Phát triển thị trường phái sinh hàng hóa tại Trung Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam

Quốc tế
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, giao dịch phái sinh hàng hóa có những bước tiến vượt bậc, với tốc độ tăng trưởng vượt trên cả tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán. Tại Việt Nam, tuy mới chỉ...
aa

Trong khoảng 10 năm trở lại đây, giao dịch phái sinh hàng hóa có những bước tiến vượt bậc, với tốc độ tăng trưởng vượt trên cả tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán.

Tại Việt Nam, tuy mới chỉ ở những bước đi đầu tiên của quá trình phát triển, thị trường phái sinh hàng hóa đang ngày càng thu hút được sự quan tâm của đông đảo các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp. Thị trường phái sinh hàng hóa đã trở thành một kênh huy động vốn cho nền kinh tế cũng như đóng vai trò như một công cụ phòng ngừa rủi ro cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Vấn đề làm thế nào để phát triển thị trường đầy tiềm năng này trong thời gian tới là một câu hỏi mang tính cấp thiết, cần có lộ trình hợp lý, rõ ràng, trong đó cần tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia đi trước về phát triển thị trường phái sinh hàng hóa. Trung Quốc là quốc gia có thị trường phái sinh hàng hóa phát triển từ rất sớm, có tốc độ tăng trưởng nhanh và hiện đang là một trong những thị trường phái sinh hàng hóa hàng đầu trên thế giới. Chính vì vậy, bài viết đi sâu nghiên cứu các đặc điểm về quản lý và điều hành thị trường phái sinh hàng hóa của quốc gia này, từ đó rút ra một số kinh nghiệm đối với thị trường phái sinh hàng hóa Việt Nam.

1. Khái quát về thị trường phái sinh hàng hóa Trung Quốc

Lịch sử của thị trường phái sinh hàng hóa Trung Quốc bắt đầu với sự ra đời của thị trường bán buôn thóc vào tháng 10 năm 1990 tại Trịnh Châu, thủ phủ tỉnh Hà Nam - vùng sản xuất nông nghiệp chính tại Trung Quốc. Tại thời điểm đó, thị trường bán buôn gạo chỉ đáp ứng các giao dịch giao ngay, nhưng rất nhanh chóng sau đó đã phát triển thêm các giao dịch tương lai (Williams và cộng sự, 1998). Tuy nhiên, do sự tham gia của quá nhiều nhà đầu cơ chưa có kinh nghiệm và việc điều hành, giám sát thị trường không hiệu quả, trong suốt một thập kỷ đầu tiên, thị trường này đã trải qua giai đoạn không ổn định. Vào năm 2000, một cuộc cải tổ lớn đã diễn ra, trong đó số lượng các sở giao dịch giảm từ 50 xuống chỉ còn 3. Sau đó, thị trường đã chứng kiến một giai đoạn phát triển tương đối ổn định cho tới khi hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu ra đời vào năm 2010. Thị trường tương lai các sản phẩm tài chính đã thu hút sự quan tâm lớn của giới đầu tư với các giao dịch tương lai và do đó, thị trường hợp đồng tương lai hàng hóa cũng được hưởng lợi với khối lượng giao dịch tăng vọt. Tuy nhiên, không lâu sau đó, các nhà điều hành đã đưa ra một vài chính sách để kiềm chế hiện tượng đầu cơ quá mức nhằm ngăn chặn khủng hoảng có thể xảy ra. Cụ thể, việc tăng ký quỹ, giới hạn về giá và phí giao dịch đã dẫn đến sự sụt giảm đáng kể trong khối lượng giao dịch vào năm 2011. (Hình 1)


Nhìn chung, thị trường tương lai hàng hóa tại Trung Quốc đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong khoảng 20 năm gần đây. Giá trị giao dịch trên thị trường tăng từ khoảng 3 triệu Nhân dân tệ lên 113 triệu Nhân dân tệ trong giai đoạn 2001 - 2010 (CFA, 2015) và lên tới 322 triệu Nhân dân tệ vào năm 2020. Năm 2018, 6 trong số 10 hợp đồng giao dịch nhiều nhất thế giới được giao dịch tại Trung Quốc (Fan và Zhang, 2019). Trung Quốc chiếm tới khoảng 56% lượng cầu trên toàn thế giới đối với nickel; 50% đối với than đá, đồng và thép; 47% đối với nhôm và thịt lợn (Visual Capitalist, 2018). Để đáp ứng quá trình chuyển dịch kinh tế, nhu cầu đối với các loại hàng hóa được dự đoán sẽ còn tăng cao hơn nữa (FT, 2017).

Sau hơn một thập kỷ thống nhất, hiện tại thị trường tương lai Trung Quốc đã chia thành một số sở giao dịch bao gồm: Sở Giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE), Sở Giao dịch hàng hóa Trịnh Châu (ZCE), Sở Giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE), Sở Giao dịch hợp đồng tương lai tài chính Trung Quốc (CFFEX) và Sở Giao dịch năng lượng quốc tế Thượng Hải (INE).

2. Đặc điểm của thị trường phái sinh hàng hóa Trung Quốc

Thứ nhất, nhà đầu tư cá nhân chiếm ưu thế trên thị trường. Nhìn chung, các tài khoản giao dịch trên thị trường hàng hóa Trung Quốc được chia thành tài khoản cá nhân và các tài khoản phi cá nhân (bao gồm tổ chức, các công ty quản lý tài sản và các tổ chức quản lý rủi ro). Vào cuối năm 2016, có khoảng 1,18 triệu tài khoản giao dịch, trong đó 97,5% là tài khoản cá nhân (CFA, 2016). Mặc dù có sự tham gia của các quỹ đầu tư và các công ty quản lý tài sản, số lượng tài khoản tổ chức chỉ khoảng 16.500 tài khoản vào năm 2016. Tuy nhiên, số tài khoản tổ chức cũng có sự tăng trưởng khá mạnh (49,5% vào năm 2016 và 173,8% vào năm 2015).

Về quy mô của các tài khoản, số liệu thống kê vào năm 2015 cho thấy, 94,01% nhà đầu tư giữ tài khoản ký quỹ ở mức dưới 100.000 Nhân dân tệ (tương đương 15.000 USD), 5,72% nhà đầu tư có tài khoản ký quỹ từ 100.000 đến 10 triệu Nhân dân tệ và phần còn lại là 0,27%. Một điểm đáng chú ý là tổng số vốn được quản lý bởi các nhà đầu tư là tổ chức chiếm khoảng 38% tổng số vốn trên thị trường, tuy nhiên tổng khối lượng giao dịch của những nhà đầu tư này chỉ chiếm khoảng 9,8% khối lượng giao dịch toàn thị trường.

Thứ hai, thị trường đối mặt với tình trạng đầu cơ quá mức. Đây cũng là một trong những hệ quả không mong muốn của một thị trường có phần lớn là nhà đầu tư cá nhân. Allen và cộng sự (2006) chỉ ra rằng, mong muốn kiếm tiền nhanh chóng cùng với hành lang pháp lý còn lỏng lẻo ở Trung Quốc đã tạo điều kiện cho hoạt động đầu cơ. Wang và cộng sự (2006) kết luận rằng, các nhà đầu tư Trung Quốc có xu hướng đầu cơ, thiếu am hiểu về rủi ro, kiến thức và các kỹ năng đầu tư. Chen (2007) chỉ ra rằng, các nhà đầu tư Trung Quốc chịu ảnh hưởng từ các sai lệch trong hành vi như hiệu ứng sắp đặt (disposition effect), sự tự tin quá mức cao hơn so với các nhà đầu tư tại Mỹ. Về mặt lý thuyết, chức năng chính của một thị trường tương lai là đảm bảo khả năng chuyển giao rủi ro về giá trên thị trường giao ngay. Mặc dù khối lượng giao dịch lớn có thể thể hiện tính thanh khoản tốt trên thị trường, tuy nhiên, một thị trường có thể gặp tình trạng đầu cơ quá mức nếu khối lượng đó không phù hợp với quy mô tài sản trên thị trường cơ sở. Ví dụ như Williams và cộng sự (1998) đã chỉ ra rằng, khối lượng hợp đồng mở (OI) của hợp đồng tương lai đậu xanh vào năm 1996 của Trung Quốc gấp ba lần tổng sản lượng thực tế trên toàn quốc gia. Citi Group (2016) chỉ ra rằng, thời gian nắm giữ trung bình của một hợp đồng trên thị trường chỉ dưới 4 tiếng. Báo cáo của Bloomberg (2018) cho thấy, khối lượng giao dịch của chỉ riêng hợp đồng tương lai táo tháng 5/2018 đã chiếm một nửa sản lượng hàng năm của toàn thế giới. Các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư tổ chức có kinh nghiệm, kỹ năng và thông tin tốt hơn các nhà đầu tư Trung Quốc. Do đó, nếu các nhà đầu tư này được khuyến khích tham gia thị trường, họ có thể cải thiện chất lượng thị trường thông qua việc giảm sự biến động về giá (Li, Nguyen, Pham, & Wei, 2011; Fan, Fernandez - Perez, Indriawan & Todorova, 2019). Tuy nhiên, việc tham gia thị trường tương lai hàng hóa của Trung Quốc vẫn khá khó khăn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Hiện tại, chỉ các nhà đầu tư là thành viên của Chương trình các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài được phê duyệt (RQFII) mới được phép đầu tư. Thành viên của Chương trình phải được Chính phủ phê duyệt và chấp thuận, đồng thời cũng có giới hạn số lượng thành viên. Các nhà đầu tư cá nhân nước ngoài thì chỉ được phép giao dịch hợp đồng dầu thô, quặng, sắt và axit terephthalic tinh khiết (PTA).

3. Quản lý thị trường phái sinh hàng hóa Trung Quốc

Về mặt điều hành và cơ chế hoạt động của thị trường, các sở giao dịch được quản lý trực tiếp bởi Chính phủ dưới dạng các tổ chức công. Cơ chế này khác so với các nước phương Tây như Mỹ và các nước châu Âu, tại đó các tổ chức quản lý là các công ty được niêm yết. Điều này cũng chỉ ra rằng, ưu tiên của các sở giao dịch tại Trung Quốc không phải là mục tiêu lợi nhuận hay tối đa hóa quyền lợi của cổ đông. Nghiên cứu của Bai và cộng sự (2016) cho thấy, các sở giao dịch dưới dạng tổ chức công tại Trung Quốc hầu như kém hiệu quả và bị động trên thị trường cạnh tranh. Do các sở giao dịch chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến tổ chức giao dịch, ví dụ như quản lý các hợp đồng, thực hiện giao dịch và với rủi ro chính trị tiềm ẩn, tình trạng quan liêu có thể làm giảm hiệu quả hoạt động của các sở giao dịch hàng hóa tại Trung Quốc (Fan và Zhang, 2019). Bên cạnh đó, ưu tiên chính của các sở giao dịch là duy trì sự ổn định thị trường, điều này dẫn tới việc can thiệp thường xuyên hơn và các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn (thông qua giới hạn về giá, yêu cầu ký quỹ và giới hạn vị thế) so với các thị trường phát triển.

Giới hạn giá

Về giới hạn giá, tại Trung Quốc có cơ chế mở rộng với 3 đến 5 cấp độ. Điều này có nghĩa là nếu thị trường đạt tới giới hạn về giá đầu tiên, các giới hạn giá mở rộng sẽ được áp dụng ở những ngày tiếp theo, cho tới khi giao dịch bị dừng lại. Các giới hạn mở rộng tùy thuộc vào hàng hóa và từng sở giao dịch. Ngoài ra, giới hạn giá có thể tăng lên trong các tháng đáo hạn. Ví dụ tại DCE, giới hạn giá hàng ngày đầu tiên cho tất cả các hợp đồng trong các tháng không phải tháng đáo hạn là 4% so với giá tham chiếu của ngày trước đó, trong khi con số này là 6% cho các tháng đáo hạn. Một đặc điểm nữa liên quan đến giới hạn giá đó là các sở giao dịch tại Trung Quốc có thể điều chỉnh giới hạn bất cứ khi nào họ thấy cần thiết. Việc đưa ra nhiều cấp độ của giới hạn giá nhằm mục tiêu hạn chế hoạt động đầu cơ và thao túng giá; tuy nhiên, Liu và AN (2011) lập luận rằng, các biện pháp này có thể ảnh hưởng đến thị trường thông qua việc phản ánh các thông tin mới trong giá tương lai của hàng hóa.

Ký quỹ

Ký quỹ tại Trung Quốc tương đối ổn định hơn so với ký quỹ tại thị trường các nước phương Tây (Fan và Zhang, 2019). Yêu cầu ký quỹ chỉ tăng lên đáng kể khi một hợp đồng gần đến tháng đáo hạn. Tại DCE, tỉ lệ ký quỹ 5% được áp dụng từ ngày giao dịch đầu tiên đến ngày 15 của tháng trước tháng đáo hạn, sau đó tăng lên 10% cho phần còn lại của tháng đó. Tỉ lệ này tăng lên 20% khi hợp đồng bước vào tháng đáo hạn. ZCE và SHFE cũng áp dụng cơ chế tương tự nhưng với mức ký quỹ khác nhau đối với các hàng hóa khác nhau. Các thay đổi về ký quỹ tại thị trường Trung Quốc hầu như được quyết định bởi các giới hạn về giá. Điều này có nghĩa là nếu mức giới hạn giá đầu tiên được đạt tới, yêu cầu ký quỹ sẽ tăng lên ở mức giới hạn về giá cao nhất. Ví dụ như giới hạn giá của một hợp đồng tương lai là 5% và mức ký quỹ là 4%, nếu như giá đóng cửa tăng lên 5%, giới hạn giá và yêu cầu ký quỹ sẽ tự động tăng lên lần lượt 8% và 10% cho ngày giao dịch tiếp theo. Do tính chất ký quỹ biến động theo thời gian như vậy sẽ khiến các nhà đầu cơ hạn chế tham gia các hợp đồng gần đến ngày đáo hạn.

Giới hạn vị thế

Giới hạn vị thế trong tháng đáo hạn khá phổ biến trên các thị trường tương lai trên thế giới, tuy nhiên các nhà đầu tư cá nhân không được giữ vị thế trong tháng đáo hạn. Thêm vào đó, vị thế của họ bị giới hạn trong tháng trước tháng đáo hạn. Ví dụ đối với hợp đồng tương lai lúa mỳ, số lượng vị thế tối đa mà một thành viên không phải là tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân có thể giữ trước ngày 15 của tháng trước tháng đáo hạn là 2.000 hợp đồng và chỉ còn 600 hợp đồng cho phần còn lại của tháng đó (Fan và Zhang, 2019). Đặc điểm này của giới hạn vị thế cùng với đặc điểm về yêu cầu ký quỹ biến động theo thời gian đã trình bày ở trên chỉ ra rằng, các hợp đồng càng gần ngày đáo hạn sẽ càng kém thanh khoản.

3. Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam

Thứ nhất, liên quan đến vấn đề phát triển sản phẩm mới: Việc đưa ra các sản phẩm phái sinh mới cần được liên hệ chặt chẽ với thị trường cơ sở của hàng hóa đó. Điều này giúp thu hút sự chú ý từ các nhà đầu tư bởi niềm tin vào các thông tin họ có trong tay. Các nhà môi giới trên thị trường tương lai cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giới thiệu các sản phẩm mới ra thị trường. Họ có thể đóng vai trò như cầu nối để xác định nhu cầu thị trường tại giai đoạn trước khi sản phẩm được ra mắt cũng như trong giai đoạn phát triển của sản phẩm. Sở giao dịch cần có cơ chế khuyến khích sự tham gia của các nhà môi giới hợp đồng tương lai trong các chương trình phát triển sản phẩm của mình.

Thứ hai, thanh khoản thị trường có thể được cải thiện thông qua sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân. Kinh nghiệm từ thị trường Trung Quốc cho thấy, các hợp đồng nhỏ có thể được mua bán với chi phí giao dịch thấp hơn nhờ tính thanh khoản và quy mô lô (lot size) giao hàng lớn hơn. Các hợp đồng quy mô lô lớn giảm được chi phí của các chủ thể tham gia khi chúng phù hợp với nhu cầu trên thị trường cơ sở. Điều này chỉ ra rằng, có thể đưa ra các hợp đồng quy mô nhỏ hơn để thu hút các nhà đầu tư cá nhân, qua đó tăng tính thanh khoản cho thị trường mà không gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến phí giao dịch.

Thứ ba, chi phí giao dịch cần trở nên cạnh tranh hơn để thị trường có thể thành công. Thị trường hàng hóa Trung Quốc không có thuế giao dịch hàng hóa, hoạt động kho hàng hiệu quả và có mức ký quỹ tương đối thấp. Kinh nghiệm từ thị trường này cho thấy, tỷ lệ ký quỹ thấp cùng với sự can thiệp thường xuyên là yếu tố dẫn tới thành công của thị trường.

Thứ tư, thị trường sẽ không chỉ phát triển trên nền móng phát triển của các sở giao dịch mà còn phải dựa trên các chính sách ổn định. Do đó, chính phủ đóng vai trò quan trọng trong vấn đề này thông qua việc đưa ra các chính sách ổn định về xuất nhập khẩu, thị trường chứng khoán và giao dịch của các hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông sản. Trong dài hạn, một thị trường tương lai hàng hóa nông sản ổn định và hiệu quả sẽ giúp những người nông dân có thêm thông tin về giá cả thị trường. Họ có thể sử dụng những thông tin này để ra các quyết định về gieo trồng, sản xuất các sản phẩm nông nghiệp.

Thứ năm, trong bối cảnh thị trường sản xuất, tiêu dùng nội địa và thương mại toàn cầu biến động không ngừng, thêm vào đó là các rủi ro tiềm tàng như đại dịch Covid-19 hay chiến tranh thương mại giữa các quốc gia, các chính sách điều hành cũng cần được định kỳ xem xét, đánh giá lại một cách thường xuyên.

Thứ sáu, chính sách giới hạn các công ty nội địa trong việc tự bảo hiểm rủi ro trên các thị trường quốc tế cũng giống như một hình phạt cho các nhà tự bảo hiểm này cho tới khi thanh khoản trên thị trường đạt yêu cầu, được sử dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, kinh nghiệm Trung Quốc chỉ ra rằng, hỗ trợ từ phía Nhà nước cho các doanh nghiệp tới khi thị trường đạt đủ lượng thanh khoản cần thiết để đáp ứng nhu cầu thực hiện hoạt động tự bảo hiểm, lại tạo ra nhu cầu trong nước cho hoạt động này. Do đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ động bảo hiểm rủi ro trên thị trường nội địa thông qua các biện pháp gián tiếp.

Tài liệu tham khảo:

1. Bloomberg (2018), 46 million tons of apples a day keeps the doctor away.

2. China Futures Association (CFA) (2015), China Futures Markets Annual Report. China Futures Association.

3. China Futures Association (CFA) (2016), China Futures Markets Annual Report. China Futures Association.

4. Fan, J. H.; Zhang, T. (2019), The Untold Story of Commodity Futures in China. Journal of Futures Markets, 40(4), 671-706.

5. Fan, J. H.; Fernandez-Perez, A.; Indriawan, I.; Todorova, N. (2019), Internationalization of futures markets: Lessons from China. Working paper. Griffith University.

6. Fan, J. H.; Mo, D.; Zhang, T. (2019), The ‘necessary evil’ in Chinese commodity markets. Working paper. Griffith University.

7. FT. (2017), China commodities slip as copper sell-off continues.

8. Li, D.; Nguyen, Q. N.; Pham, P. K.; Wei, S. X. (2011), Large foreign ownership and firm-level stock return volatility in emerging markets. Journal of Financial and Quantitative Analysis, 46(4), 1127-1155.

9. Visual Capitalist (2018), China’s staggering demand for commodities.

10. Wang, X. L.; Shi, K.; Fan, H. X. (2006), Psychological mechanisms of investors in Chinese Stock Markets. Journal of Economic Psychology, 27(6), 762-780.

11. Williams, J.; Peck, A.; Park, A.; Rozelle, S. (1998), The emergence of a futures market: Mungbeans on the China Zhengzhou Commodity Exchange. The Journal of Futures Markets, 18(4), 427.

12. Một số tài liệu liên quan khác.


TS. Mai Hương Giang


Học viện Ngân hàng
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc