Phát triển ngành công nghiệp điện tử của Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới

Bài viết khoa học chuyên sâu
Ngành công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, là ngành đóng vai trò kết nối, động lực phát triển chung cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (KTTĐPN) và cả nước, hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Năm 2020, vùng KTTĐPN đóng góp 55,8% GDP công nghiệp của cả nước.
aa

Tóm tắt: Bài viết phân tích bức tranh ngành công nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2020 thông qua xử lí dữ liệu điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê trên các tiêu chí số lượng doanh nghiệp, giá trị sản xuất, quy mô vốn, lao động, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Qua đó, chỉ rõ các tồn tại, hạn chế trong phát triển công nghiệp điện tử của Thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp để thúc đẩy phát triển công nghiệp điện tử của Thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Từ khóa: Công nghiệp điện tử, Thành phố Hồ Chí Minh.

DEVELOPING THE ELECTRONICS INDUSTRY IN HO CHI MINH CITY IN THE NEW CONTEXT

Abstract: The article analyzes the picture of electronics industry in Ho Chi Minh city in period of 2011 - 2020 through processing a General Statistics Office's data for businesses in the City. The analyzed criterias are based on number of businesses, production values, capital, labours, businesses performance. The article shows limitations in the electronics industry development in Ho Chi Minh City, thereby proposing recommendations for developing the electronics industry in Ho Chi Minh City to 2030, vision to 2045.

Keywords: Electronics industry, Ho Chi Minh City.


1. Giới thiệu

Ngành công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, là ngành đóng vai trò kết nối, động lực phát triển chung cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (KTTĐPN) và cả nước, hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Năm 2020, vùng KTTĐPN đóng góp 55,8% GDP công nghiệp của cả nước.

Công nghiệp điện tử là một trong các ngành công nghiệp chủ lực của Thành phố Hồ Chí Minh, thời gian qua đã có bước phát triển khá mạnh mẽ, khẳng định được vị thế trong nước và quốc tế. Đây cũng là ngành công nghiệp được Thành phố Hồ Chí Minh xác định là một trong các ngành đầu tư phát triển mạnh trong thời gian tới, gắn với chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng phát triển các ngành công nghiệp thâm dụng chất xám, công nghệ tiên tiến, phát triển kinh tế số và đổi mới sáng tạo. Do vậy, việc phân tích, đánh giá về những rào cản, tồn tại trong ngành công nghiệp điện tử của Thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp phát triển có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố.

2. Tổng quan về ngành điện tử Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2020

2.1. Số lượng doanh nghiệp


Ngành công nghiệp điện tử bao gồm ba nhóm ngành chính là sản xuất máy tính, thiết bị viễn thông và thiết bị điện tử tiêu dùng. Công nghiệp điện tử Việt Nam phát triển mạnh từ năm 2010 trở lại đây, đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm lắp ráp linh kiện điện tử của thế giới với vị trí đứng thứ 12 thế giới, đứng thứ 3 khu vực ASEAN về xuất khẩu điện tử.

Vùng KTTĐPN có số lượng doanh nghiệp ngành điện tử chiếm 48% số lượng doanh nghiệp cùng ngành của cả nước vào năm 2011, số lượng doanh nghiệp của vùng KTTĐPN tăng đều qua các năm, tuy nhiên đến năm 2020, với quy mô 850 doanh nghiệp, tỉ trọng doanh nghiệp điện tử của toàn vùng KTTĐPN chỉ còn chiếm 33,9% số lượng doanh nghiệp cùng ngành của cả nước. Ngược lại, doanh nghiệp điện tử vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (KTTĐBB) tăng tỉ trọng từ 41% lên 46% số lượng doanh nghiệp cùng ngành của cả nước trong cùng giai đoạn. Chiến lược đuổi bắt trong ngành công nghiệp điện tử của các vùng tăng tốc khá mạnh, các địa phương ngoài vùng kinh tế trọng điểm của cả nước tăng mạnh về số lượng doanh nghiệp, đưa tỉ trọng từ 7,4% số lượng doanh nghiệp ngành điện tử của cả nước gia tăng lên 18% trong cùng giai đoạn.

Năm 2020, Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng doanh nghiệp ngành điện tử dẫn đầu toàn vùng KTTĐPN với 73% số lượng doanh nghiệp điện tử; các địa phương khác của vùng KTTĐPN thu hút đầu tư rất thấp trong ngành điện tử. (Bảng 1)

Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp ngành điện tử vùng KTTĐPN

so với các địa phương và cả nước


Đơn vị tính: Doanh nghiệp

Nguồn: Xử lí từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê năm 2011, 2016, 2020

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, cơ cấu doanh nghiệp theo loại hình kinh tế có sự chuyển biến mạnh mẽ trong 10 năm qua. Năm 2011, các doanh nghiệp tư nhân chiếm tỉ trọng cao nhất trong số lượng doanh nghiệp, kế đến là công ty cổ phần có vốn nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) tư nhân, công ty TNHH có vốn nhà nước. Tuy nhiên, đến năm 2020, số doanh nghiệp theo loại hình công ty TNHH và công ty cổ phần không có vốn nhà nước chiếm tỉ trọng chủ yếu. Doanh nghiệp nước ngoài dưới hình thức 100% vốn nước ngoài và liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài chiếm tỉ trọng nhỏ về số lượng doanh nghiệp, khoảng 5,6% số lượng doanh nghiệp điện tử trong ngành tại Thành phố Hồ Chí Minh. (Bảng 2)

Bảng 2: Số lượng và cơ cấu doanh nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh

theo loại hình kinh tế giai đoạn 2011 - 2020

Nguồn: Xử lí từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp năm 2011, 2020


2.2. Giá trị sản xuất của doanh nghiệp ngành điện tử Thành phố Hồ Chí Minh

Ngành điện tử vùng KTTĐPN mặc dù chỉ chiếm số lượng nhỏ trong tổng số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 1,5% số lượng doanh nghiệp chế biến, chế tạo của vùng KTTĐPN năm 2020), tuy nhiên, ngành đóng góp hằng năm 6,7% giá trị sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo của toàn Vùng, góp phần thúc đẩy công nghiệp điện tử của Việt Nam và hoạt động xuất khẩu của cả nước. Với xu thế phát triển của các ngành công nghiệp 4.0, quy mô giá trị sản xuất của ngành công nghiệp điện tử cả nước và vùng KTTĐPN tăng mạnh qua các năm. Trong vòng 10 năm, quy mô giá trị sản xuất ngành điện tử của cả nước tăng gấp 9,7 lần, của toàn vùng KTTĐPN tăng gấp 5,1 lần; đến năm 2020, giá trị sản xuất ngành điện tử của vùng KTTĐPN đạt hơn 269.782 tỉ đồng. (Bảng 3)

Bảng 3: Giá trị sản xuất ngành điện tử giai đoạn 2011 - 2020

của Thành phố Hồ Chí Minh so với các địa phương vùng KTTĐPN và cả nước

Nguồn: Xử lí từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp Việt Nam của Tổng cục Thống kê

Năng suất lao động được xác định bằng tiêu chí giá trị sản xuất bình quân đầu lao động của ngành điện tử vùng KTTĐPN, đạt bình quân 2.605 triệu đồng/lao động vào năm 2020, so với con số 688 triệu đồng/lao động vào năm 2011. Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu về năng suất lao động ngành điện tử so với toàn Vùng và cao hơn năng suất lao động cùng ngành so với cả nước; tốc độ tăng năng suất lao động ngành điện tử của Thành phố Hồ Chí Minh vượt trội so với các địa phương trong cả nước.

Trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp điện tử cả nước, vùng KTTĐPN đóng góp về giá trị sản xuất của ngành có xu hướng giảm dần qua các năm, từ 19,5% năm 2011 xuống còn 10,2% năm 2020. Đồng thời, tương quan giữa tỉ trọng doanh nghiệp và tỉ trọng giá trị sản xuất của doanh nghiệp điện tử vùng KTTĐPN trong cùng ngành đối với cả nước cho thấy, mặc dù Vùng chiếm tỉ trọng lớn về số lượng doanh nghiệp của ngành điện tử cả nước nhưng đóng góp về giá trị sản xuất của ngành đối với cả nước chưa tương xứng. Năm 2011, vùng KTTĐPN chiếm 48,2% số doanh nghiệp điện tử cả nước, nhưng đóng góp về giá trị sản xuất của ngành điện tử của vùng KTTĐPN đối với cả nước chỉ đạt 19,5%, đến năm 2020, tỉ lệ tương ứng là 33,9% và 10,2%. Tương quan giữa đóng góp về giá trị sản xuất và phân bổ doanh nghiệp vùng KTTĐPN, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai dẫn đầu về số lượng doanh nghiệp và đóng góp về giá trị sản xuất ngành điện tử. Tỉ trọng đóng góp của 03 tỉnh, thành này chiếm gần 98% giá trị sản xuất của ngành điện tử toàn Vùng giai đoạn 2011 - 2020; Long An đóng góp 1%; các địa phương khác là Bình Phước, Tiền Giang, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu đóng góp 1% giá trị sản xuất của ngành.

Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp trong giá trị sản xuất của ngành điện tử toàn vùng KTTĐPN gia tăng mạnh từ 46% năm 2011 lên 63% năm 2020, Bình Dương sụt giảm từ 36% xuống còn 23% trong cùng giai đoạn. Như vậy, tác động lan tỏa của công nghiệp điện tử đối với các địa phương khác trong vùng KTTĐPN chậm so với các nhóm ngành khác. (Hình 1)

Hình 1: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành điện tử vùng KTTĐPN

theo địa phương giai đoạn 2011 - 2020


Đơn vị tính: %

Nguồn: Xử lí từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp Việt Nam của Tổng cục Thống kê


Trong giá trị sản xuất ngành điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có sự gia tăng rất mạnh về giá trị sản xuất trong các thành phần kinh tế của ngành điện tử giai đoạn 2011 - 2020. Năm 2011, khu vực doanh nghiệp nhà nước liên doanh với nước ngoài chiếm 53% giá trị sản xuất ngành điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh, doanh nghiệp khác liên doanh với nước ngoài chiếm 40%, trong khi các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm tỉ trọng 0,47% giá trị sản xuất. Tuy nhiên, đến năm 2020, tại Thành phố Hồ Chí Minh, khu vực 100% vốn nước ngoài chiếm đến 96% giá trị sản xuất của toàn ngành điện tử; khu vực liên doanh nước ngoài chỉ chiếm tỉ trọng 0,025% giá trị sản xuất của ngành điện tử. Điều này cho thấy, sự phát triển của ngành điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc rất lớn từ khu vực doanh nghiệp nước ngoài.

2.3. Vốn sản xuất của doanh nghiệp ngành điện tử Thành phố Hồ Chí Minh

Mặc dù phần lớn doanh nghiệp trong lĩnh vực điện tử của Thành phố Hồ Chí Minh là khu vực tư nhân trong nước, tuy nhiên, quy mô vốn của các doanh nghiệp trong nước phần lớn là quy mô vốn nhỏ và vừa. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài quy mô vốn bình quân cao gấp 52 lần so với quy mô vốn bình quân của loại hình công ty TNHH tư nhân; gấp 122 lần so với loại hình công ty cổ phần trong nước; gấp 163 lần so với công ty TNHH 100% vốn nhà nước. (Bảng 4)

Bảng 4: Vốn trong doanh nghiệp ngành điện tử

tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020


Đơn vị tính: Triệu đồng

Nguồn: Xử lí từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp năm 2020

2.4. Lao động ngành điện tử

Về số lượng lao động sử dụng trong ngành điện tử cho thấy, đến năm 2020, quy mô lao động của ngành điện tử vùng KTTĐPN là 103.563 lao động, gấp 1,3 lần lao động của ngành năm 2011 và bằng 1/7 lao động của ngành dệt may toàn vùng KTTĐPN năm 2020. Tỉ trọng lao động ngành điện tử vùng KTTĐPN so với cả nước có xu hướng giảm dần từ 35,9% năm 2011 còn 13,6% trong năm 2020, ngược lại, vùng KTTĐBB có xu hướng mở rộng về quy mô và tỉ trọng lao động nhanh nhất trong các vùng kinh tế trọng điểm.

Mặc dù Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu về số lượng doanh nghiệp điện tử trong toàn vùng KTTĐPN, tuy nhiên, phân bổ lao động ngành điện tử năm 2020 tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm 36,6%, Bình Dương chiếm 34%, Đồng Nai chiếm 23,6%. (Bảng 5)

Bảng 5: Quy mô và cơ cấu lao động ngành điện tử vùng KTTĐPN

so với các địa phương và cả nước


Đơn vị tính: Người; %

Nguồn: Xử lí từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp Việt Nam của Tổng cục Thống kê


Về tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ngành điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh, các doanh nghiệp nước ngoài có quy mô sử dụng lao động bình quân cao hơn tất cả các loại hình doanh nghiệp khác. Về tỉ trọng lao động sử dụng theo thành phần kinh tế của ngành điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh, nếu năm 2011 số lao động ngành điện tử trong các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 76% tổng số lao động ngành điện tử của Thành phố (quy mô 18.535 lao động), thì đến năm 2020, số lao động trong các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên 32.797 lao động, chiếm 86,5% số lao động toàn ngành điện tử của Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm ngành điện tử.

2.5. Quy mô và hiệu quả sản xuất doanh nghiệp ngành điện tử

Về quy mô doanh nghiệp ngành điện tử có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 2011 - 2020, riêng năm 2020, quy mô lao động bình quân của ngành điện tử Thành phố Hồ Chí Minh sụt giảm mạnh do bối cảnh dịch bệnh Covid-19. Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai có quy mô lao động ngành điện tử/doanh nghiệp dẫn đầu toàn vùng KTTĐPN, trong khi Thành phố Hồ Chí Minh có quy mô bình quân/lao động có xu hướng giảm. Về quy mô vốn bình quân/doanh nghiệp, doanh nghiệp tại Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước có quy mô vốn/doanh nghiệp cao hơn so với các địa phương khác. (Bảng 6)

Bảng 6: Quy mô doanh nghiệp ngành điện tử

Nguồn: Xử lí từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp Việt Nam của Tổng cục Thống kê


Điều đáng lưu ý, số doanh nghiệp tư nhân chiếm tỉ trọng chủ yếu trong tổng số doanh nghiệp của ngành điện tử, tuy nhiên, quy mô vốn bình quân của các doanh nghiệp tư nhân trong nước rất thấp và chênh lệch lớn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kết quả đóng góp về doanh thu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm đến 96% vốn của toàn ngành, trong khi số lượng doanh nghiệp của khu vực này chỉ có 22%. Đồng thời, trong đóng góp doanh thu ngành điện tử của vùng KTTĐPN năm 2020 thì Thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 63%, Bình Dương 23%, Đồng Nai 11%. Các chỉ tiêu khác về doanh thu, lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp ngành điện tử khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều vượt trội so với các thành phần kinh tế khác, bất chấp những khó khăn của dịch bệnh Covid-19 trong năm 2020. Điều này cho thấy, doanh nghiệp FDI đóng vai trò trọng yếu trong sự phát triển của ngành và có tính chất hội tụ tại tam giác trọng điểm của Vùng.

Nhìn chung tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngành điện tử có tốc độ phát triển nhanh trong giai đoạn 2011 - 2020, tỉ trọng doanh nghiệp, giá trị sản xuất, lao động chiếm tỉ trọng cao trong toàn vùng KTTĐPN, năng suất lao động của doanh nghiệp ngành điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh luôn dẫn đầu toàn Vùng. Mặc dù vậy, sự phát triển của ngành điện tử phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các doanh nghiệp tư nhân trong nước có quy mô vốn, lao động nhỏ, mặc dù chiếm số lượng lớn về số doanh nghiệp nhưng đóng góp về giá trị sản xuất của ngành điện tử của khu vực tư nhân trong nước chiếm tỉ trọng rất thấp. (Bảng 7)


Bảng 7: Các chỉ tiêu năm 2020 theo loại hình doanh nghiệp ngành điện tử

tại Thành phố Hồ Chí Minh


Đơn vị tính: Triệu đồng

Nguồn: Xử lí dữ liệu điều tra doanh nghiệp năm 2020

3. Một số tồn tại, hạn chế và khuyến nghị chính sách phát triển ngành công nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh

Công nghiệp điện tử là một trong 04 ngành công nghiệp chủ lực của Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù ngành có tốc độ phát triển nhanh trong giai đoạn 2011 - 2020, song, vẫn tồn tại một số hạn chế trong quá trình phát triển.

Thứ nhất, sự phát triển công nghiệp ngành điện tử Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc chủ yếu vào các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Quy mô doanh nghiệp trong nước phần lớn thuộc quy mô nhỏ và vừa, mặc dù số lượng doanh nghiệp khu vực trong nước ngành điện tử chiếm tỉ trọng cao, song, đóng góp rất hạn chế trong sự phát triển của ngành điện tử Thành phố Hồ Chí Minh về giá trị đầu ra, năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kém so với khu vực FDI.

Thứ hai, thiếu tính liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương trong vùng KTTĐPN trong phát triển ngành điện tử.

Hiện nay, các doanh nghiệp FDI gần như sử dụng chuỗi đầu vào khép kín, số doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi liên kết ngành điện tử rất ít, chưa đáp ứng được yêu cầu đồng bộ về tiêu chuẩn kĩ thuật, linh kiện. Dữ liệu cho thấy, nguồn nguyên liệu sử dụng nhập khẩu từ ngoài ASEAN chiếm tỉ trọng cao nhất, kế đến là từ các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh, song, việc liên kết với các doanh nghiệp khác trong vùng KTTĐPN chỉ chiếm 5,5% cho thấy mức độ lan tỏa, liên kết của công nghiệp điện tử từ Thành phố Hồ Chí Minh đến các tỉnh, thành khác còn khá yếu. (Hình 2)

Hình 2: Cơ cấu nguyên liệu đầu vào cung cấp cho ngành điện tử

Đơn vị tính: %

Nguồn: Xử lí từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp Việt Nam của Tổng cục Thống kê


Thứ ba, thiếu hụt đội ngũ nhân lực lao động ngành điện tử cho Thành phố Hồ Chí Minh và toàn vùng KTTĐPN.

Hiện nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh, số trường đào tạo các ngành điện tử - công nghệ thông tin hệ đại học với chỉ tiêu tuyển sinh hằng năm dẫn đầu trong năm 2021 - 2022 là Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với quy mô tuyển sinh 2.045 chỉ tiêu; các trường thành viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với tổng quy mô tuyển sinh khoảng 4.000 sinh viên. Ngoài hệ thống các trường đại học, hệ thống các trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp đào tạo ngành điện tử, viễn thông với số lượng tuyển sinh không nhỏ. Song một thực tế, ngoại trừ các trường thuộc khối Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tuyển đủ chỉ tiêu, các ngành đào tạo điện tử - công nghệ thông tin các trường khối dân lập, tư thục tuyển sinh thường không đủ chỉ tiêu các ngành này. Nguyên nhân cho thấy, người học theo đuổi các ngành học này đòi hỏi tư duy toán học, tư duy phân tích cao, do vậy, nhiều học sinh không đạt vào hệ công lập hoặc ngại lựa chọn các chương trình này để theo học vì cho rằng không đủ năng lực. Ngoài ra, sinh viên theo học các chương trình này khó tốt nghiệp hơn so với các ngành học khác. (Bảng 8)

Bảng 8: Chỉ tiêu tuyển sinh đại học ngành điện tử - công nghệ thông tin


Đơn vị tính: Sinh viên

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Theo dự báo của Trung tâm dự báo nhân lực và nhu cầu thông tin thị trường lao động tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhu cầu nhân lực của Thành phố Hồ Chí Minh đối với ngành điện tử - công nghệ thông tin dao động khoảng 25.594 - 28.843 chỗ làm việc/năm, chiếm 9,06% tổng nhu cầu nhân lực hằng năm của Thành phố. Nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo là 95,21%; trong đó, trình độ sơ cấp: 22%, trung cấp: 21,08%, cao đẳng: 22,29%, đại học trở lên: 29,84% (FAMI, 2022). Các doanh nghiệp FDI ngành điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ dừng lại ở các công nghệ cơ bản, các phân khúc cao trong chuỗi giá trị ngành điện tử chưa được đầu tư mạnh liên quan đến rào cản chất lượng nhân lực trong đón đầu làn sóng dịch chuyển đầu tư từ các nước.

Thứ tư, tác động lan tỏa và liên kết công nghiệp điện tử của Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương phụ cận còn chậm phát triển.

Như trên đã đề cập, mức độ hội tụ về số lượng doanh nghiệp trong 10 năm qua của ngành điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh rất cao và có xu hướng dịch chuyển sang Bình Dương, Đồng Nai, song tốc độ dịch chuyển còn chậm.

Theo đánh giá của các doanh nghiệp điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh, doanh nghiệp đối mặt với những khó khăn sẽ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động (theo đánh giá từ 0 đến 10, trong đó, càng tiến về 10 càng rất quan trọng, càng tiến về 1 càng ít quan trọng, 0: Không liên quan). Theo đó, máy móc thiết bị, trình độ lao động, vốn, trình độ chuyên môn là những yếu tố bên trong có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp theo mức độ cao; trong khi đó, các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài bao gồm cơ sở hạ tầng giao thông, cơ sở hạ tầng cơ bản, cơ sở hạ tầng truyền thông là những yếu tố cho rằng có ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.

Sự thiếu vắng doanh nghiệp điện tử các địa phương khác vùng KTTĐPN trong phát triển công nghiệp điện tử có liên quan chặt chẽ đến yếu tố nội tại về khoa học công nghệ, trình độ chuyên môn của người lao động trong tiếp nhận đầu tư. (Bảng 9)

Bảng 9: Các rào cản đối với doanh nghiệp điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh

trong tham gia đổi mới sáng tạo năm 2020

Nguồn: Kết quả xử lí từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp năm 2020


Thứ năm, công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp ngành điện tử còn lạc hậu.

Công nghệ sử dụng trong ngành điện tử của Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay qua kênh tự mua chiếm tỉ trọng chủ yếu (93,9%) so với các kênh doanh nghiệp khác cung cấp (6%), hoặc kênh tự phát triển (0,1%). Hoạt động bảo trì, bảo dưỡng công nghệ trong ngành điện tử được thực hiện theo kênh tự bảo dưỡng (8,3%), thuê ngoài bảo dưỡng (12,5%), hoặc kết hợp cả hai (79%). Việc vận hành, bảo trì, bảo dưỡng được thực hiện bởi người nước ngoài (21%), người Việt Nam (75%) và kiều bào về Việt Nam làm việc (4%). Tính theo tuổi đời máy móc sử dụng trong ngành công nghiệp điện tử, doanh nghiệp sử dụng máy móc được sản xuất trước năm 2000 còn chiếm tỉ trọng cao so với mức bình quân của toàn Vùng và Việt Nam.

Do vậy, để thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh và vùng KTTĐPN, theo nhóm tác giả, cần có một số giải pháp đột phá sau:

Một là, hoàn thiện quy hoạch phát triển ngành điện tử vùng KTTĐPN.

Theo Marshall (1920), sự hội tụ có tác động ngoại tác tích cực đến phát triển các ngành công nghiệp. Để thúc đẩy sự phát triển ngành điện tử có tính chất bền vững cần hoàn thiện công tác quy hoạch công nghiệp điện tử toàn vùng KTTĐPN, xác định vùng lõi phát triển tại tam giác Thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai; vùng chuyển giao giai đoạn 2 tại Long An, Bà Rịa - Vũng Tàu; vùng tiềm năng phát triển giai đoạn 3 tại Tây Ninh, Bình Phước, Tiền Giang. Trong quy hoạch phát triển và triển khai quy hoạch cần thúc đẩy hình thành phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử trong vùng và liên kết với các nước phát triển để chuyển giao công nghệ.

Hai là, hoàn thiện thể chế chính sách để thu hút doanh nghiệp tham gia đầu tư.

Tận dụng lợi thế dịch chuyển đầu tư của các nước từ Trung Quốc sang các nước khác để đón đầu cơ hội dịch chuyển, trong đó, xây dựng môi trường đầu tư thân thiện, năng động, thích ứng với sự phát triển bền vững sẽ tạo niềm tin đối với nhà đầu tư trong dịch chuyển đầu tư. Đối với lĩnh vực điện tử - công nghệ thông tin là lĩnh vực có tính đổi mới sáng tạo cao, do vậy, về phía Thành phố Hồ Chí Minh, cần tăng cường đầu tư của khu vực nhà nước cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) và khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư cho R&D để thúc đẩy các hoạt động đổi mới sáng tạo. Tăng cường vai trò của công cụ pháp luật trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Hoàn thiện cơ chế thử nghiệm (Sandbox) cho doanh nghiệp khoa học công nghệ để thúc đẩy chuyển giao kết quả nghiên cứu, rút ngắn giữa kết quả nghiên cứu và ứng dụng trong thương mại hóa sản phẩm. Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cần có vai trò ươm tạo các doanh nghiệp, ý tưởng khởi nghiệp và hoạt động đổi mới sáng tạo bao gồm đổi mới sáng tạo sản phẩm, quy trình, marketing, tổ chức.

Ba là, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.

Rà soát lại năng lực đào tạo các ngành, nghề của các trường đại học, cao đẳng, trung cấp trên địa bàn; tính toán lại nhu cầu lao động của doanh nghiệp trong ngành để đào tạo nhân lực. Cập nhật chương trình, nội dung đào tạo theo chuẩn quốc tế; gắn kết giữa nhà trường - doanh nghiệp để tăng trải nghiệm và thực tiễn trong đào tạo.

Cập nhật và trang bị các thiết bị, hạ tầng trong đào tạo nhân lực ngành điện tử tại các trường trọng điểm khu vực phía Nam, đặc biệt là Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Bách khoa, Đại học Sư phạm kỹ thuật, Đại học Công nghiệp. Song song đó, cần phát triển hệ thống trường cao đẳng, đào tạo nghề trong lĩnh vực điện tử để giải quyết bài toán lao động cho các doanh nghiệp.

Bốn là, thúc đẩy đầu tư hạ tầng trong lĩnh vực công nghiệp điện tử.

Các hạ tầng giao thông, hạ tầng cơ bản, hạ tầng truyền thông đóng vai trò động lực mở đường cho dịch chuyển đầu tư của doanh nghiệp. Song hiện nay, sự phát triển của khu công nghiệp, khu công nghệ cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng bão hòa về quỹ đất phát triển, trong đó có các lĩnh vực đầu tư trong ngành điện tử - công nghệ thông tin. Do vậy, xu hướng liên kết với các địa phương, đầu tư cơ sở hạ tầng có ý nghĩa quan trọng trong kết nối, thúc đẩy liên kết công nghiệp điện tử toàn vùng KTTĐPN. Dịch chuyển cơ cấu đầu tư của Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng phát triển các dự án công nghệ cao trong các khu, cụm công nghiệp. Tăng cường liên kết về không gian phát triển công nghiệp cho vùng lõi Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và phát triển sang các địa phương khác trong vùng. Phát triển cụm công nghiệp tri thức dựa trên 03 yếu tố cốt lõi: Thiết lập hạ tầng về tri thức, hấp dẫn đầu tư của tư nhân vào cụm, thiết lập liên kết với người sử dụng dẫn dắt là một trong những kinh nghiệm thành công của Singapore mà Thành phố Hồ Chí Minh có thể áp dụng trong hình thành và phát triển cụm công nghiệp điện tử (Wong và cộng sự, 2010).

Thứ năm, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và liên kết với doanh nghiệp FDI

Để các doanh nghiệp trong nước có thể tham gia liên kết với các doanh nghiệp FDI cần tăng cường cải tiến, học hỏi công nghệ, chuyển giao công nghệ. Trong đó, nâng cao năng lực vốn, kĩ năng lao động, quản lí của các doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ thuộc về trách nhiệm của từng doanh nghiệp mà còn liên quan đến phát triển hệ sinh thái của ngành công nghiệp điện tử.

4. Kết luận

Công nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và vùng KTTĐPN nói chung là ngành có tiềm năng phát triển. Trong xu thế Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghiệp điện tử có tốc độ đổi mới sáng tạo cao, do vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước với cuộc chạy đua đầu tư ngành điện tử gặp nhiều khó khăn về vốn, công nghệ. Để phát triển công nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh mang tính bền vững, cần chú trọng mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước - doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, giữa doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương trong vùng KTTĐPN và các doanh nghiệp nước ngoài. Các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp điện tử của Thành phố Hồ Chí Minh cần gắn kết chặt chẽ trong tổng thể quy hoạch công nghiệp toàn Vùng; hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết công nghiệp; đào tạo nhân lực ngành điện tử và phát triển hạ tầng kết nối toàn vùng KTTĐPN.

Tài liệu tham khảo:

1. FALMI (2022). Dự báo nhu cầu nhân lực của 06 ngành công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập tại http://www.dubaonhanluchcmc.gov.vn/tin-tuc/8846.du-bao-nhu-cau-nhan-luc-cua-6-nganh-cong-nghiep-tai-tp-hcm.html

2. Marshall, (1920). The Economics of Industry. Principles of Economics. 8th Edition, Macmillan, London.

3. Tổng cục Thống kê. Dữ liệu điều tra doanh nghiệp các năm 2011, 2016, 2020.

4. Wong, P-K., Ho Y-P., and Singh, A., (2010). Industrial Cluster Development and Innovation in Singapore. In From Agglomeration to Innovation: Upgrading Industrial Clusters in Emerging Economies. Palgrave Macmillan. pages 52- 116.


TS. Phạm Mỹ Duyên, PGS., TS. Nguyễn Chí Hải, ThS. Huỳnh Ngọc Chương

Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng -  Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng - Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Thẻ tín dụng ngày càng phổ biến khiến các ngân hàng thương mại đối mặt với rủi ro nợ xấu và kiểm soát chi tiêu. Bài viết phân tích kinh nghiệm quốc tế để rút ra bài học giúp NHTM Việt Nam xây dựng chính sách tín dụng an toàn và ứng dụng công nghệ kiểm soát rủi ro hiệu quả.
Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Tín dụng xanh là một trong những trụ cột quan trọng của hệ thống tài chính xanh. Thời gian qua, Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đang thúc đẩy phát triển tín dụng xanh. Tuy được ghi nhận có sự tăng trưởng đều qua các năm nhưng số lượng lĩnh vực đầu tư xanh cũng như tỉ trọng còn hạn chế. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan, cần có nghiên cứu chuyên sâu về phát triển tín dụng xanh tại Việt Nam.
Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Mục đích của nghiên cứu là cung cấp cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 78 doanh nghiệp trong giai đoạn 2019 - 2023. Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính trên phần mềm Stata 17, kết quả cho thấy các yếu tố như kiểm soát nội bộ, khả năng sinh lời, vốn trí tuệ, đòn bẩy tài chính và chất lượng kiểm toán độc lập có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp này, từ đó nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị cụ thể giúp các doanh nghiệp nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý thông tin tài chính, đồng thời, cung cấp góc nhìn hữu ích dành cho các nhà đầu tư, giúp họ có cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Phân tích báo cáo tài chính cung cấp thông tin rõ ràng về tình hình tài chính, vốn và công nợ của doanh nghiệp, giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định điều hành và đầu tư chính xác. Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các chỉ số tài chính của nhóm doanh nghiệp có nguy cơ phá sản và nhóm doanh nghiệp không có nguy cơ phá sản. Các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản thường có chỉ số tài chính không ổn định (quá cao hoặc quá thấp) so với các doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Những năm gần đây, với sự chuyển đổi số mạnh mẽ và sự phát triển không ngừng của các công nghệ tiên tiến, việc đo lường mức độ chấp nhận và sử dụng công nghệ mới của người dùng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sự sẵn sàng áp dụng công nghệ của một cá nhân sẽ phản ánh khuynh hướng chấp nhận công nghệ của họ trong các hoạt động thường ngày. Để đánh giá chính xác xu hướng này, Chỉ số sẵn sàng công nghệ đã trở thành một công cụ hữu ích, giúp đo lường tâm lý, thái độ và hành vi của người dùng đối với các ứng dụng công nghệ. Từ đó, doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về mức độ sẵn sàng áp dụng công nghệ của các đối tượng mục tiêu, cũng như dự báo xu hướng phát triển của thị trường.
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Để đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng, nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng kết hợp với định tính. Quy trình nghiên cứu được thực hiện theo các bước: Thống kê mô tả, đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy tuyến tính bội và kiểm định giả thuyết. Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc gửi phiếu khảo sát dưới hình thức online đến sinh viên các trường đại học.
Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp phải nhiều bất cập do những hạn chế về pháp lý, thủ tục hành chính phức tạp, thời hạn sử dụng đất ngắn và thiếu sự minh bạch trong quản lý đất đai. Các rào cản này không chỉ làm giảm sức hút của môi trường đầu tư Việt Nam mà còn cản trở sự phát triển bền vững của các dự án FDI. Để nâng cao hiệu quả quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp...
Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng mang lại nhiều lợi ích vượt trội, góp phần hiện đại hóa hoạt động, nâng cao trải nghiệm khách hàng và bảo đảm an toàn giao dịch. Các công nghệ sinh trắc học phổ biến như nhận diện khuôn mặt, quét vân tay, mống mắt hay xác thực giọng nói... không chỉ cải thiện quy trình vận hành mà còn gia tăng mức độ tin cậy trong các giao dịch tài chính.
Xem thêm
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng