Tác động của Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới đến mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam và một số kiến nghị

Chính sách
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, trong đó, nổi bật là việc đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia trên thế giới cùng sự tích cực khi tham gia vào các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
aa

Tóm tắt: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, trong đó, nổi bật là việc đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia trên thế giới cùng sự tích cực khi tham gia vào các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Các hiệp định này đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế của nước ta, thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo ra một môi trường giao thương buôn bán năng động cũng như thu hút đầu tư nước ngoài. Ngoài tác động về mặt kinh tế, hàng loạt các lĩnh vực có sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật cũng chịu sự tác động, trong đó, có lĩnh vực pháp luật về kinh tế tập thể. Từ đó, việc hoàn thiện pháp luật về kinh tế tập thể đã được đặt ra nhằm hướng đến sự phù hợp và tương thích trong quy định của các hiệp định. Xuất phát từ nhu cầu này, bài viết phân tích những tác động của FTA thế hệ mới đến pháp luật về kinh tế tập thể, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị.

Từ khóa: Kinh tế tập thể, hợp tác xã, FTA thế hệ mới.

IMPACT OF THE NEW GENERATION FREE TRADE AGREEMENTS ON THE COLLECTIVE ECONOMY IN VIETNAM AND RECOMMENDATIONS

Abstract: In the context of deepening international integration, Vietnam has got many important achievements in economic development, notably promoting cooperation with countries around the world and actively participating in new-generation free trade agreements. These agreements have strongly impacted our country’s economy, promoted and expanded export markets, created a dynamic trading environment as well as attracted foreign investment. In addition to the economic impact, a series of areas governed by the legal system are also affected, including the legal field of collective economy. Since then, the improvement of the law on the collective economy has been set towards the conformity and compatibility in the provisions of the agreements. Stemming from this need, the article analyzes the impacts of the new generation free trade agreement on the law on the collective economy, thereby, offering some proposals.

Keywords: Collective economy, cooperatives, new generation free trade agreements.

1. Đặt vấn đề

Thuật ngữ FTA thế hệ mới sử dụng để chỉ các FTA với những cam kết sâu, rộng, toàn diện hơn các FTA thương mại truyền thống1. Việt Nam nhận định rằng mục tiêu chính khi gia nhập các FTA nói chung và FTA thế hệ mới nói riêng là giảm bớt các rào cản đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước và nâng cao vị trí, quyền lợi của Việt Nam đối với các đối tác FTA2. Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu đề ra, Việt Nam cần phải có sự điều chỉnh định hướng phát triển các chính sách và cả hệ thống pháp luật để phù hợp cho việc hội nhập các chính sách của các FTA đã kí kết. Việc điều chỉnh, thay đổi đó bao gồm cả pháp luật về kinh tế tập thể, hợp tác xã. Bởi lẽ, thành phần kinh tế tập thể hay các hợp tác xã là một trong những yếu tố chính đóng góp lượng sản phẩm, hàng hóa rất lớn cho hoạt động xuất khẩu của quốc gia.

2. Đặc trưng, xu hướng phát triển và tác động của các FTA thế hệ mới đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã Việt Nam

2.1. Đặc trưng của các FTA thế hệ mới

FTA thế hệ mới được đánh giá là đã mở rộng hơn và tác động đến thể chế, chính sách pháp luật của quốc gia ở phạm vi lớn hơn các FTA truyền thống với mức độ cam kết sâu hơn, bao hàm những yêu cầu thực thi cao hơn. Nhìn chung, các FTA thế hệ mới sẽ mang những đặc trưng của FTA truyền thống bên cạnh những đặc trưng riêng biệt. Các đặc trưng của các FTA thế hệ mới bao gồm:

Thứ nhất, phạm vi cam kết của các FTA thế hệ mới. Có thể đánh giá rằng, các FTA thế hệ mới có phạm vi cam kết rộng, gồm gần như toàn bộ hàng hóa và dịch vụ mà không có sự loại trừ. Nghĩa là, các FTA thế hệ mới là các hiệp định mang tính toàn diện, không có sự bó hẹp trong các lĩnh vực như các FTA truyền thống. Nếu trước đây, các FTA truyền thống thường có nội dung quy định về việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, danh mục hàng hóa được cắt giảm thuế quan và lộ trình cắt giảm thuế quan, các hoạt động giao dịch chủ yếu dựa trên hàng hóa hữu hình, thì các FTA thế hệ mới có đối tượng là ngoài các hoạt động giao dịch còn bao gồm sản phẩm, dịch vụ hàng hóa phi vật thể; nội dung kí kết đa dạng liên quan đến thương mại như đấu thầu, sở hữu trí tuệ, môi trường, cạnh tranh… Mục đích là tạo ra môi trường kinh doanh cạnh tranh công bằng, lành mạnh cho các quốc gia thành viên của FTA thế hệ mới.

Thứ hai, mức độ cam kết sâu về tự do hóa thương mại. Các cam kết về thuế xuất, nhập khẩu thường là nội dung quan trọng và được các bên thành viên tham gia vào FTA tập trung đàm phán. Thông thường, các bên đàm phán việc xóa bỏ hàng rào thuế quan thương mại, nghĩa là khi các bên chấp nhận tham gia FTA thế hệ mới cần điều chỉnh các chính sách, quy định về thuế quan nhằm tạo điều kiện cho hàng hóa tự do luân chuyển trong phạm vi các quốc gia thành viên của FTA đó3.

Thứ ba, cơ chế giám sát và thực thi của các FTA thế hệ mới cao hơn, chặt chẽ hơn. Các FTA thế hệ mới hiện nay thường có các quy định cho phép các bên tạm ngừng thực hiện hoạt động nhập khẩu, ưu đãi thuế quan nếu phát hiện có sự gian lận trong xuất xứ hoặc quốc gia xuất khẩu không hợp tác trong việc truy xuất nguồn gốc của sản phẩm xuất khẩu. Điều này đòi hỏi các quốc gia thành viên của FTA thế hệ mới cần phải có các quy định để các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có hàng hóa xuất khẩu phải chuẩn bị kĩ lưỡng, minh bạch, rõ ràng.

2.2. Xu hướng phát triển của kinh tế tập thể, hợp tác xã dưới sự tác động của các FTA thế hệ mới

Thứ nhất, thành phần kinh tế tập thể, hợp tác xã sẽ tiếp tục phát triển nhanh và mạnh, liên tục củng cố, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Trong thời gian qua, số lượng của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tại Việt Nam không ngừng tăng về số lượng, các loại hình, lĩnh vực hoạt động cũng ngày càng đa dạng hơn nhưng chủ yếu là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, các hợp tác xã ngày càng ứng dụng các công nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh của địa phương, của vùng miền, do đó, sản phẩm sản xuất ra có khả năng truy xuất nguồn gốc, giá trị thương hiệu tăng. Ngoài ra, các hợp tác xã ngày càng có xu hướng liên kết lại với nhau để cùng thực hiện những chuỗi sản xuất, giảm bớt các khâu trung gian.

Thứ hai, các hợp tác xã từng bước hội nhập quốc tế và tận dụng tốt hơn những ưu đãi mà FTA thế hệ mới mang lại nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Cho đến hiện tại, các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã và đang tích cực tham gia trồng trọt để xuất khẩu nông sản hay sản phẩm OCOP (mỗi xã một sản phẩm) cùng một số mặt hàng chất lượng cao khác. Các sản phẩm của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mang chất lượng được cải thiện ngày càng tốt hơn, dần đáp ứng được những yêu cầu, điều kiện của các thị trường khác nhau, kể cả các thị trường khó tính trên thế giới. Chính vì vậy, sẽ ngày càng nhiều hợp tác xã Việt Nam đáp ứng điều kiện và có thể xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế.

Thứ ba, các hợp tác xã sẽ có xu hướng gia tăng chất lượng thay vì số lượng, tăng quy mô và phát huy lợi thế về quy mô để tăng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế. Củng cố và phát triển hợp tác xã có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần xây dựng khu vực kinh tế tập thể, nâng cao vị thế của kinh tế tập trung trên thị trường trong nước và quốc tế. Kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam đã hình thành và phát triển gần 70 năm, trải qua các thời kì phát triển, đến giai đoạn 2002 - 2021, kinh tế tập thể, hợp tác xã đã có bước phát triển vượt bậc về số lượng và hiệu quả hoạt động, đáp ứng được các giá trị, nguyên tắc hoạt động và vai trò của mình để phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa4.

Thứ tư, hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường năng lực cạnh tranh của các hợp tác xã trên thị trường quốc tế. Trong tương lai, các hoạt động hợp tác quốc tế sẽ được Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Liên minh Hợp tác xã các tỉnh, thành phố chú trọng tổ chức, thực hiện để nâng cao năng lực cho các hợp tác xã, hệ thống liên minh hợp tác xã các cấp; thúc đẩy các hoạt động kinh tế, sản xuất, kinh doanh, xây dựng và phát triển các mô hình hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, liên hiệp hợp tác xã chăn nuôi; hỗ trợ các nhóm yếu thế… Ngoài ra, để có thể thực hiện tốt các hoạt động nêu trên, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã chú trọng phát triển quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế như Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các tổ chức thành viên của Liên hợp quốc như: Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB); các tổ chức hợp tác phát triển của các quốc gia khác như Hà Lan, Đức, Nhật Bản… để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm5.

Thứ năm, các quốc gia sẽ có những chính sách thông qua việc tận dụng mô hình liên minh hợp tác xã, hợp tác xã để trợ cấp, hỗ trợ cho người lao động nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc quy định tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các FTA thế hệ mới. Khi gia nhập vào các FTA thế hệ mới, các quốc gia thành viên cần tuân thủ nghiêm các nguyên tắc liên quan đến vấn đề cấm trợ giá hàng xuất khẩu nên sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho các đơn vị hợp tác xã xuất khẩu, nhất là các hợp tác xã nông nghiệp. Tuy nhiên, trong tương lai, Việt Nam sẽ học hỏi cách hỗ trợ gián tiếp của các quốc gia tiến bộ trên thế giới như hỗ trợ đào tạo, đầu tư máy móc, trang thiết bị hay các chính sách về ưu đãi thuế…

3. Tác động của các FTA thế hệ mới đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã tại Việt Nam

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh thị trường gay gắt như hiện nay, kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã cùng các thành phần kinh tế khác đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia hội nhập ngày càng sâu, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới bằng các FTA mà Việt Nam là thành viên. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã tham gia kí kết và là thành viên của một số FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA), FTA Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA), FTA Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á Âu (VN - EAEU FTA)6… Các FTA này mang lại những cơ hội, tạo đà tăng trưởng, nâng cao hiệu quả hoạt động cho nền kinh tế Việt Nam và thành phần kinh tế tập thể, bên cạnh đó cũng đem đến những khó khăn, thách thức buộc Việt Nam phải đối mặt và đưa ra các giải pháp để khắc phục.

Bàn về những cơ hội mà các FTA thế hệ mới mang lại cho khu vực kinh tế tập thể và hợp tác xã, đầu tiên phải kể đến rằng, khi Việt Nam là thành viên của các FTA thế hệ mới thì nước ta có thể mở rộng và tiếp cận với các thị trường rộng lớn hơn ra khu vực và toàn thế giới. Việc tham gia vào các FTA nói chung và các FTA thế hệ mới nói riêng, khi các hiệp định này có hiệu lực, các rào cản thuế quan và thương mại giữa các nước với Việt Nam được giảm và rút ngắn, tạo nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam gia nhập vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, từ đó có thể mở rộng thị trường ra quốc tế. Đơn cử như EVFTA đã tác động giúp rào cản hàng hóa giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) giảm khiến các doanh nghiệp tại Việt Nam cũng như các hợp tác xã muốn xuất khẩu sản phẩm qua EU phải không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất, từ đó có thể tăng sức cạnh tranh trên trường quốc tế7.

Bên cạnh đó, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã còn có khả năng tăng cường hội nhập, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao tiêu chuẩn hàng hóa tiệm cận gần hơn với tiêu chuẩn quốc tế. Bước qua rào cản thuế quan không đồng nghĩa là sản phẩm từ Việt Nam sẽ được gia nhập vào thị trường của các quốc gia trên thế giới, bởi các FTA thế hệ mới thường quy định những yêu cầu xuất xứ của hàng hóa vô cùng chặt chẽ. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất trực tiếp nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất, đặc biệt là các hợp tác xã trong lĩnh vực này hoàn thiện sản phẩm thay thế cho nguyên liệu nhập khẩu, từ đó giảm sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nhưng tăng tỉ lệ nội địa hóa cho hàng xuất khẩu8.

Tuy nhiên, những thuận lợi trên kéo theo cho nền kinh tế Việt Nam bao gồm cả thành phần kinh tế tập trung, hợp tác xã một số khó khăn, thách thức nhất định. Cụ thể:

Thứ nhất, áp lực cạnh tranh khi gia nhập thị trường quốc tế. Việc gia nhập vào nền kinh tế thế giới trong bối cảnh hiện nay trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam có nhiều cơ hội do toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế mang lại như mở rộng thị trường ra quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ. Với sự thuận lợi về địa vị kinh tế, chính trị, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực giá rẻ, Việt Nam có nhiều lợi thế cho việc sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng liên quan đến nông sản, dệt may, giày dép, điện tử, nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những lĩnh vực này lại có rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thế giới và Việt Nam vẫn gặp hạn chế trong việc áp dụng khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất nên chất lượng đầu vào và đầu ra của sản phẩm chưa cao, khả năng cạnh tranh với đối thủ khác vẫn còn ở vị trí thấp. Ngoài ra, đa số các hợp tác xã ở Việt Nam hiện nay thường được phát triển ở khu vực nông thôn, cơ sở vật chất còn lạc hậu, trình độ cán bộ quản lí còn hạn chế nên dẫn đến khó cạnh tranh với các cơ sở kinh doanh khác trong điều kiện kinh tế thị trường nội địa thông thường. Chính vì vậy, nếu mang kinh tế hợp tác xã so với thị trường quốc tế thì năng lực cạnh tranh sẽ càng chênh lệch. Trước thực tế này, Đảng và Nhà nước đã và đang có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển dành cho khu vực kinh tế tập trung, hợp tác xã, các chính sách hỗ trợ đầu tư máy móc, thiết bị sản xuất tiên tiến, hiện đại dành cho hợp tác xã và đặc biệt là các hợp tác xã ở nông thôn.

Thứ hai, khó khăn trong công tác quản lí nguồn lực, tài chính. Mặc dù Nhà nước luôn có những chính sách ưu đãi phát triển cho khu vực kinh tế tập thể, cho mô hình hợp tác xã nhưng các chính sách này khi triển khai thực hiện trên thực tế còn chưa phát huy được hiệu quả như mong đợi. Nguồn lực phân bổ còn tồn tại các hạn chế, việc tháo gỡ các khó khăn về vốn, cơ sở hạ tầng để xây dựng trụ sở, cơ sở sản xuất chế biến còn thiếu quy hoạch, chưa được giải quyết kịp thời và triệt để. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ quản lí hợp tác xã mặc dù luôn được đào tạo, đào tạo lại, nâng cao tay nghề, nhưng thực tế, năng lực giữa mỗi cá nhân chưa đồng đều, thậm chí vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kì hội nhập quốc tế. Điều này kéo theo công tác quản trị - điều hành sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, việc tiếp cận các nguồn thông tin, chính sách hỗ trợ, khuyến khích của Nhà nước còn bất cập.

Thứ ba, khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa xuất khẩu. Yêu cầu về các quy tắc xuất xứ, chất lượng chặt chẽ trong các FTA thế hệ mới luôn là thách thức lớn đặt ra cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam khi gia nhập. Để đạt được những điều kiện, quy định này một cách đầy đủ thì đòi hỏi các cơ sở sản xuất Việt Nam cần tập trung vào các kĩ thuật phức tạp, chất lượng nguyên liệu đầu vào của sản phẩm, yêu cầu các ngành sản xuất cần phải đầu tư phát triển nguyên phụ liệu đầu vào và cả ở các khâu gia công, sản xuất, thiết kế… Tuy nhiên, đa số các hợp tác xã Việt Nam được thành lập ở vùng ngoại thành hoặc nông thôn nên hàng hóa sản xuất ra có năng suất còn thấp, công nghệ sản xuất chưa cao kéo theo chất lượng hàng hóa không đủ đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Thêm vào đó, yếu tố môi trường và điều kiện lao động cũng góp một phần không nhỏ trong việc tạo nên chất lượng cho hàng hóa xuất khẩu của hợp tác xã. Những thực trạng này đòi hỏi Việt Nam cần điều chỉnh những chính sách, luật pháp liên quan đến môi trường, điều kiện sản xuất của hợp tác xã để khắc phục những bất cập hiện tại, bảo vệ môi trường khi sản xuất và xuất khẩu hàng hóa.

4. Pháp luật về kinh tế tập thể, hợp tác xã trong bối cảnh tác động của các FTA thế hệ mới và một số đề xuất hoàn thiện

Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam tham gia mạnh mẽ vào các FTA thế hệ mới dẫn đến vấn đề hoàn thiện pháp luật được đặt ra với mục tiêu tạo sự tương thích, phù hợp với các nội dung của các FTA thế hệ mới, trong đó, có các nội dung về khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã. Hiện nay, các quy định pháp luật về kinh tế tập thể, hợp tác xã được quy định trong Luật Hợp tác xã năm 2012. Tuy nhiên, trải qua gần 10 năm thi hành, bên cạnh những tác động tích cực đến tổ chức và hoạt động của hợp tác xã thì một số tồn tại, hạn chế đã được bộc lộ, cấp thiết phải sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn9, đặc biệt là trong giai đoạn gia nhập thị trường quốc tế của nước ta cùng quá trình kí kết các FTA thế hệ mới. Chính vì vậy, Dự thảo Luật Hợp tác xã sửa đổi (Dự thảo) đã được đề ra với mục đích hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh tế tập thể, hợp tác xã còn hạn chế. Tuy nhiên, bên cạnh những sửa đổi phù hợp và được đánh giá cao thì vẫn còn một số quy định chưa phù hợp, thiếu các nội dung điều chỉnh để thích ứng với sự tham gia các FTA thế hệ mới. Cụ thể:

Thứ nhất, Dự thảo đã mở rộng đối tượng điều chỉnh, ngoài hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Dự thảo đã bổ sung hai đối tượng là tổ hợp tác và liên đoàn hợp tác xã, trong đó, các nội dung về liên đoàn hợp tác xã được xem là quy định mới của Dự thảo đáp ứng tình hình thực tiễn của Việt Nam trong bối cảnh gia nhập các FTA thế hệ mới. Theo đó, liên đoàn hợp tác xã là tổ chức kinh tế hợp tác có tư cách pháp nhân, có quy mô cấp vùng, cấp quốc gia hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề nhất định, do ít nhất 05 thành viên sáng lập là liên hiệp hợp tác xã hoặc hợp tác xã tự nguyện thành lập hoặc được thành lập theo quy định của pháp luật (khoản 13 Điều 4 Dự thảo). Có thể thấy rằng, phạm vi hoạt động của liên đoàn hợp tác xã hướng đến việc mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh và năng lực xuất nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ phục vụ nhu cầu thành viên, đồng thời hỗ trợ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thành viên của mình. Dự thảo cũng đã quy định điều kiện của thành viên liên đoàn hợp tác xã, quyền và nghĩa vụ của liên đoàn hợp tác xã lần lượt tại Điều 84, Điều 85 của Dự thảo. Tuy nhiên, các quy định này còn khá chung chung, dẫn đến khó khăn khi áp dụng các điều luật này trên thực tế. Do đó, đề xuất Dự thảo cần quy định cụ thể về tổ chức, hoạt động của liên đoàn hợp tác xã, quyền và nghĩa vụ của thành viên liên đoàn hợp tác xã bên cạnh quyền và nghĩa vụ của liên đoàn hợp tác xã; có quy định chi tiết về việc thành lập doanh nghiệp hoặc liên kết với các tổ chức kinh tế khác để hình thành các chuỗi phát triển - tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ khép kín, phát triển kinh tế tuần hoàn gắn với tăng trưởng xanh phục vụ mục tiêu phát triền bền vững hay cách thức, quy trình về việc huy động nguồn lực hợp pháp trong nước và nước ngoài phục vụ hoạt động của liên đoàn hợp tác xã (khoản 7 Điều 85 Dự thảo).

Thứ hai, đơn giản hóa các thủ tục hành chính (thành lập, đăng kí và giải thể các tổ chức kinh tế hợp tác10). Dự thảo đã quy định cụ thể về thủ tục đăng kí hợp tác xã, trong đó, bổ sung mới quy định về đăng kí điện tử. Tại khoản 3, khoản 4 Điều 25 Dự thảo thì các hợp tác xã được quyền đăng kí thành lập qua môi trường điện tử. Đó là việc người thành lập nộp hồ sơ đăng kí qua mạng trên hệ thống thông tin điện tử của cơ quan đăng kí kinh doanh. Dự thảo cũng đã công nhận giá trị pháp lí của hồ sơ đăng kí điện tử là tương đương với hồ sơ bằng bản giấy. Thủ tục đăng kí thành lập đã được đơn giản hơn trước bằng việc công nhận hình thức đăng kí điện tử. Tuy nhiên, đối với thủ tục giải thể hợp tác xã thì việc thực hiện giải thể điện tử chưa được quy định. Cụ thể, tại khoản 6 Điều 91 Dự thảo chỉ quy định, người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã gửi hồ sơ giải thể cho cơ quan đăng kí kinh doanh trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của hợp tác xã. Do vậy, để tạo thuận lợi cho các hợp tác xã khi thực hiện thủ tục giải thể, thì Dự thảo nên cân nhắc bổ sung quy định về thủ tục giải thể hợp tác xã thông qua môi trường điện tử.

Thứ ba, bổ sung những quy định về ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong tổ chức và hoạt động của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã. Tại điểm b khoản 5 Điều 19 Dự thảo đã đề ra chính sách về chuyển đổi số trong phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Theo đó, Nhà nước xây dựng các chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác chuyển đổi số trong sản xuất, quản trị sản xuất và lưu thông sản phẩm thông qua xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, cung cấp thiết bị đầu cuối và các phần mềm, ứng dụng dùng chung. Có thể thấy rằng, chuyển đổi số là xu hướng chung và tất yếu đối với các quốc gia trên thế giới, giúp tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế, đẩy mạnh ứng dụng các khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, kinh doanh. Đối với hoạt động của hợp tác xã cũng không ngoại lệ, đặc biệt là khi các FTA thế hệ mới đang dần rút ngắn khoảng cách giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Nếu kinh tế tập thể, hợp tác xã không có chính sách chuyển đổi số phù hợp và kịp thời thì tất yếu nước ta sẽ bị lạc hậu nhanh chóng. Do vậy, việc Dự thảo quy định về chính sách chuyển đổi số cho các hợp tác xã được đánh giá là kịp thời. Tuy nhiên, Dự thảo cần quy định cụ thể hơn nữa về xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, các nền tảng số cũng như vấn đề bảo mật thông tin. Ngoài ra, Dự thảo cũng cần có các quy định liên quan đến nâng cao, tạo điều kiện cho thành viên trong việc tiếp cận với khoa học công nghệ bằng các chính sách hỗ trợ cụ thể bên cạnh các chính sách chung cho cả khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã. Có như vậy, quá trình chuyển đổi số trong hoạt động của hợp tác xã mới thực sự toàn diện và hiệu quả.

5. Kết luận

Hợp tác xã được đánh giá là một trong những mô hình ưu việt tại các quốc gia khi tham gia vào các FTA thế hệ mới. Ở Việt Nam, khu vực kinh tế tập thể, mô hình hợp tác xã đang tận dụng tối đa các cơ hội để phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh các FTA thế hệ mới đang tác động mạnh mẽ. Tuy nhiên, thách thức đặt ra cho Nhà nước là rất lớn khi phải khắc phục những khó khăn mà khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã đang phải đối mặt. Một trong những giải pháp được đưa ra chính là hoàn thiện thể chế, chính sách cũng như khung pháp lí về hợp tác xã. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã năm 2012 là cấp thiết để đáp ứng các điều kiện tất yếu trong bối cảnh hiện nay.


1 Trung tâm WTO, “Các FTA thế hệ mới và tác động đối với kinh tế Việt Nam”, https://trungtamwto.vn/an-pham/15709-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-va-tac-dong-doi-voi-kinh-te-vietnam, truy cập ngày 03/12/2022.
2 Thủy Trần, "Các FTA thế hệ mới tạo thuận lợi phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh”, https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-fta-the-he-moi-tao-thuan-loi-phat-trien-hoat-dong-san-xuat-kinh-doanh.html, truy cập ngày 03/12/2022.
3 Tạp chí Tài chính, “Cam kết về thuế xuất nhập khẩu trong thực thi các FTA thế hệ mới”, https://tapchitaichinh.vn/cam-ket-ve-thue-xuat-nhap-khau-trong-thuc-thi-cac-fta-the-he-moi.html, truy cập ngày 04/12/2022.
4 Nguyễn Xuân Phúc, “Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là tất yếu khách quan”, https://special.nhandan.vn/phat-trien-kinh-te-HTX-la-tat-yeu-khach-quan/index.html, truy cập ngày 05/12/2022.
5 Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, “Hợp tác quốc tế của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong giai đoạn 2013 - 2017”, https://vca.org.vn/hop-tac-quoc-te-cua-he-thong-lien-minh-htx-viet-nam-trong-giai-doan-2013-2017-a80.html, truy cập ngày 05/12/2022.
6 Trang Thông tin điện tử Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, “Thực thi các FTA thế hệ mới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, https://vass.gov.vn/hoi-nghi-hoi-thao/Thuc-thi-cac-FTA-the-he-moi-va-nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-Viet-Nam, truy cập ngày 05/12/2022.
7 Trang tin điện tử Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3, “Hiệp định EVFTA và những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam”, http://quatest3.com.vn/hiep-dinh-evfta-va-nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-nen-kinh-te-viet-nam, truy cập ngày 07/12/2022.
8 Báo điện tử VTV, “Mở rộng thị trường từ các FTA”, https://vtv.vn/kinh-te/mo-rong-thi-truong-tu-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-fta-20221128112109947.htm, truy cập ngày 07/12/2022.
9 Lê Anh, “Sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Hợp tác xã 2012”, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/danh-sach-tin-tuc.aspx?ItemID=69661&CategoryId=0, truy cập ngày 07/12/2022.
10 Dự thảo Luật Hợp tác xã sửa đổi đã bổ sung thuật ngữ Các tổ chức kinh tế hợp tác. Theo đó, các tổ chức kinh tế hợp tác bao gồm tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác. Vì đây là nội dung mới của Dự thảo, nên trong bài viết, tác giả vẫn sử dụng thuật ngữ hợp tác xã.

Tài liệu tham khảo:

1. Luật Hợp tác xã năm 2012;

2. Dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác;

3. Lê Anh, “Sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Hợp tác xã năm 2012”, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/danh-sach-tin tuc.aspx?ItemID=69661&CategoryId=0, truy cập ngày 07/12/2022.

4. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, (2019) “Hợp tác quốc tế của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong giai đoạn 2013 - 2017”, https://vca.org.vn/hop-tac-quoc-te-cua-he-thong-lien-minh-htx-viet-nam-trong-giai-doan-2013-2017-a80.html, truy cập ngày 05/12/2022.

5. Nguyễn Xuân Phúc, “Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là tất yếu khách quan”, https://special.nhandan.vn/phat-trien-kinh-te-HTX-la-tat-yeu-khach-quan/index.html, truy cập ngày 05/12/2022.

6. Thủy Trần, “Các FTA thế hệ mới tạo thuận lợi phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh”, https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-fta-the-he-moi-tao-thuan-loi-phat-trien-hoat-dong-san-xuat-kinh-doanh.html, truy cập ngày 03/12/2022.

7. Trung tâm WTO, “Các FTA thế hệ mới và tác động đối với kinh tế Việt Nam”, https://trungtamwto.vn/an-pham/15709-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-va-tac-dong-doi-voi-kinh-te-viet-nam, truy cập ngày 03/12/2022.

8. Tạp chí Tài chính, “Cam kết về thuế xuất nhập khẩu trong thực thi các FTA thế hệ mới”, https://tapchitaichinh.vn/cam-ket-ve-thue-xuat-nhap-khau-trong-thuc-thi-cac-fta-the-he-moi.html, truy cập ngày 04/12/2022.

9. Trang Thông tin điện tử Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, “Thực thi các FTA thế hệ mới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, https://vass.gov.vn/hoi-nghi-hoi-thao/Thuc-thi-cac-FTA-the-he-moi-va-nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-Viet-Nam, truy cập ngày 05/12/2022.

10. Trang tin điện tử Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3, “Hiệp định EVFTA và những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam”, http://quatest3.com.vn/hiep-dinh-evfta-va-nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-nen-kinh-te-viet-nam, truy cập ngày 07/12/2022.

11. Báo điện tử VTV (2022), “Mở rộng thị trường từ các FTA”, https://vtv.vn/kinh-te/mo-rong-thi-truong-tu-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-fta-20221128112109947.htm, truy cập ngày 07/12/2022.


ThS. Trần Linh Huân, Nguyễn Phạm Thanh Hoa, Nguyễn Phạm Hải Phượng

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng