkin, S. M. D. a. C. J., (2020). Independence in bank governance structure: Empirical evidence of effects on bank risk and performance. Research in International Business and Finance.

27. Hu, Z.; Li, J.; Wang, H.; Ye, Z.; Wang, X.; Li, Y.; Liu, D.; Song, Z., (2019). Soil contamination with heavy metals and its impact on food. J. Geosci. Environ. Prot.

28. Huang, L. &. F. J., (2018). Lending a hand: Perceptions of green credit cards. International Journal of Bank Marketing, 36(7), pages 1329-134.

29. J. Rezaei, R. Ortt, (2018). Entrepreneurial Orientation and Firm Performance: The Mediating Role of Functional Performances. Management Research Review, Volume 41, pages 878-899.

30. Khan, I. U. H. Z. K. S. N. K. S. U. &. K. M. T., (2021). Exploring the efects of culture. Journal of Internet Commerce, pp. 21, pages 183-216.

31. Konak, F, and Kendirli, S, (2014). Impact of R&D Expenses on Firm Performance: Empirical Evidence fromthe BIST Information Technology Index. International Journal of Education and Research.

32. KTK, W., (2017). A Literature Review on Environmental, Social and Governance Reporting and It’s Impact on Financial Performance. Austin J Bus Adm Manage.

33. Lei Huang, Xuanjie Huang, Jia Yan, Yonghui Liu, Hao Jiang, Hongguo Zhang, Jinfeng Tang, Qiang Liu, (2023). Research progresses on the application of perovskite in adsorption and photocatalytic removal of water pollutants. Journal of Hazardous Materials, 15 January.p. Volume 442.

34. Majumdar, S. a. M. A., (2001). Rules versus discretion: The productivity consequences of flexible regulation. Academy of Management Journal, Academy of Management.

35. Managi, Y. &., (2021). Disclosure or action: Evaluating ESG behavior towrads financial performance, Finance Research Letter. 102108.

36. Maria Teresa Medeiros Garcia, João Pedro Silva Martins Guerreiro, (2016). Internal and external determinants of banks’ profitability: The Portuguese case. Journal of Economic Studies.

37. MSCI ESG Research LLC , (2023). MSCI ESG Controversies and Global Norms Methodology.

38. Nizam, E. N. A. D. G. N. R. a. N. M., (2019). The impact of social and environmental sustainability on financial performance: a global analysis of the banking sector. Journal of Multinational Financial Management.

39. Nobanee, H. a. E. N., (2022). Voluntary corporate governance disclosure and bank performance: evidence from an emerging market. Corporate Governance: The International Journal of Business in Society.

40. Orazalin, N. a. M. M., (2019). The financial crisis as a wake-up call: corporate governance and bank performance in an emerging economy. Corporate Governance: The International Journal of Business in Society.

41. Park, H. &. K. J. D., (2020). Transition towards green banking: Role of fnancial regulators and fnancial. Asian Journal of Sustainability and Social Responsibility, pp. 5(1), pages 1-25.

42. Refinitive, (2022). Environmental, Social and Governance Scores from Refinitiv.

43. Refinitive, (2022). Refinitiv Esg Scores. https://www.refinitiv.cn/content/dam/marketing/en_us/documents/fact-sheets/esg-scores-fact-sheet.pdf

44. Shukuraliyev Zikirillo, & I. M.Ataboyev, (2023). Air Pollution And Control Engineering And Technology. Proceedings of International Conference on Modern Science and Scientific Studies, 2(5), pages 155-159.

45. Siueia, T. W. J. a. D. T., (2019). Corporate social responsibility and financial performance: a comparative study in the Sub-Saharan Africa banking sector. Journal of Cleaner Production,.

46. Taoyong Su, L. M. K. W. J. W., July (2023). The role of green credit in carbon neutrality: Evidence from the breakthrough technological innovation of renewable energy firms. Environmental Impact Assessment Review, p. Volume 101.

47. Ullmann, A., (1985). Data in Search of a Theory: A Critical Examination of the Relationship’s among Social Performance, Social Disclosure and Economic Performance of US Firms. Academy of Management Review, pp. 10, pages 540-557.

48. Waddock, S. G. S., (2000). Beyond built to last... stakeholder relations in ‘built to last’ companies. Business and Society Review.

49. Wajahat Azmi, M. K. H. R. H. M. S. K., (2021). Journal of International Financial. ScienceDirect.

50. Wang, Q., & Zhang, F., (2021). The efects of trade openness on decoupling carbon emissions from economic growth-evidence from 182 countries. Journal of Cleaner Production, 279(January), p. 123838.

51. Wei Gao, Z. L., (2023). Green credit and corporate ESG performance: Evidence from China. Finance Research Letters, pp. Volume 55, Part B.

52. Wu, M.-W. a. S. C., (2017). Application of multi-level matching between financial performance and corporate social responsibility in the banking industry. Review of Quantitative Finance and Accounting.

53. Youssef, J. a. D. S., (2021). Does quality of governance contribute to the heterogeneity in happiness levels across MENA countries?. Journal of Business and Socio-Economic Developmen.

54. Zehri, F. a. Z. I., (2020). Internal and external corporate governance mechanisms and earnings management: an international perspective. Accounting and Management Information Systems.


TS. Hoàng Hải Yến (Khoa Ngân hàng - Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh)

ThS. Hồ Quốc Thái (Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Tây Sài Gòn)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Nghiên cứu này đã phân tích mối quan hệ giữa áp dụng ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2017 - 2024. Kết quả cho thấy hiệu quả ESG tổng thể có mối liên hệ tích cực mạnh mẽ và ngày càng tăng cường với hiệu quả tài chính. Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa ESG và hiệu quả tài chính gia tăng đáng kể theo thời gian, với bước ngoặt rõ rệt trong giai đoạn 2022 - 2024. Những phát hiện này đóng góp quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu về ngân hàng bền vững tại các thị trường mới nổi Đông Nam Á và đưa ra những hàm ý thực tiễn có giá trị cho các bên liên quan trong ngành Ngân hàng Việt Nam. Khi Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào hệ thống tài chính toàn cầu và cam kết đạt Net Zero vào năm 2050, tầm quan trọng của các thực hành tài chính bền vững dự kiến sẽ ngày càng gia tăng mạnh mẽ.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Quản lý rủi ro thẻ tín dụng -  Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng - Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Thẻ tín dụng ngày càng phổ biến khiến các ngân hàng thương mại đối mặt với rủi ro nợ xấu và kiểm soát chi tiêu. Bài viết phân tích kinh nghiệm quốc tế để rút ra bài học giúp NHTM Việt Nam xây dựng chính sách tín dụng an toàn và ứng dụng công nghệ kiểm soát rủi ro hiệu quả.
Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Tín dụng xanh là một trong những trụ cột quan trọng của hệ thống tài chính xanh. Thời gian qua, Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đang thúc đẩy phát triển tín dụng xanh. Tuy được ghi nhận có sự tăng trưởng đều qua các năm nhưng số lượng lĩnh vực đầu tư xanh cũng như tỉ trọng còn hạn chế. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan, cần có nghiên cứu chuyên sâu về phát triển tín dụng xanh tại Việt Nam.
Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Mục đích của nghiên cứu là cung cấp cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 78 doanh nghiệp trong giai đoạn 2019 - 2023. Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính trên phần mềm Stata 17, kết quả cho thấy các yếu tố như kiểm soát nội bộ, khả năng sinh lời, vốn trí tuệ, đòn bẩy tài chính và chất lượng kiểm toán độc lập có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp này, từ đó nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị cụ thể giúp các doanh nghiệp nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý thông tin tài chính, đồng thời, cung cấp góc nhìn hữu ích dành cho các nhà đầu tư, giúp họ có cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Phân tích báo cáo tài chính cung cấp thông tin rõ ràng về tình hình tài chính, vốn và công nợ của doanh nghiệp, giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định điều hành và đầu tư chính xác. Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các chỉ số tài chính của nhóm doanh nghiệp có nguy cơ phá sản và nhóm doanh nghiệp không có nguy cơ phá sản. Các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản thường có chỉ số tài chính không ổn định (quá cao hoặc quá thấp) so với các doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Những năm gần đây, với sự chuyển đổi số mạnh mẽ và sự phát triển không ngừng của các công nghệ tiên tiến, việc đo lường mức độ chấp nhận và sử dụng công nghệ mới của người dùng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sự sẵn sàng áp dụng công nghệ của một cá nhân sẽ phản ánh khuynh hướng chấp nhận công nghệ của họ trong các hoạt động thường ngày. Để đánh giá chính xác xu hướng này, Chỉ số sẵn sàng công nghệ đã trở thành một công cụ hữu ích, giúp đo lường tâm lý, thái độ và hành vi của người dùng đối với các ứng dụng công nghệ. Từ đó, doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về mức độ sẵn sàng áp dụng công nghệ của các đối tượng mục tiêu, cũng như dự báo xu hướng phát triển của thị trường.
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Để đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng, nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng kết hợp với định tính. Quy trình nghiên cứu được thực hiện theo các bước: Thống kê mô tả, đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy tuyến tính bội và kiểm định giả thuyết. Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc gửi phiếu khảo sát dưới hình thức online đến sinh viên các trường đại học.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng