Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Quốc tế
Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới.
aa

Tóm tắt: Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới. Trong thời gian qua, tiền mã hóa đã và đang chứng minh những ưu, nhược điểm của mình trong nền tài chính hiện đại, nó đem đến cơ hội nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức đối với nền kinh tế kĩ thuật số. Chính vì vậy, tiền mã hóa là vấn đề được quan tâm của rất nhiều nhà quản lí, giám sát tài chính toàn cầu. Làm cách nào để quản lí hiệu quả tiền mã hóa, biến chúng thành công cụ an toàn trên thị trường tài chính nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung? Đây là vấn đề quan trọng đối với các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bài viết phân tích các khía cạnh quản lí, giám sát tiền mã hóa của một số quốc gia trên thế giới, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam.

Từ khóa: Tiền mã hóa, Blockchain, Initial Coin Offering (ICO).

CRYPTOCURRENCY MANAGEMENT IN SOME COUNTRIES AROUND THE WORLD:
EXPERIENCE AND POLICY RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM


Abstract: Cryptocurrency is a famous application of Blockchain technology in the era of the Fourth Industrial Revolution. The development of cryptocurrencies is inevitable as a new form of money. It has brought about the outstanding development of e-commerce and opened a new page for the financial market. In recent times, cryptocurrency has proven its advantages and disadvantages in modern finance, bringing new opportunities as well as challenges to the digital economy. It has become a matter of great concern for global financial managers and supervisors. How to effectively manage cryptocurrencies to turn them into safe tools in the financial market in particular and for the entire economy in general? This is a difficult problem for many countries in the world as well as Vietnam. This article analyzes the aspects of cryptocurrency management and supervision in some countries around the world. From there, the authors propose policy recommendations for Vietnam.

Keywords: Cryptocurrency, Blockchain, Initial Coin Offering (ICO).

1. Tiền mã hóa trong nền kinh tế hiện đại

Có nhiều quan niệm về tiền mã hóa (cryptocurrency) hay còn gọi là tiền kĩ thuật số, tiền điện tử, tiền ảo.

Theo Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB, 2012), tiền ảo là một loại tiền kĩ thuật số, không được quản lí, giám sát và được phát hành, kiểm soát bởi nhóm phát triển phần mềm, được sử dụng và chấp nhận giữa các thành viên trong một cộng đồng ảo. Đến năm 2016, ECB đưa ra định nghĩa: Tiền ảo là sự hiển thị số của giá trị, không được phát hành bởi tổ chức tài chính hoặc tổ chức cung cấp dịch vụ tiền điện tử, trong vài trường hợp, tiền ảo có thể được sử dụng thay thế cho tiền.

Theo Lực lượng Đặc nhiệm tài chính quốc tế (FATF), tiền ảo là tiền đại diện số của giá trị, có thể được giao dịch bằng kĩ thuật số và hoạt động như một phương tiện trao đổi; một đơn vị tài khoản và/hoặc như phương tiện cất trữ giá trị nhưng không có tư cách pháp lí. Tiền ảo không được phát hành hoặc được đảm bảo bởi bất kì quốc gia, vùng lãnh thổ nào và chỉ thực hiện chức năng nêu trên theo thỏa thuận trong cộng đồng người dùng tiền ảo.

Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF, 2017), tiền ảo là biểu hiện số của giá trị, được phát hành bởi nhà phát triển tư nhân và được niêm yết theo đơn vị riêng; có thể được thu giữ, lưu trữ, tiếp cận và giao dịch trực tuyến; có thể sử dụng cho nhiều mục đích miễn là các bên giao dịch đồng ý sử dụng. Bao trùm hàng loạt các loại “tiền” từ công cụ nợ đơn giản có thể giao dịch (như thẻ điện thoại, sổ dặm bay) đến loại tiền được đối ứng bởi tài sản (vàng) và đến các loại tiền mã hóa.

Theo Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), tiền mã hóa và tiền tệ kĩ thuật số thể hiện các đặc điểm chính: (i) Là tài sản, nhưng không có giá trị nội tại; (ii) Sử dụng sổ cái phân tán để cho phép trao đổi ngang hàng giá trị điện tử; (iii) Không được vận hành bởi bất kì cá nhân hay tổ chức cụ thể nào.

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tiền mã hóa được coi là một trong những ứng dụng đầu tiên của Blockchain, được thiết kế để làm việc như một trung gian trao đổi, sử dụng mật mã để đảm bảo các giao dịch, để kiểm soát việc tạo ra các đơn vị bổ sung và để xác minh việc chuyển giao tài sản. Nếu như giá trị của tiền giấy được đảm bảo bởi Chính phủ phát hành thì đối với tiền mã hóa, giá trị của nó được tổ chức phát hành đảm bảo bằng việc cam kết sẽ chuyển đổi tiền mã hóa sang tiền giấy theo yêu cầu của người sở hữu.

Tiền mã hóa mang lại nhiều lợi ích hơn so với các đồng tiền truyền thống như giao dịch nhanh chóng, không có bên thứ 3 can thiệp với những ưu điểm nổi bật như sau:

Chi phí giao dịch tiền mã hóa là rất thấp. Vì là sản phẩm tài chính tương đối mới, chưa được công nhận rộng rãi bởi chính phủ các quốc gia, không có bên trung gian nào quản lí giao dịch bằng tiền mã hóa nên chi phí giao dịch là rất thấp, thậm chí bằng không.

Tiền mã hóa làm gia tăng tiện ích khi giao dịch. Với những hình thức gửi tiền thông thường hiện nay như qua ngân hàng hay dịch vụ thanh toán online (trung gian giao dịch), khách hàng sẽ bị giới hạn về lượng tiền chuyển và nhận về trong ngày, nhưng tiền mã hóa thì hoàn toàn không có sự ràng buộc này, có thể gửi tùy ý với số lượng không giới hạn ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, vào bất cứ thời gian nào.

Tiền mã hóa có tính bảo mật cao, mọi thông tin giao dịch tiền mã hóa đều được hiển thị trên Internet nhưng danh tính người giao dịch không xuất hiện, nên thông tin người dùng được bảo mật tốt.

Tiền mã hóa tạo tiềm năng phát triển cho ngành thương mại điện tử. Với nhiều tính năng ưu việt, tiền mã hóa đã và đang được sử dụng tại nhiều doanh nghiệp thương mại điện tử, tiết kiệm chi phí và nâng cao năng suất của hoạt động tài chính, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

Tiền mã hóa không gây ô nhiễm môi trường như các loại tiền truyền thống. Tiền mã hóa tồn tại dưới dạng tài sản kĩ thuật số, không cần đến giấy, mực; hay in ấn như các đồng tiền thông thường nên không hề tác động tới môi trường.

Bên cạnh những ưu điểm, tiền mã hóa cũng tồn tại một số rủi ro cần lưu ý như sau:

Các giao dịch tiền mã hóa được đánh giá là có mức độ rủi ro khá cao. Do giá trị của đồng tiền mã hóa không dựa trên thông tin cơ sở nào, không được quản lí bởi các chính phủ và ngân hàng trung ương, không có dữ liệu để phân tích, mà hầu hết phụ thuộc theo xu hướng đầu tư của đám đông, nên trị giá tiền mã hóa biến động rất mạnh và bất ổn, điển hình là sự bất ổn của đồng Bitcoin trong thời gian vừa qua. Nhiều chuyên gia lo ngại Bitcoin sẽ trở thành một “bong bóng tài chính” nguy hiểm đối với nền kinh tế.

Tiền mã hóa không phải là hàng hóa và cũng không phải là tiền tệ thuần túy, không được bảo đảm hoặc sở hữu tài sản bảo đảm được cung cấp bởi bất kì chính phủ hoặc tổ chức nào. Chính vì thế, tiền mã hóa rất khó kiểm soát. Khi sai sót xảy ra, hệ thống phát sinh lỗi, giao dịch thất bại hoặc tiền mã hóa của nhà đầu tư bị hack thì không ai đứng ra xử lí và bảo vệ. Ngoài ra, tiền mã hóa có thể dễ dàng bị lợi dụng cho mục đích phạm tội, tính ẩn danh cung cấp bởi Blockchain và quá trình giao dịch giúp tội phạm lẩn trốn mà không để lại dấu vết. Cũng có những vụ lừa đảo sử dụng Bitcoin và các loại tiền mã hóa khác để gây quỹ khủng bố, mua công nghệ và các hoạt động tài chính phạm pháp.

Công nghệ tạo ra tiền mã hóa tiềm ẩn nhiều rủi ro chưa thể lượng hóa. Đầu tiên phải kể đến, rủi ro về an toàn bảo mật thông tin, mặc dù công nghệ Blockchain cung cấp sự an toàn trong giao dịch nhưng lại tiềm ẩn rủi ro đối với tài khoản và ví đựng tiền mã hóa. Bên cạnh đó, tiền mã hóa còn có rủi ro đối với sự an toàn mạng sử dụng Blockchain khi một đối tượng nào đó kiểm soát các thiết bị kết nối trong một khoảng thời gian. Hơn nữa, vì việc chuyển nhượng giá trị trong cơ chế Blockchain phát sinh bằng việc sử dụng cơ chế mã hóa, theo đó, các chủ thể tham gia đồng thuận cùng cập nhật lại trên sổ cái nên tiền mã hóa còn mang đến nguy cơ rủi ro về sự đồng thuận trong cộng đồng mạng. Trên thực tế, có nhiều cơ chế mã hóa được sử dụng để đạt được sự đồng thuận này. Nếu sự đồng thuận không đạt được vì một lí do nào đó thì sổ cái sẽ không được hoàn thiện và giao dịch chuyển nhượng sẽ không được thực hiện.

Tiền mã hóa có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến tài chính quốc gia nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Theo các nhà kinh tế, đầu tư vào tiền mã hóa là bị phân quyền và thậm chí có thể rất nguy hiểm đến mức độ tài chính. Loại tiền tệ có thể trao đổi tự do mà không tốn phí hay các khoản thuế này có thể gây ra một biến động lớn. Đối với một số quốc gia, hệ thống thuế được dựa trên việc tiêu dùng và thu nhập của người dân thông qua việc thu thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng. Do đó, lưu hành tiền mã hóa sẽ làm gián đoạn dòng tiền và thu nhập của người dân. Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến các khoản thu thuế của nhà nước, chính vì thế, các biện pháp quản lí giám sát là rất cần thiết để đảm bảo tiền mã hóa không tác động tiêu cực đến tài chính và ngân sách nhà nước. Hiện nay, bên cạnh một số quốc gia ủng hộ tiền mã hóa công khai thì có rất nhiều quốc gia vẫn chưa chấp nhận tiền mã hóa là một loại tiền tệ. Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể về chính sách quản lí tiền mã hóa.

Qua các rủi ro tiềm ẩn của tiền mã hóa, có thể thấy rằng, việc quản lí và giám sát các hoạt động này là rất quan trọng và cần thiết đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung.

2. Kinh nghiệm quản lí tiền mã hóa của các nước trên thế giới

Trên thực tế, có rất nhiều ý kiến trái chiều về tiền mã hóa, đa số tiếp cận thận trọng với công cụ tài chính mới này.

Ở châu Á, Trung Quốc từng là một trung tâm giao dịch tiền mã hóa hàng đầu thế giới trước năm 2013. Tuy nhiên, sau đó Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) đã cấm các tổ chức tài chính xử lí các giao dịch Bitcoin, cấm các ICO và các sàn giao dịch tiền mật mã trong nước vào năm 2017. Đến tháng 6/2021, Chính phủ Trung Quốc đã cấm tất cả hoạt động khai thác tiền mật mã trong nước, cấm các sàn giao dịch tiền mã hóa và ICO, đồng thời chặn luôn việc truy cập vào các nền tảng giao dịch tiền mã hóa ở nước ngoài và ngừng cung cấp điện cho những thợ đào Bitcoin (tháng 9/2021). Tuy vậy, Trung Quốc hiện nay đang dẫn đầu thế giới về việc tăng cường kiểm soát thị trường tiền mã hóa.

Nhật Bản đóng vai trò dẫn đầu sau khi ra mắt hệ thống cấp quyền cho các sàn giao dịch tiền mã hóa trong năm 2017. Bitcoin được chấp nhận như một phương tiện thanh toán ở quốc gia này. Tuy nhiên, việc một sàn giao dịch của Nhật Bản bị tấn công vào cuối tháng 01/2018 đã khiến Cơ quan dịch vụ Tài chính (FSA) nước này phải chú trọng hơn tới việc giám sát. Gần đây, một tổ chức tự quản thị trường đã ra đời nhằm tăng cường an ninh và tính pháp lí của thị trường tiền mã hóa.

Hàn Quốc cũng từng là trung tâm giao dịch tiền mã hóa trong năm 2017, hiện đang tăng cường giám sát, nghiên cứu về một bộ quy định quản lí toàn diện cho thị trường tiền mã hóa.

Với Singapore, quốc gia này hiện vẫn xem tiền mã hóa là “một cuộc thử nghiệm”.

Ở Đài Loan, các cơ quan quản lí chấp nhận phương pháp chờ và theo dõi thị trường tiền mã hóa (waitand-see approach), trong khi ở Philippines, Chính phủ đã đưa ra quy định quản lí hoạt động ICO vào cuối năm 2020.

Ở Thái Lan, Chính phủ đã ban hành 02 Nghị định khẩn cấp (vào đầu năm 2018) liên quan đến hoạt động kinh doanh tài sản kĩ thuật số, trong đó có tiền mã hóa và Nghị định sửa đổi về Luật Thuế, trong đó có chính sách thuế liên quan đến giao dịch tài sản kĩ thuật số. Hai Nghị định này ra đời làm thay đổi tình trạng đầu tư của Thái Lan thông qua việc thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Theo các Nghị định trên, tài sản kĩ thuật số được chia làm hai loại: Tiền mã hóa (tài sản kĩ thuật số có mã thông báo tiện ích dùng để trao đổi hàng hóa với nhau) và xu hướng công nghệ kĩ thuật số (mã thông báo kĩ thuật số được bảo mật từ các nước châu Âu và Mỹ). Theo đó, để tiền mã hóa được hiện diện và giao dịch một cách hợp pháp, các nhà phát hành tiền mã hóa trong và ngoài nước phải thông qua cổng ICO của Thái Lan để được cấp phép phát hành, sau đó, các nhà đầu tư, thông qua cổng ICO sẽ mua được tiền mã hóa một cách hợp pháp. Hình thức này cũng giống như sàn giao dịch chứng khoán, ở đó có những môi giới hoặc những đại lí tương tự mô hình truyền thống của sàn chứng khoán. Với cách này, hoạt động mua bán, trao đổi tiền mã hóa của Thái Lan sẽ được kiểm soát và nhà nước Thái Lan có thể thu thuế cho các hoạt động này, nhằm đóng góp cho ngân sách nhà nước. Có rất nhiều loại tiền ảo trên thế giới, nhưng Thái Lan chỉ cho phép 07 loại tiền ảo được giao dịch, trong đó có Bitcoin. Đối với cá nhân, giao dịch tiền mã hóa thông qua cổng ICO chỉ được giới hạn ở mức 1.000 USD cho một lần giao dịch. Do có khung pháp lí điều chỉnh cụ thể, nên các nhà phát hành và đầu tư phải đảm bảo tuân thủ theo đúng quy định nếu không muốn bị áp dụng các hình phạt nặng như phạt tiền hoặc đi tù. Về chính sách thuế đối với các giao dịch về tiền mã hóa, Thái Lan phân biệt thuế đối với giao dịch giữa cá nhân với nhau và thuế đối với giao dịch kêu gọi vốn. Cụ thể, giao dịch tiền mã hóa giữa cá nhân với nhau được xem như hàng hóa và bị đánh thuế giá trị gia tăng, còn các giao dịch kêu gọi vốn thì sẽ bị đánh thuế nhà thầu.

Ở châu Âu, một số quốc gia cho rằng, tiền mã hóa không phải là tiền vì nó không mang tính chất truyền thống và chỉ là một dạng tiền của tư nhân (private currency). Đa số các nước châu Âu phủ nhận tính tiền tệ của tiền mã hóa vì không được nhà nước ban hành. Ví dụ, Thụy Sĩ xem tài sản mã hóa như một dạng voucher, ở Pháp thì xem như động sản vô hình. Tại Điều 1 Chỉ thị của Nghị viện châu Âu số 2018/843 ngày 30/5/2018 quy định tiền mã hóa là một dạng chuỗi kĩ thuật số có giá trị, nhưng không được phát hành hoặc bảo đảm bởi ngân hàng trung ương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tiền mã hóa không có mối liên hệ với tiền pháp định, do đó tiền mã hóa không có giá trị pháp lí. Tuy nhiên, tiền mã hóa được chấp nhận như một phương thức thanh toán cho các giao dịch điện tử. Liên minh châu Âu (EU) rất quan tâm tới việc tìm phương án giải quyết các vấn đề rủi ro tiền mã hóa, các nhà hoạch định chính sách khối này lo ngại về tình trạng mất việc làm và giảm tăng trưởng kinh tế đối với các nền kinh tế khác nếu quản lí quá chặt về vấn đề đổi mới công nghệ. Cơ quan Thị trường Chứng khoán châu Âu (ESMA) đã đề xuất áp đặt các giới hạn lên các sản phẩm phái sinh có liên quan tới tiền mã hóa đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ, đồng thời xem xét cách thức áp dụng quy định MiFID II mới của EU cho các tài sản kĩ thuật số. Chính phủ Anh đang khởi động sáng kiến thành lập một lực lượng đặc nhiệm quản lí giám sát hoạt động giao dịch tiền mã hóa ở nước này. Mục đích là tạo ra một tổ chức trực thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm đánh giá rủi ro và lợi ích tiềm năng của tiền mã hóa. Sau khi rời khỏi EU, trong năm 2020, Anh chuyển các quy định 5AMLD và 6AMLD liên quan đến tiền mã hóa thành luật trong nước. Theo đó, các sàn giao dịch phải đăng kí hoạt động với FCA và tuân thủ các quy định phòng, chống rửa tiền/tài trợ khủng bố (AML/CFT). Tại Nga, từ tháng 01/2018 đã dự thảo luật, theo đó cấm thanh toán bằng tiền mã hóa, nhưng lại cho phép ICO và việc hoán đổi từ tiền mã hóa sang loại tiền truyền thống.

Tại Mỹ, ban đầu, phần lớn hoạt động giao dịch tiền mã hóa đều diễn ra ở những khu vực chưa rõ ràng về mặt pháp lí. Ủy ban Giao dịch Chứng khoán Mỹ (SEC) lập tức tiến hành điều tra mọi thứ liên quan tới tiền mã hóa, từ ICO cho tới các quỹ đầu tư và sàn giao dịch để có biện pháp kiểm soát thị trường này trong thời gian sớm nhất. Hiện nay, SEC coi tiền mã hóa như một loại chứng khoán và áp dụng luật chứng khoán một cách toàn diện cho các sàn giao dịch và ví kĩ thuật số. Sàn giao dịch tiền mã hóa được coi là hợp pháp và được điều chỉnh bởi Đạo luật Bảo mật Ngân hàng (BSA). Mạng lưới thực thi tội phạm tài chính (FINCEN) triển khai các biện pháp giám sát giao dịch trên thị trường, triển khai chương trình chống rửa tiền/tài trợ khủng bố (AML/CFT). Theo đó, các nhà cung cấp dịch vụ giao dịch tiền mã hóa phải đăng kí với FINCEN, lưu trữ lịch sử giao dịch và gửi báo cáo cho các cơ quan có thẩm quyền; cơ quan thuế (IRS) ban hành hướng dẫn về thuế cho các giao dịch trên thị trường này. Các quy định về quản lí tiền mã hóa đã dần được bổ sung cập nhật trong Đạo luật Bảo mật Ngân hàng và các văn bản liên quan khác, theo đó, từ tháng 6/2019, FINCEN yêu cầu các sàn giao dịch tiền mã hóa tuân thủ quy định “Travel rule”, thu thập và chia sẻ thông tin về những người khởi tạo, người thụ hưởng trong các giao dịch tiền mã hóa. Đến tháng 12/2020, FINCEN đã đề xuất một quy định mới về tiền mã hóa liên quan đến việc thu thập dữ liệu đối với các ví và sàn giao dịch. Quy định ​​sẽ yêu cầu các sàn giao dịch gửi báo cáo hoạt động đáng ngờ (SAR) cho các giao dịch trên 10.000 USD và yêu cầu chủ sở hữu ví xác định danh tính khi gửi hơn 3.000 USD trong một giao dịch. Bộ Tư pháp tiếp tục phối hợp với Ủy ban Chứng khoán để xây dựng các quy định đối với tiền mã hóa nhằm bảo vệ người tiêu dùng và có các quy định phù hợp, chặt chẽ hơn. Trong năm 2021, Quốc hội đã thảo luận các vấn đề liên quan đến các nhà cung cấp dịch vụ tiền mã hóa với các quy tắc mới được đưa vào dự luật cơ sở hạ tầng của Chính phủ. Theo quy định mới, các sàn giao dịch được coi là nhà môi giới và phải tuân thủ các nghĩa vụ báo cáo và lưu trữ hồ sơ AML/CFT có liên quan. Đầu năm 2023, Chính phủ đưa ra lộ trình giảm thiểu các rủi ro liên quan đến tiền mã hóa và tăng cường sự giám sát thông qua các cơ quan liên quan như Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC), Cục Dự trữ liên bang (Fed) và Văn phòng Kiểm soát tiền tệ (OCC).

Ở Canada, các cơ quan quản lí cho biết, ICO có thể được xem như là chứng khoán và các sản phẩm có liên quan tới tiền kĩ thuật số cần được lưu ý có rủi ro cao. Thêm vào đó, các sàn giao dịch chứng khoán nước này trở thành lựa chọn phổ biến cho các cổ phiếu và quỹ ETF có liên quan tới tiền mã hóa.

Theo IMF, tiền mã hóa có thể gây ra rủi ro và cơ bản công nghệ đằng sau nó có thể là giải pháp để giảm thiểu rủi ro. IMF đề xuất, các giải pháp giảm thiểu rủi ro sẽ mang hình thức công nghệ sổ cái phân tán hoạt động như một chuỗi Blockchain cho phép các tổ chức tài chính và các nhà quản lí điều phối cùng với sinh trắc học và trí tuệ nhân tạo nhằm cải thiện an ninh số và xác định hành vi đáng ngờ. Ngân hàng Thế giới (WB) đang hết sức thận trọng xem xét công nghệ Blockchain - nền tảng công nghệ sử dụng “sổ cái phân tán” cho phép giao dịch các tài sản số một cách an toàn. Công nghệ này được kì vọng có thể áp dụng tại các quốc gia đang phát triển để theo dõi dòng tiền hiệu quả hơn và giảm nạn tham nhũng.

3. Một số khuyến nghị chính sách trong quản lí tiền mã hóa tại Việt Nam

Ở Việt Nam, tiền mã hóa bắt đầu xuất hiện từ năm 2011 bằng việc một số cá nhân thực hiện việc đầu tư Bitcoin trên các sàn giao dịch quốc tế. Nhưng từ đó đến nay, Việt Nam chưa có quy định hay khung pháp lí riêng để quản lí việc giao dịch tiền mã hóa từ phía Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) không công nhận tiền mã hóa là phương tiện thanh toán; Bộ Công Thương không công nhận tiền mã hóa là một loại hàng hóa hay dịch vụ; Bộ Tư pháp không công nhận tiền mã hóa là một loại tài sản. Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng chưa có quy định cụ thể về tài sản ảo, tài sản điện tử; luật pháp về ngân hàng, về tổ chức tín dụng cũng chưa có quy định quản lí phương tiện thanh toán điện tử này. Theo NHNN khuyến cáo, việc sử dụng Bitcoin làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Mặc dù không được thừa nhận, nhưng một số loại tiền mã hóa trên thế giới như Bitcoin, Ethereum, Litecoin và Ripple... đều đã xuất hiện và có những giao dịch tại Việt Nam. Nó đã và đang trở thành một loại tài sản, phương tiện thanh toán, công cụ đầu tư, phương thức huy động vốn tại Việt Nam. Thống kê của Statista 2022 cho thấy, Việt Nam xếp hạng 7/10 quốc gia về tỉ lệ sử dụng hoặc sở hữu tiền mã hóa. Người dùng ở Việt Nam liên tiếp đứng hạng 1 trong xếp hạng về mức độ chấp nhận sử dụng tiền mã hóa theo báo cáo của Chainalysis (2022). Chính vì chưa có khuôn khổ pháp lí đầy đủ đối với tiền mã hóa nên đã có nhiều bất cập xảy ra liên quan đến các hoạt động giao dịch tiền mã hóa, đặc biệt là các hành vi lừa đảo gây tổn hại cho người tiêu dùng tài chính.

Để quản lí giám sát hiệu quả tiền mã hóa ở Việt Nam, cần triển khai thực hiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, cần xác định rõ tiền mã hóa là gì? Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì tiền mã hóa có được xem là hàng hóa hay không để có thể giao dịch và tiến hành thu thuế cho các giao dịch đó? Liệu tiền mã hóa có thể coi là tiền hay một loại tài sản tài chính không? Liệu tiền mã hóa có được xem như một phương tiện thanh toán hay không? Trả lời được các câu hỏi trên sẽ đưa ra được chính sách phân định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lí, giám sát chuyên ngành phù hợp.

Thứ hai, dù công nhận tiền mã hóa là hàng hóa hay là một tài sản tài chính, cần có những nghiên cứu toàn diện và khoa học để có cơ chế giám sát chặt chẽ, hỗ trợ bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, dần dần khắc phục các nhược điểm và đẩy mạnh khai thác những ưu điểm của tiền mã hóa, phát triển thành công cụ hữu hiệu cho nền tài chính thời đại mới, bắt kịp tốc độ công nghiệp hóa của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, nên tận dụng thế mạnh của công nghệ đằng sau tiền mã hóa thay vì tập trung nhiều vào việc thắt chặt quá mức cần thiết loại tiền này. Công nghệ Blockchain mang lại nhiều lợi thế cho hệ thống tài chính, đặc biệt là đối với hệ thống thanh toán.

Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tăng cường các biện pháp quản lí, giám sát đối với các giao dịch liên quan tới tiền mã hóa xuyên biên giới.

Cuối cùng, cần có khung pháp lí hoàn thiện chỉ định rõ ràng, giúp doanh nghiệp và người dân có cái nhìn đầy đủ hơn về tiền mã hóa và công nghệ Blockchain.

Từ việc xem xét kinh nghiệm của các nước trên thế giới và thực tiễn Việt Nam thời gian qua cho thấy: Việc thừa nhận tiền mã hóa là điều thật sự cần thiết trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập toàn cầu và đối diện với nền công nghiệp 4.0. Nhưng thừa nhận ở mức độ nào và xây dựng khung pháp lí như thế nào để kiểm soát và quản lí nó một cách hiệu quả mới là điều mà chúng ta quan tâm. Mặc dù không có chức năng thanh toán, nhưng tiền mã hóa có thể được giao dịch như một loại chứng khoán theo mô hình của Thái Lan, để từ đó Nhà nước có thể quy định điều kiện phát hành, tham gia đầu tư, mua bán trao đổi tiền mã hóa trên các sàn giao dịch. Thu nhập có được từ hoạt động đầu tư tiền mã hóa sẽ được đánh thuế thu nhập cá nhân hoặc thu nhập doanh nghiệp, tùy vào chủ thể tham gia. Từ đó, Nhà nước có thể kiểm soát tốt các giao dịch liên quan đến loại tài sản đặc biệt này, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân. Bằng cách đó, Nhà nước cũng có thể kiểm soát, ngăn ngừa và hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mã hóa cho các hoạt động phi pháp như tài trợ khủng bố, rửa tiền, lừa đảo…

4. Kết luận

Dưới góc độ kinh tế hay dưới góc độ kĩ thuật, cho đến nay, tiền mã hóa vẫn tồn tại và giao dịch mua bán, trao đổi tiền mã hóa vẫn đang diễn ra rất sôi động trên thế giới. Thực tế cho thấy, trên các sàn giao dịch quốc tế về tiền mã hóa, Việt Nam lại nằm trong số 10 quốc gia giao dịch về tiền mã hóa nhiều nhất trên thế giới. Tiền mã hóa hiện đang là cơn sốt cho giới tài chính nói riêng và cho toàn nền kinh tế nói chung. Bên cạnh những ích lợi, tiền mã hóa còn tiềm ẩn những rủi ro có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thế giới, do vậy, cần có phương pháp quản lí, giám sát đúng đắn để không những phòng ngừa rủi ro mà còn khai thác hiệu quả tiềm năng của các công cụ tài chính thời đại mới này, góp phần phát triển nền kinh tế, làm tiền đề đẩy mạnh tiến độ hoàn thành Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Tài liệu tham khảo:

1. Chainalysis (2022), The 2022 Geography of Cryptocurrency Report. https://blog.chainalysis.com/reports/2022-global-crypto-adoption-index/

2. FINMA (2018), Guidelines for enquiries regarding the regulatory

framework for initial coin offerings (ICOs).

3. Kharpal Arjun (2018), “There’s a $799 hack-proof smartphone designed to keep your cryptocurrencies safe”, CNBC, https://www.cnbc.com/2018/02/27/sikur-cryptocurrency-wallet-martphone.html

4. White Adam (16/12/2017), GDAX’s White Sees growing Interest in Digital Currencies, Bloomberg Technology.

5. Möbert Jochen, Bitcoin: Myths, misconceptions and misunderstandings, 09/02/2018, EU Monitor Global financial markets, Deutsche Bank research.

6. Mark Gates (2018). Bản chất của Blockchain, Bitcoin, hợp đồng thông minh và tương lai của tiền tệ. NXB Lao động.

7. TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2018). Bitcoin và những vấn đề đặt ra. Tạp chí Tài chính. http://m.tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binhluan/bitcoin-va-nhung-van-de-dat-ra-142519.html

8. Võ Hữu Phước, TS. Võ Thị Quý (2017). Tiền ảo Bitcoin và một số khuyến nghị chính sách quản lý tại Việt Nam. Tạp chí tài chính. http://m.tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/tien-ao-bitcoin-va-motso-khuyen-nghi-chinh-sach-quan-ly-tien-ao-o-vietnam-128885.html

9. Các nước đang quản lý tiền kỹ thuật số như thế nào? (2018). https://vietstock.vn/2018/03/cacnuoc-dang-quan-ly-tien-ky-thuat-so-nhu-thenao-4309-589059.htm

10. Việt Nam: Chính phủ "mạnh tay với tiền ảo". (2018). https://www.bbc.com/vietnamese/business-43754321


PGS., TS. Lê Thị Kim Nhung và ThS. Nguyễn Lê Đức
Trường Đại học Thương mại


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng