Phát triển hoạt động bảo lãnh tín dụng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa: kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, việc tiếp cận vốn tín dụng hiện đang gặp khó khăn do sự bất cân xứng thông tin giữa doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng (TCTD). Bảo lãnh tín dụng (BLTD) ra đời và phát triển với mục tiêu là hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng hiệu quả hơn.
aa

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, việc tiếp cận vốn tín dụng hiện đang gặp khó khăn do sự bất cân xứng thông tin giữa doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng (TCTD). Bảo lãnh tín dụng (BLTD) ra đời và phát triển với mục tiêu là hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng hiệu quả hơn. Mô hình này hiện đã phát triển tại nhiều quốc gia trên thế giới với những tác động tích cực đã được ghi nhận, đặc biệt là tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển hoạt động BLTD tại hai quốc gia có điều kiện về tổ chức, vận hành khá phù hợp với Việt Nam sẽ mang lại nhiều bài học quý trong việc tổ chức, quản lí.

1. Vai trò quan trọng của hoạt động BLTD

DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô vừa, nhỏ hoặc siêu nhỏ. Phần lớn các doanh nghiệp này hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ và sản xuất kinh doanh nhỏ. Thông thường, các quốc gia phân loại doanh nghiệp dựa vào các tiêu chí như số lượng nhân viên, số vốn hoặc tài sản và doanh thu trong năm. Ở Việt Nam, DNNVV được xác định tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động, số lượng người lao động và giá trị tài sản hoặc nguồn vốn của doanh nghiệp.

DNNVV có vai trò quan trọng và được coi là động lực tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Tại châu Á, số lượng các DNNVV chiếm hơn 95% tổng số doanh nghiệp, đóng góp 50% - 70% việc làm và chiếm 30% - 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nhiều quốc gia. Các DNNVV hoạt động trong mọi lĩnh vực từ sản xuất công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ... không chỉ có vai trò lớn trong phát triển kinh tế mà còn góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Bên cạnh đó, loại hình doanh nghiệp này rất năng động, dễ ứng dụng công nghệ sản xuất mới, vì vậy có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hiện đại hóa nền kinh tế.

Tại Việt Nam, năm 2022, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực DNNVV hiện chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp tới 45% vào GDP, 31% vào tổng số thu ngân sách và thu hút hơn 5,6 triệu lao động.

Hiện nay, các DNNVV chủ yếu vay vốn thông qua kênh tín dụng từ các TCTD, mà phần lớn là ngân hàng thương mại (NHTM). Tuy nhiên, việc này gặp phải một số thách thức bởi các quy định về điều kiện vay, nhất là về tài sản thế chấp, thu nhập, thủ tục hành chính… Theo nghiên cứu của Quỹ Đầu tư châu Âu - European Investment Fund (EIF) năm 2015, các DNNVV chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân hàng để huy động vốn và hạn chế hiểu biết về các nguồn vốn khác. Trong khi đó, NHTM có xu hướng tập trung nhiều hơn vào cho vay, tài trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp lớn vì các doanh nghiệp lớn thường có rủi ro vỡ nợ thấp hơn và tình hình tài chính, thông tin kế toán minh bạch, rõ ràng hơn so với các DNNVV.

Chính vì những lí do này, nên việc ra đời và phát triển của hoạt động BLTD là tất yếu, nhất là trong bối cảnh mà nhu cầu vốn với các DNNVV ngày càng tăng nhằm đáp ứng cho yêu cầu của cạnh tranh và hội nhập.

Về bản chất, BLTD là hoạt động mà tổ chức bảo lãnh đứng ra xác nhận sẽ thay thế cho bên được bảo lãnh (đi vay) thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba (bên cho vay). Hoạt động này có sự tham gia của ít nhất ba bên là TCTD, tổ chức BLTD (ở Việt Nam là quỹ BLTD) và khách hàng (DNNVV). Sau khi quỹ BLTD đã thực hiện các nghĩa vụ thanh toán nợ cho TCTD giúp khách hàng thì khách hàng sẽ cần nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức BLTD số tiền đã được tổ chức BLTD trả nợ thay cũng như các khoản phí liên quan đến bảo lãnh.

Hình 1: Quy trình chung của hoạt động BLTD

Nguồn: Tác giả tổng hợp


BLTD có tác động tích cực đối với cả ba chủ thể chính có liên quan: DNNVV; NHTM; Chính phủ và nền kinh tế:

Thứ nhất, đối với các DNNVV, BLTD giúp giảm chi phí giao dịch bảo lãnh, tăng khả năng thanh toán bảo hiểm (bao gồm cả giảm chi phí giao dịch, tăng số tiền chiết khấu và cải thiện mức độ thu hồi); khắc phục các vấn đề về huy động nguồn vốn cho các DNNVV và có tác dụng trong kích thích tăng trưởng.

Thứ hai, đối với các NHTM, sẽ san sẻ rủi ro giúp tăng cơ hội mở rộng khả năng cho vay, tạo mối liên hệ tốt hơn với các doanh nghiệp.

Thứ ba, đối với Chính phủ, BLTD là công cụ hữu hiệu thu hẹp khoảng cách giữa cung và cầu trong tài chính của các DNNVV, góp phần đa dạng hóa hệ thống và thị trường tài chính, là tiền đề để huy động các nguồn lực của các định chế tài chính khác và có đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Thực tế, nền kinh tế nhiều quốc gia khởi sắc hơn đáng kể với sự phát triển mạnh mẽ của DNNVV do hiệu quả từ hoạt động BLTD, đặc biệt là trong những giai đoạn khủng khoảng (2008 - 2009, 2020 - 2021). Từ năm 2020 (năm bùng phát đại dịch Covid-19), hầu hết các nước châu Âu và châu Á, các chính phủ đã đưa ra hoặc tăng cường các chương trình BLTD để thúc đẩy cho vay đối với DNNVV. Các chính sách này đã hỗ trợ hiệu quả cho các DNNVV trong việc có nguồn vốn để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng.

2. Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc về phát triển hoạt động BLTD nhằm hỗ trợ các DNNVV

Tại Nhật Bản

Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu trong việc giải quyết khó khăn về vốn cho DNNVV. Mặc dù là nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới, với hàng nghìn tập đoàn kinh tế, công ty đa quốc gia hoạt động, nhưng có đến 99% trong tổng số doanh nghiệp của Nhật Bản đang hoạt động là DNNVV. Các DNNVV ở Nhật Bản phần lớn thuộc các ngành nghề truyền thống, nhưng luôn có sự kết hợp giữa truyền thống với kĩ thuật, công nghệ hiện đại. Các DNNVV ở Nhật Bản đóng vai trò là xương sống của nền kinh tế, tạo việc làm cho khoảng 70% tổng số lao động, góp phần ổn định xã hội.

Mô hình tổ chức hoạt động

Tại Nhật Bản, hệ thống BLTD được tổ chức chặt chẽ trong một mô hình chung cho toàn thể các tổ chức tài chính có liên quan. Mô hình này được gọi là “Credit Supplementation System - hệ thống hỗ trợ tín dụng”. Hệ thống này bao gồm: BLTD và bảo hiểm tín dụng.

Hình 2: Hệ thống hỗ trợ tín dụng của Nhật Bản

Trong hệ thống trên thì:

(i) BLTD thực hiện hoạt động của hệ thống các tổ chức bảo lãnh cho các DNNVV vay vốn tại các TCTD, đồng thời hỗ trợ tài chính, kĩ thuật cho các tổ chức này. Hệ thống hỗ trợ tín dụng ở Nhật Bản bao gồm một hệ thống BLTD được vận hành bởi 51 công ty được thành lập trên khắp Nhật Bản. Hệ thống BLTD và hệ thống bảo hiểm tín dụng hoạt động cùng nhau để cho phép hệ thống bổ sung tín dụng ở Nhật Bản hoàn thành nhiệm vụ quan trọng là tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp vốn kinh doanh cho các DNNVV.

(ii) Bảo hiểm tín dụng thuộc trách nhiệm của Tập đoàn Tài chính Nhật Bản (JFC). JFC là một tổ chức tài chính thuộc sở hữu của Chính phủ và là đơn vị thực hiện bảo hiểm các khoản bảo lãnh của các tập đoàn BLTD cung cấp cho các doanh nghiệp. Vai trò chính của JFC là: (i) Cung cấp một mạng lưới an toàn để ứng phó với rủi ro từ các tình huống bất ngờ như thiên tai; (ii) Hỗ trợ khởi nghiệp; (iii) Tạo điều kiện phục hồi và mở rộng hoạt động kinh doanh ra nước ngoài. JFC cũng mở rộng các khoản vay trực tiếp cho các doanh nghiệp. Kể từ năm 1951, Chính phủ Nhật Bản đã đảm bảo cho các khoản bảo lãnh do các đơn vị BLTD cấp tỉnh phát hành.

Điều kiện BLTD

Các doanh nghiệp được BLTD khi được xác định là có quy mô vừa và nhỏ. Tại Nhật Bản, việc phân loại doanh nghiệp dựa trên hai tiêu chí chính là vốn điều lệ và số lượng nhân viên, việc phân chia còn phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối tượng được BLTD tại Nhật Bản được mở rộng cho hầu hết các DNNVV. Thực tế theo tiêu chí đưa ra chỉ cần doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện về DNNVV là có thể được bảo lãnh. Điều này tăng khả năng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước này tiếp cận các nguồn vốn vay. Đây là cách tiếp cận rất mở rộng, công bằng cho doanh nghiệp. Việc các doanh nghiệp có chỉ tiêu tài chính khác nhau sẽ quyết định đến chi phí bảo lãnh mà họ và trả cho các tổ chức bảo lãnh.

Phí BLTD

Tỉ lệ phí bảo lãnh được xác định theo tỉ lệ phần trăm của giá trị khoản vay và được xác định bằng việc xem xét hệ thống cơ sở dữ liệu bảo lãnh rủi ro cho các DNNVV. Tỉ lệ phí bảo lãnh cao hay thấp phụ thuộc vào mức độ rủi ro tín dụng của các doanh nghiệp trong đánh giá của tổ chức BLTD. Theo đó, mức phí bảo lãnh sẽ dao động trong khoảng từ 0,45 - 1,9% với 09 mức độ khác nhau của loại bảo lãnh thông thường. Bên cạnh đó, bảo lãnh đặc biệt với mức dao động trong khoảng 0,39 - 1,62%. Bảo lãnh đặc biệt có nghĩa là quay vòng bảo lãnh về chiết khấu hóa đơn và các chứng thư khác, thấu chi bảo lãnh xoay vòng và các khoản vay thẻ của các hoạt động kinh doanh. Tỉ lệ chi phí được áp dụng cho hệ thống BLTD sử dụng loại bảo hiểm đặc biệt được xác định một cách riêng biệt hoặc theo tỉ lệ chi phí giống nhau được áp dụng trên toàn quốc.

Các khoản phí bảo lãnh được thanh toán hằng năm hoặc theo hợp đồng kí kết giữa DNNVV và tổ chức bảo lãnh. Trong trường hợp DNNVV không thanh toán được tiền vay từ TCTD và tổ chức BLTD phải thế quyền thanh toán thay thì DNNVV thay vì chỉ thanh toán phí bảo lãnh, còn phải thanh toán khoản lãi vay (trên số tiền mà tổ chức bảo lãnh đã trả cho TCTD) với mức lãi suất dao động trong khoảng 14 - 15%/năm.

Về bảo hiểm tín dụng

Để tạo hành lang pháp lí cho hoạt động bảo hiểm, Nhật Bản đã ban hành Luật Bảo hiểm tín dụng DNNVV (bên cạnh Luật BLTD và Luật Hỗ trợ DNNVV). Các cơ chế, quy trình bảo hiểm tín dụng được nêu cụ thể trong nội dung Luật Bảo hiểm tín dụng DNNVV. Sau khi kí hợp đồng BLTD với các DNNVV, TCTD, các quỹ BLTD có thể kí hợp đồng bảo hiểm (cho khoản đã bảo lãnh đối với các DNNVV). Trong trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán được các khoản vay tại các TCTD, các TCTD sẽ thông báo đến quỹ BLTD, và quỹ BLTD sẽ thay thế quyền các doanh nghiệp thanh toán các khoản vay cho các TCTD. Giá trị các khoản thanh toán này sau đó sẽ được chi trả bảo hiểm với tỉ lệ 70 - 90% giá trị của khoản vay. Quỹ BLTD sau đó sẽ thu hồi các khoản tiền vay từ phía các doanh nghiệp, đồng thời phải có trách nhiệm chi trả cho JFC một khoản (bằng khoản nhận được từ doanh nghiệp nhân với phần trăm số dư tiền bảo hiểm được nhận sau khi thu hồi khoản vay).

Đánh giá tác động của hoạt động BLTD

Tính đến năm 2018, trong số khoảng 250 nghìn tỉ Yên dư nợ cho vay đối với các DNNVV, những khoản được bảo lãnh chiếm hơn 10%, tương đương 26 nghìn tỉ Yên. Trong đó, đáng chú ý nhất là Nhật Bản đã triển khai Chương trình bảo lãnh khẩn cấp để hỗ trợ hữu hiệu và kịp thời cho tiếp cận nguồn vốn của DNNVV. Chính sách này đặc biệt thành công trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2011 khi tình hình kinh tế - xã hội Nhật Bản bị ảnh hưởng mạnh bởi suy thoái kinh tế toàn cầu. Mức trần BLTD cho các doanh nghiệp nhỏ là 200 triệu Yên với chương trình bảo lãnh chung; trong đó, 80 triệu Yên với chương trình bảo lãnh không thế chấp. Theo thống kê, tổng giá trị BLTD trong năm tài chính 2019 đạt khoảng 9,2 nghìn tỉ Yên (tương đương 88 tỉ USD), tăng 6,8% so với năm trước đó.

Tại Hàn Quốc

Số lượng DNNVV của Hàn Quốc chiếm đến 99% tổng số doanh nghiệp (hơn 3,5 triệu doanh nghiệp), 88% tổng số lao động, 1/3 tổng sản lượng xuất khẩu của toàn nền kinh tế nước này. Tuy nhiên, cũng như tại các quốc gia khác, DNNVV tại Hàn Quốc lại thường khó tiếp cận được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung hạn và dài hạn phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Hệ thống BLTD Hàn Quốc bao gồm hệ thống BLTD trực thuộc Ngân hàng Trung ương và các cơ cấu tài chính khác thuộc Chính phủ. Cho đến hiện nay, hệ thống BLTD cho DNNVV được phân theo 3 kênh chính gồm: (i) Quỹ BLTD Hàn Quốc (Korea Credit Guarantee Fund – KCGF, nay là KODIT): Hoạt động theo Luật Quỹ BLTD năm 19741; (ii) Quỹ BLTD công nghệ Hàn Quốc (KOTCH); (iii) Quỹ BLTD địa phương: do các chính quyền địa phương thành lập và hoạt động theo nghị quyết riêng của mình2. Hệ thống bảo lãnh được tổ chức và quản lí rất chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Chẳng hạn, Quỹ BLTD Hàn Quốc và Quỹ BLTD công nghệ do Ủy ban Tài chính quốc gia giám sát hoạt động, còn quỹ BLTD địa phương do ban quản lí khối DNNVV quản lí.

Điều kiện bảo lãnh

Tất cả các thực thể kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận hoặc tổ chức của họ đều đủ điều kiện nhận BLTD trừ khi họ thuộc các ngành không đủ điều kiện bao gồm: (a) Kinh doanh khách sạn, chung cư, giải trí; (b) Kinh doanh nhà hàng sang trọng; (c) Dịch vụ tài chính; (d) Dịch vụ môi giới bất động sản. Các công ty không đủ điều kiện bao gồm: (a) Công ty không hoạt động; (b) Công ty quá hạn thanh toán các khoản vay ngân hàng; (c) Công ty nộp tài liệu giả; (d) Công ty được điều hành bởi người chịu trách nhiệm thanh toán theo bảo lãnh...

Cơ cấu phí bảo lãnh

Trước thời điểm năm 1998, KODIT vẫn áp dụng tỉ lệ phí bảo lãnh cố định cho khách hàng vay. Theo đó, đối với DNNVV là 1,0% và đối với các doanh nghiệp lớn là 1,5%. Tuy nhiên, sau thời điểm đó, KODIT đã xây dựng một hệ thống phí bảo lãnh gắn liền với xếp hạng tín dụng của người nộp đơn. Tỉ lệ phí cơ bản dao động từ 0,5% đến 3,0% của số tiền bảo lãnh được tính theo xếp hạng tương ứng của người nộp đơn. Mức phí cuối cùng được quyết định bằng cách cộng hoặc trừ một tỉ lệ nhất định vào phí cơ bản, tùy thuộc vào tình hình hiện tại của người nộp đơn hoặc loại sản phẩm bảo lãnh. Đối với một công ty lớn, thêm 0,5% được cộng vào mức phí cuối cùng.

Tỉ lệ bảo lãnh

KODIT tính trọng số theo xếp hạng tín dụng của công ty và chu kì bảo lãnh, thời gian nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, KODIT cũng quy định mức bảo lãnh tối đa cho các khoản bảo lãnh. Thông thường tỉ lệ bảo lãnh dao động trong khoảng từ 50 - 80%. Mức bảo lãnh tối đa có thể được tính theo doanh thu hoặc theo vốn chủ sở hữu. Theo đó, mức bảo lãnh tối đa trong khoảng từ 1/6 - 1/2 doanh thu hằng năm. Trong khi, theo vốn chủ sở hữu thì mức bảo lãnh trong khoảng 3 lần vốn cổ phần. Thực tế, mức bảo lãnh tối đa khoảng 2,7 triệu USD (trường hợp bảo lãnh đặc biệt có thể lên tới 6,3 triệu USD). Mức bảo lãnh trung bình đạt 180 nghìn USD.

Đánh giá tác động đến kinh tế

Theo thống kê, nhờ có BLTD của KODIT mà số DNNVV được vay vốn tăng lên đáng kể, từ 35,7% năm 1975 đã tăng lên 76,7% vào năm 2015. Tính đến năm 2016, KODIT đã bảo lãnh cho hơn 205 nghìn doanh nghiệp, số tiền bảo lãnh lên đến 42 tỉ USD. Mức trần bảo lãnh của KODIT là 2,6 triệu USD, một số trường hợp đặc biệt có thể được nâng mức trần lên đến 6 triệu USD. Tỉ lệ doanh nghiệp do KODIT bảo lãnh là 70 - 85% so với số hồ sơ nộp đơn xin bảo lãnh; trong đó, riêng nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp thì tỉ lệ được bảo lãnh lên đến 100%.

Trong giai đoạn 2017 - 2021, hoạt động BLTD tại Hàn Quốc tiếp tục tăng trưởng mạnh. Đến cuối năm 2021, giá trị bảo lãnh lũy kế đạt hơn 66 tỉ USD, tăng gấp hơn 1,5 lần so với năm 2017.

Nguồn: KODIT, 2022


Hoạt động BLTD đã tiếp cận được một lượng lớn đối tượng là các DNNVV với 1/3 trong tổng số 3,6 triệu DNNVV tại Hàn Quốc được bảo lãnh khi vay vốn tại các TCTD, giá trị của các khoản vay bảo lãnh chiếm 15% tổng giá trị các khoản vay của các doanh nghiệp này. Thông qua BLTD, các DNNVV cũng được vay với lãi suất thấp hơn 4% cho các khoản vay tại các TCTD (năm 2019).

Theo đánh giá của KODIT (2022), các hoạt động này đã góp phần tích cực vào việc tạo việc làm với việc cho giá trị bảo lãnh đạt 1 triệu USD sẽ tạo ra được 4,5 việc làm mới (năm 2019), nâng cao kết quả hoạt động/thực hiện hợp đồng của các công ty được bảo lãnh; đồng thời, tăng nguồn thu từ thuế cho Chính phủ với việc 1 triệu USD được bảo lãnh sẽ làm tăng mức thuế thu được lên 0,5 triệu USD (2019). Đặc biệt, BLTD là công cụ hữu hiệu để tạo tính thanh khoản cho các DNNVV trong khủng hoảng kinh tế (giai đoạn 2008 - 2009 và 2020 - 2021).

Trong các giai đoạn tăng trưởng kinh tế sụt giảm, sự gia tăng của hoạt động BLTD đã góp phần hỗ trợ cho sự phục hồi của các DNNVV tại nước này, tiếp đó là sự phục hồi tăng trưởng kinh tế ngay sau đó.

Bài học rút ra cho Việt Nam

Thứ nhất, các quy định pháp lí chặt chẽ, đầy đủ

Tại Nhật Bản, Hàn Quốc, hoạt động BLTD được ra đời vào hoạt động dựa trên cơ sở pháp lí cao nhất là luật. Điều này đảm bảo tính thống nhất, tính tuân thủ của các đối tượng tham gia. Hoạt động BLTD có quy chuẩn, khung pháp lí riêng đảm bảo hoạt động hiệu quả, hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là hỗ trợ các DNNVV tiếp cận vốn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các quy định hướng tới sự ổn định, tạo niềm tin cho các DNNVV, đặc biệt tránh các quy định theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp như quy định cho phép hủy ngang bảo lãnh từ phía các tổ chức BLTD để bảo đảm cung ứng vốn cho DNNVV hoạt động hiệu quả, thông suốt.

Thứ hai, vai trò quan trọng của nhà nước với tư cách là người cung cấp, hỗ trợ tài chính và các dịch vụ khác. Hoạt động BLTD của các quỹ dành cho DNNVV thường mang tính rủi ro, nhưng là cần thiết. Mục tiêu tối thượng của hoạt động BLTD là hỗ trợ các DNNVV tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng, do vậy cần có nguồn lực tài chính đầy đủ và cơ chế huy động nguồn lực hiệu quả, đặc biệt là sự hỗ trợ của Chính phủ.

Kinh nghiệm tại Nhật Bản, Hàn Quốc cho thấy, nguồn lực tài chính cho các tổ chức BLTD được cung cấp trực tiếp từ Chính phủ, chính quyền địa phương (tại Hàn Quốc, Nhật Bản) hay các nguồn vốn gián tiếp từ các hiệp hội BLTD (tại các địa phương ở Nhật Bản), các công ty bảo hiểm (JFC). Tại Hàn Quốc, nguồn vốn cho hoạt động của các KODIT được quy định cụ thể trong luật từ ba nguồn: Ngân sách nhà nước, đóng góp của các TCTD và từ các tổ chức, cá nhân khác.

Thứ ba, việc bảo toàn và phát triển vốn cho các tổ chức BLTD không được đặt ra như một yêu cầu và mục tiêu quan trọng. Qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước có thể thấy rằng, hoạt động BLTD phải tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về đối tượng được BLTD, quy trình cũng như các yêu cầu khác về tỉ lệ bảo lãnh, chi phí bảo lãnh… Tuy nhiên, các nước không đặt ra yêu cầu về bảo toàn và phát triển vốn trong hoạt động của các tổ chức này.

Thực tế, hoạt động BLTD được bảo hiểm với tỉ lệ cao (70 - 80%) từ tổ chức bảo hiểm do Chính phủ thành lập, quản lí và cung cấp vốn (Nhật Bản) hay sự hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ, các chính quyền địa phương… Các nước coi hoạt động này với mục tiêu phi lợi nhuận nên việc đánh giá hoạt động của các tổ chức BLTD được thể hiện thông qua khả năng cho bảo lãnh (số lượng các doanh nghiệp được bảo lãnh, giá trị bảo lãnh, tác động đến hiệu quả kinh tế - xã hội…).

Thứ tư, linh hoạt trong việc quy định mức phí. Việc xác định mức phí sẽ phụ thuộc vào sự đánh giá về chất lượng tín dụng của DNNVV cũng như một số yếu tố khác về giá trị bảo lãnh, thời gian bảo lãnh hay thậm chí là phụ thuộc vào quyết định của nhà quản lí tổ chức BLTD. Việc linh hoạt trong việc quy định phí bảo lãnh, phí bảo hiểm có nhiều tác dụng. Với các tổ chức bảo lãnh, việc này nhằm tạo sự chủ động và cơ hội cho các tổ chức BLTD nâng cao tính chủ động trong hoạt động của mình, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến đánh giá, xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp.

Thứ năm, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin phục vụ cho hoạt động đánh giá tín dụng. Đây là việc làm cần thiết, bởi khi việc đánh giá tín dụng được các DNNVV được xem là cơ sở để đưa ra mức phí của hoạt động bảo lãnh. Trong giai đoạn đầu, việc xây dựng hệ thống dữ liệu có thể được thực hiện bởi chính tổ chức bảo lãnh, tuy nhiên với sự mở rộng của quy mô, việc này dần có thể được thay thế bởi các tổ chức trung gian.

1 Hiện nay đã có 7 lần sửa đổi bổ sung, lần sửa đổi cuối cùng gần đây nhất là ngày 13/01/1998
2 Hiện nay chưa có luật điều chỉnh chung cho các quỹ BLTD địa phương. Hiện Hàn Quốc có 10 quỹ BLTD cho các DNNVV địa phương thuộc các vùng lớn trong toàn quốc như Thủ đô Seoul, thành phố Pusal…

Tài liệu tham khảo:

1. Đặng Thái Bình (2020), Vai trò của hệ thống BLTD đối với sự phát triển của DNNVV, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 năm 2020, trang 21-27.
2. Lại Thị Thanh Loan (2022), Giải pháp tăng hiệu quả bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, Tạp chí điện tử Ngân hàng, tháng 6/2022.
3. Ngô Thị Phương Lan (2018), Hoàn thiện khuôn khổ pháp lí về tổ chức và hoạt động của quỹ BLTD DNNVV, Đề tài cấp bộ, Bộ Tài chính, năm 2017.
4. Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ BLTD hỗ trợ DNNVV.
5. Naoyuki Y. and Farhad T.H (2016), Optimal Credit Guarantee Ratio for Asia, https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2838074.
6. Yamori (2015), Japanese SMEs and the credit guarantee system after the global financial crisis, https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23322039.2014.1002600.
7. Yoshino, N., and F. Taghizadeh-Hesary (2016), Optimal Credit Guarantee Ratio for Asia, In SMEs in Developing Asia New Approaches to Overcoming Market Failures, edited by P. Vandenberg, P. Chantapacdepong, and N. Yoshino. Tokyo: Asian Development Bank Institute.
8. Yoshino, N. and F. Taghizadeh-Hesary (2018), The Role of SMEs in Asia and Their Difficulties in Accessing Finance. ADBI Working Paper 911. Tokyo: Asian Development Bank Institute.

ThS. Phạm Xuân Hòe (Nguyên Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
ThS. Phạm Tiến Đạt (Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tại Việt Nam. Thông qua tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước kết hợp với mô hình định lượng, nghiên cứu sẽ làm rõ tác động của rủi ro địa chính trị ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.
Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa bất bình đẳng kinh tế giữa các địa phương và hoạt động kinh doanh bền vững của doanh nghiệp tại Việt Nam dựa trên tiêu chí ESG. Dữ liệu được thu thập từ hình ảnh vệ tinh và thông tin của hơn 1.000 doanh nghiệp trên cả nước. Kết quả giúp đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội đến hoạt động bền vững và đưa ra khuyến nghị chính sách phù hợp.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Từ thời điểm Luật Nhà ở năm 2005 ra đời, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế thông thoáng để huy động các nguồn vốn cho phát triển nhà ở để bán, cho thuê như: Thành lập Quỹ phát triển nhà ở của các địa phương; huy động vốn của các tổ chức tín dụng; huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính, có nhu cầu mua nhà ở; huy động vốn thông qua các hình thức hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh liên kết...
Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc