Sự sụp đổ của Ngân hàng Silicon Valley - Những vấn đề đặt ra

Quốc tế
Chỉ vài ngày trước khi phá sản, Silicon Valley Bank (SVB) vẫn được xem là một tổ chức tài chính uy tín trong giới công nghệ khi cung cấp dịch vụ cho hàng nghìn startup tại Mỹ. Tuy nhiên, chỉ trong hơn 48 giờ, ngân hàng 40 tuổi này bất ngờ sụp đổ. Sự sụp đổ quá nhanh và bất ngờ của SVB là “thảm kịch” ngân hàng lớn nhất ở Mỹ kể từ khi ngân hàng Washington Mutual tan rã vào năm 2008.
aa

Tóm tắt: Chỉ vài ngày trước khi phá sản, Silicon Valley Bank (SVB) vẫn được xem là một tổ chức tài chính uy tín trong giới công nghệ khi cung cấp dịch vụ cho hàng nghìn startup tại Mỹ. Tuy nhiên, chỉ trong hơn 48 giờ, ngân hàng 40 tuổi này bất ngờ sụp đổ. Sự sụp đổ quá nhanh và bất ngờ của SVB là “thảm kịch” ngân hàng lớn nhất ở Mỹ kể từ khi ngân hàng Washington Mutual tan rã vào năm 2008. Bài viết mong muốn đem đến cho người đọc những phân tích, đánh giá với những số liệu cụ thể, trực quan về những vấn đề xoay quanh vụ ngân hàng SVB phá sản, thông qua việc trả lời các câu hỏi: Tại sao SVB phá sản? SVB phá sản có tạo hiệu ứng domino đối với hệ thống ngân hàng tại Mỹ không? Người gửi tiền của SVB có bị mất tiền hay không? Và bài học gì rút ra cho các ngân hàng?

Từ khóa: Silicon Valley Bank (SVB), ngân hàng Mỹ phá sản.

SILICON VALLEY BANK BANKRUPTCY - LESSONS LEARNED FOR BANKS

Abstract: Just a few days before bankruptcy, Silicon Valley Bank (SVB) is still considered a prestigious financial institution in the technology world as providing services to thousands of startups in the US. However, in just over 48 hours, this 40-year-old bank suddenly collapsed. The sudden and rapid collapse of SVB is the biggest banking “tragedy” in the US since the dissolution of Washington Mutual Bank in 2008. The article wishes to provide readers with analysis and assessment with specific and intuitive data on issues relating to the bankruptcy of SVB by answering the questions: why was SVB bankrupt? Will SVB’s bankruptcy create a domino effect on the US banking system? Will SVB’s depositors lose money? And what lessons can be learned for banks?

Keywords: SVB, bankruptcy of the American Banks.

Đối mặt với khủng hoảng vốn và tình trạng khách hàng đồng loạt rút tiền đột ngột, SVB đã phá sản vào sáng ngày 10/3/2023 và được Cơ quan Quản lí Liên bang Mỹ tiếp quản. Theo Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) - một cơ quan độc lập của Chính phủ Mỹ cung cấp bảo hiểm cho người gửi tiền tại các ngân hàng nước này, mặc dù tương đối ít được biết đến bên ngoài thung lũng Silicon, SVB vẫn nằm trong số 20 ngân hàng thương mại (NHTM) hàng đầu của Mỹ.

SVB được thành lập năm 1983, phục vụ nhóm đối tượng khách hàng đặc biệt, là các công ty khởi nghiệp về công nghệ và chăm sóc sức khỏe. Trước khi phá sản, ngân hàng này có 212 tỉ USD1 tài sản, là ngân hàng lớn thứ 16 tại Mỹ. Hoạt động của SVB rất phát triển, được thể hiện ở Bảng 1.

Bảng 1: Báo cáo kết quả kinh doanh của SVB năm 2021 - 2022

Đơn vị tính: Triệu USD

Nguồn: Tác giả dịch từ https://www.sec.gov2


Thu nhập trước chi phí thuế thu nhập (Income before income tax expense) của SVB đã tăng lên 3.391 tỉ USD vào năm 2022, so với 2.299 tỉ USD vào năm 2021.

Vậy nguyên nhân gì khiến SVB phá sản?

1. Lí do SVB sụp đổ

Một cách ngắn gọn, SVB đã phá sản vì nguyên nhân kinh điển: Khách hàng đồng loạt rút tiền, tháo chạy khỏi ngân hàng. Nhưng câu chuyện đằng sau phức tạp hơn được tóm tắt trong Hình 1.

Hình 1: Tóm tắt dòng thời gian sự kiện SVB phá sản


SVB là ngân hàng chuyên phục vụ các công ty công nghệ và ngân hàng này có sự phát triển thần tốc khi những năm gần đây có rất nhiều startup công nghệ ra đời và thành công rực rỡ; họ kiếm được rất nhiều tiền và họ mang tiền đó gửi ở SVB. Khi lãi suất tiền gửi quanh mức 0%, lượng tiền gửi vào SVB tăng vọt, từ 60 tỉ USD năm 2020 lên trên 189 tỉ USD vào năm 2022. Như vậy, chỉ tính riêng hai năm 2020 và 2021, SVB đã nhận được tới 130 tỉ USD tiền gửi, số tiền này là rất lớn, nếu đem so sánh với tổng thu ngân sách của cả nước Việt Nam, số tiền này nhiều gấp 2 lần.

Thường thì khi một ngân hàng nhận được tiền gửi sẽ mang đi cho vay lãi cao hơn để kiếm lời. Nhưng do quá nhiều tiền, SVB không cho vay hết nên họ đã chọn cách bền vững hơn, đó là mang một khoản tiền lớn đi mua trái phiếu dài hạn của chính phủ. Đây đơn giản là việc cho Chính phủ Mỹ vay tiền và Chính phủ Mỹ sẽ trả tiền gốc cộng lãi khi đến hạn. Thời điểm đó, SVB lấy tiền lãi từ trái phiếu để trả lãi cho người gửi và vẫn lãi được một khoản. (Hình 2)


Hình 2: Cơ cấu tài sản và danh mục thu nhập cố định của SVB


Nguồn: https://www.svb.com/newsroom/facts-at-a-glance


Danh mục tài sản đầu tư sau khi nhận được tiền gửi của các startup, SVB đem đi đầu tư vào chứng khoán có thu nhập cố định lên đến con số 117 tỉ USD và được chia thành hai nhóm: Chứng khoán sẵn sàng để bán (AFF)3 và chứng khoán nắm giữ đến ngày đáo hạn (HTM)4. Nếu như nhận tiền gửi và đi đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì chất lượng của tài sản được đánh giá an toàn cao vì cho Chính phủ vay nhưng có vấn đề là các công ty startup gửi tiền thường không có kì hạn để họ có thể rút bất kì lúc nào, mà trái phiếu chính phủ thường có kì hạn dài nên phát sinh rủi ro chênh lệch giữa kì hạn huy động vốn và đầu tư. Trong số 189 tỉ USD mà ngân hàng huy động được, thì có tới gần 125 tỉ USD là tiền gửi có kì hạn ngắn hoặc không kì hạn, chỉ có khoảng hơn 64 tỉ USD là có kì hạn dài5. Việc đem số tiền có kì hạn ngắn đi đầu tư kì hạn dài thì rủi ro chênh lệch về kì hạn là rất lớn.

Rủi ro bắt đầu xảy ra với SVB khi lạm phát tăng cao. Nguyên nhân lạm phát tăng: Thứ nhất, do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, tình hình kinh tế ngưng trệ khiến Chính phủ Mỹ phải “bơm” tiền trợ cấp. Nhiều tiền trong lưu thông nên gây ra lạm phát. Thứ hai, xung đột Nga - Ukraine làm giá năng lượng tăng cao. Khi giá năng lượng tăng sẽ kéo theo chi phí sản xuất vận tải, chi phí sản xuất tăng, khiến giá hàng hóa tăng dẫn đến lạm phát.

Và mọi chuyện bắt đầu khi xảy ra lạm phát. Từ tháng 3/2022, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã đối phó với lạm phát bằng cách tăng lãi suất, từ 0% đến 4,75%. Khi lãi suất tăng, nhiều người thấy rằng việc gửi tiền vào ngân hàng mang lại lợi nhuận cao hơn đầu tư, điều đó khiến họ mang tiền gửi vào ngân hàng nhiều hơn và lượng tiền trong lưu thông giảm xuống.

Tuy nhiên, do lãi suất tăng cao trong khi nền kinh tế khó khăn nên nhiều công ty khởi nghiệp muốn huy động vốn bằng cách niêm yết lên sàn chứng khoán nhưng phần lớn là không thành công. Bên cạnh đó, nhiều công ty cạn kiệt tiền sau khi trải qua đại dịch Covid-19. Cuối cùng, họ chỉ còn cách rút tiền mà họ gửi ở SVB để trả lương cho nhân viên và các chi phí hoạt động khác.

Lúc này SVB phải bán bớt trái phiếu để lấy tiền cho khách hàng rút. Nhưng SVB đã mua trái phiếu kì hạn 10 năm của Chính phủ lúc lãi suất thấp, chỉ 1,79%; bây giờ, lãi suất trái phiếu loại đó đã tăng lên tới 3,9%. Điều này khiến SVB chỉ bán có 21 tỉ USD trái phiếu đã lỗ 1,8 tỉ USD. Thực tế, SVB mua tổng cộng 128 tỉ USD trái phiếu nên lỗ là rất lớn. Khi xuất hiện khoản lỗ trên bảng cân đối kế toán, SVB phải huy động vốn để bù đắp khoản lỗ đó.

Vào ngày 08/3/2023, Ngân hàng ra thông báo rằng: Họ cần huy động thêm 2,5 tỉ USD để cân đối. Điều này đã khiến khách hàng gửi tiền vào SVB nghĩ rằng ngân hàng này đang thiếu tiền nên một số người đi rút tiền khỏi SVB và điều đó đã gây ra một hiệu ứng domino vô cùng mạnh mẽ. Vì càng nhiều người rút tiền thì những người khác càng lo lắng rằng tiền có thể cạn kiệt và mình cũng phải rút. Kết quả là chỉ trong hai ngày, khách hàng đã rút khỏi SVB số tiền lên tới 42 tỉ USD. Đây là một số tiền rất lớn. Niềm tin vào SVB sụp đổ và ngân hàng cũng sụp đổ theo. Cuối cùng, ngày 10/3/2023, SVB phải thông báo rằng: Họ không còn tiền mặt để khách hàng rút nữa.

2. SVB sụp đổ có tạo hiệu ứng domino đối với hệ thống ngân hàng Mỹ?

Theo các chuyên gia nhận định, SVB có nhóm đối tượng khách hàng đặc biệt nên sự sụp đổ của nó không ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế nói chung. Nhưng người bị ảnh hưởng mạnh nhất là các công ty công nghệ và khởi nghiệp vì họ gửi tiền ở SVB mà không rút được sẽ không có chi phí duy trì hoạt động cho công ty. Có thể hàng nghìn công ty sẽ phá sản. Đồng thời, các công ty mới thành lập cũng khó huy động vốn vì các quỹ đầu tư tại SVB có thể đã “trắng tay”. Các loại doanh nghiệp khác thì ít bị ảnh hưởng hơn và khả năng khủng hoảng kinh tế như năm 2008 được dự đoán là ít xảy ra. Hiện tại, Chính phủ Mỹ cũng đang tìm cách để kiểm soát tình hình.

Quy mô của SVB có đủ lớn không? Phạm vi ảnh hưởng của SVB có chịu ảnh hưởng lớn đến tổng thể hệ thống ngân hàng hay không? Tổng tài sản của SVB đến hết năm 2022 là 212 tỉ USD, đây là ngân hàng cỡ vừa, nếu so sánh ngân hàng Lehman Brothers hơn 600 tỉ USD phá sản năm 2008 (212 tỉ USD năm 2022 là rất nhỏ so với 600 tỉ USD năm 2008). Như vậy, so về mặt tuyệt đối, thì quy mô SVB nhỏ và so về mặt tương đối còn nhỏ nữa. Phạm vi hoạt động tập trung vào công nghệ, startup ở thung lũng Silicon nên sẽ không có tác động domino lên hệ thống ngân hàng ở Mỹ. Nhưng nó là “dấu hiệu” cho các ngân hàng khác, là lời khẳng định về vấn đề đầu tư, đặc biệt đầu tư vào trái phiếu có thu nhập của các ngân hàng tại Mỹ đang tồn tại và quá trình tăng lãi suất rất nhanh của FED đã gây ảnh hưởng đến tài sản của các ngân hàng, khiến cho các ngân hàng gặp rủi ro.

Ngay sau khi SVB phá sản, ngày 13/3/2023, Signature Bank (SB) đã phá sản nhưng quy mô chỉ khoảng 20 tỉ USD. Điều này cho thấy, hệ thống ngân hàng tại Mỹ đang chịu ảnh hưởng bởi lãi suất tăng. Vậy, bản thân SVB không tạo ra hiệu ứng domino với quy mô và phạm vi hoạt động nhưng nó phản ánh nội tại trong hệ thống ngân hàng của Mỹ đang có vấn đề do tác động tăng lãi suất của FED.

Chuyện gì sẽ xảy ra với khách hàng chưa rút được tiền?

3. Người gửi tiền ở SVB có mất tiền không?

Ở SVB có hai nhóm khách hàng: (i) Khách hàng gửi dưới 250.000 USD sẽ được bảo hiểm chi trả hoàn toàn. Lượng khách này ước tính chiếm khoảng 10%; (ii) Khoảng 90% là những người gửi trên 250.000 USD phải chờ cơ quan bảo hiểm của Mỹ bán các khoản tài sản của ngân hàng, sau đó chi tiền cho khách theo quy định.

Hình 3: Thể hiện bảng cân đối kế toán của SVB, thời điểm ngày 31/12/2022

Đơn vị tính: Tỉ USD

Nguồn: Vẽ theo số liệu bảng cân đối kế toán của SVB

Hình 3 cho thấy: Bên nguồn vốn của SVB: Tiền gửi không kì hạn 80,8 tỉ USD, tiền gửi có kì hạn 92,4 tỉ USD; bên tài sản: Chứng khoán nắm giữ đến ngày đáo hạn: 91,3 tỉ USD, chứng khoán sẵn sàng để bán 26,1 tỉ USD, tiền mặt 13,6 tỉ USD. FDIC đã tạo một ngân hàng “bắc cầu”, dùng hệ thống thông tin để can thiệp vào toàn bộ hệ thống thông tin của SVB; ngay lập tức, vào Chủ nhật, ngày 12/3/2023, FDIC đã công bố danh sách những người gửi tiền được bảo hiểm sẽ được chi trả và ngày 13/3/2023, toàn bộ những khách hàng này đã được chi trả hết số tiền gửi. Còn nhóm khách hàng gửi tiền gửi trên 250.000 USD, họ sẽ nhận được phần lãi trước, gốc sẽ được nhận sau khi bán tài sản của SVB, mà tài sản của SVB có khả năng thu hồi rất cao, vì phần lớn là tiền gửi, tiền trái phiếu. Tài sản ở thị trường Mỹ rất rõ ràng và quy mô, tính thanh khoản của thị trường tài sản rất lớn. FDIC đã tuyên bố, trong vòng một tuần, kể cả những người gửi tiền không có bảo hiểm sẽ được xử lí.

Tuy nhiên, FDIC cũng tuyên bố các cổ đông và một số chủ nợ không được bảo hiểm sẽ không được bảo vệ.

4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho các ngân hàng

Thứ nhất, việc SVB sụp đổ đã phơi bày rủi ro khi không đa dạng hóa nhóm khách hàng, bởi cùng một kiểu khách hàng sẽ có khả năng hành động giống nhau trong cùng một thời điểm. Do đó, bài học cho các ngân hàng khác là cần "đa dạng hóa" chiến lược của mình, đa dạng hóa khách hàng, danh mục đầu tư, không quá tập trung vào bất động sản và các danh mục đầu tư dài hạn. Bởi hầu hết các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng thương mại có đặc điểm là tỉ lệ tiền gửi ngắn hạn lớn, nếu các ngân hàng lấy vốn ngắn hạn đi đầu tư, cho vay trung, dài hạn (trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản) có thể đối mặt với rủi ro thanh khoản.

Thứ hai, các ngân hàng cần chuẩn bị lượng dự phòng về tiền mặt để sẵn sàng đề phòng nếu người dân ồ ạt rút tiền. Bên cạnh đó, các ngân hàng phải đưa ra hạn mức giới hạn khi cho vay các ngân hàng khác, tăng lượng tiền dự trữ tại NHTW, thực hiện giải pháp stress test để đánh giá sức chịu đựng của ngân hàng mình.

Thứ ba, trong số những nguyên nhân dẫn đến SVB phá sản, các chuyên gia tài chính đặc biệt chú ý tới sự yếu kém của ngân hàng này trong quản lí rủi ro. Trong vấn đề quản lí rủi ro, rủi ro lãi suất là điều được biết đến rộng rãi và không khó để giải quyết. Nếu SVB có đủ chương trình dự phòng thì sẽ có đủ lợi nhuận để bù lại những thiệt hại do việc bán các tài sản liên quan đến trái phiếu với mức giá lỗ. Do đó, các ngân hàng cũng phải sẵn sàng nguồn dự phòng rủi ro cho những khoản đầu tư dài hạn như: Trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản, đặc biệt khi tình hình thị trường bắt đầu diễn biến xấu. Các ngân hàng có thể quản lí những rủi ro này bằng việc dự phòng, mua các hợp đồng kì hạn hoặc các công cụ tài chính khác có thể tăng giá trị để bù lại những thiệt hại do việc bán trái phiếu khi chính sách thay đổi.

1 https://www.svb.com/newsroom/facts-at-a-glance.
2 https://www.sec.gov/Archives/edgar/data/719739/000071973923000021/sivb20221231.htm#ibb4dd73a1d3f4bff944b5d35fd2c5e2a_91
3 AFS - Available-for-Sale.
4 HTM - Held-to-Maturity.
5 Theo “SVB financial group and subsidiaries consolidated balance sheets”.
6 https://www.sec.gov/Archives/edgar/data/719739/000071973923000021/sivb-20221231.htm#ibb4dd73a1d3f4bff944b5d35fd2c5e2a_91

Tài liệu tham khảo:

1. “SVB financial group and subsidiaries consolidated balance sheets”: https://www.sec.gov/Archives/edgar/data/719739/000071973923000021/sivb-20221231.htm#ibb4dd73a1d3f4bff944b5d35fd2c5e2a_91

2. https://www.svb.com/newsroom/facts-at-a-glance

3. https://www.sec.gov/Archives/edgar/data/719739/000071973923000021/sivb-20221231.htm#ibb4dd73a1d3f4bff944b5d35fd2c5e2a_91

4. https://www.fdic.gov/news/press-releases/2023/pr23019.html


TS. Hà Thị Tuyết Minh
Khoa Tài chính - Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng