Ngân hàng với phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam

Hoạt động ngân hàng
Nông nghiệp, nông thôn, nông dân là lĩnh vực được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.Dấu ấn lớn nhất trong năm 2015 là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục...
aa


Nông nghiệp, nông thôn, nông dân là lĩnh vực được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.Dấu ấn lớn nhất trong năm 2015 là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn có hiệu lực từ ngày 25/7/2015 thay thế Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ.

Thực hiện chủ trương của Chính phủ, trong suốt giai đoạn vừa qua, ngành ngân hàng đã luôn đồng hành, gắn bó mật thiết với “ba nông” (nông nghiệp, nông thôn, nông dân), từ việc hoạch định chính sách của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đến việc triển khai, thực thi của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên mọi lĩnh vực. Trong điều hành chính sách, NHNN luôn xác định nông nghiệp, nông thôn là một trong 5 lĩnh vực ưu tiên và đã chỉ đạo các TCTD tập trung nguồn vốn cho vay, thực hiện các giải pháp đẩy mạnh cho vay hiệu quả phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh. Có thể nhìn lại những “điểm mới” và “điểm sáng” trong chính sách mà năm 2015 NHNN đã nỗ lực xây dựng ban hành để tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân, cụ thể:

- Ngay sau khi có Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn của Chính phủ, NHNN đã kịp thời ban hành Thông tư số 10/2015/TT-NHNN ngày 22/7/2015, với 4 điểm mới nổi bật là: (i) Đối tượng cá nhân, hộ kinh doanh tham gia kinh doanh sản xuất nông nghiệp dù ngoài địa bàn cũng được hưởng chính sách tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn; (ii) Mức cho vay không thế chấp có thể tối đa lên đến 100 triệu đồng với cá nhân, 300 triệu đồng với hộ kinh doanh, lên đến 3 tỷ đồng đối với Liên hiệp Hợp tác xã; (iii) Có quy định riêng về chính sách tín dụng khuyến khích đối với mô hình liên kết chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp; (iv) Có quy định về nguyên tắc và quy trình xử lý rủi ro do gặp phải thiên tai, dịch bệnh trên diện rộng.

- Nghị định 89/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 07/07/2014 về một số chính sách phát triển thủy sản, có hiệu lực từ ngày 25/11/2015 nhằm tháo gỡ những vướng mắc, tạo cơ hội cho ngư dân tiếp cận vốn vay tốt hơn để đẩy mạnh khai thác hải sản xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Theo đó, điểm mới nổi bật nhất là thời hạn cho vay đã được sửa đổi. Thay vì quy định thời hạn cho vay 11 năm, Nghị định 89 đã quy định thời hạn cho vay đối với từng trường hợp. Cụ thể, thời hạn cho vay hỗ trợ lãi suất 11 năm đối với trường hợp đóng mới tàu vỏ gỗ hoặc nâng cấp tàu; 16 năm đối với đóng mới tàu vỏ thép hoặc vỏ vật liệu mới. Ngoài ra, Nghị định 89 cũng tạo thuận lợi hơn cho ngư dân như: được hỗ trợ 100% chi phí thiết kế tàu vỏ thép, vật liệu mới có công suất từ 400CV trở lên; năm đầu tiên sau khi giải ngân, chủ tàu được miễn lãi và chưa phải trả nợ gốc. Theo đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 21/2015/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2014/TT-NHNN ngày 15/8/2014 của NHNN hướng dẫn thực hiện quy định tại Nghị định 67/2014/NĐ-CP.

Song song với việc ban hành chính sách, NHNN đã sát sao chỉ đạo các TCTD thực hiện hỗ trợ ưu tiên cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Nhờ đó, trong những năm qua, tín dụng nông nghiệp của hệ thống ngân hàng luôn có tỷ trọng dao động ở mức xung quanh 10%, tăng bình quân trên10%/năm. Các chương trình tín dụng mục tiêu của hệ thống ngân hàng luôn được ưu tiên thực hiện và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận:

- Cho vay lĩnh vực lúa, gạo: Dư nợ cho vay lúa gạo toàn quốc ước đạt khoảng 31.500 tỷ đồng, tăng 12% so với 31/12/2014, trong đó, dư nợ tại 13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đạt 25.000 tỷ đồng, tăng 11,4% so với 31/12/2014.

- Cho vay đối với lĩnh vực thủy sản: Dư nợ cho vay thủy sản toàn quốc đến 31/12/2015 ước đạt 66.800 tỷ đồng, tăng 9,5% so với 31/12/2014. Kết quả triển khai thực hiện theo văn bản số 1149/TTg-KTN ngày 08/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách cho vay đối với chăn nuôi và thủy sản của 5 NHTM: Dư nợ cho vay đến cuối tháng 12/2015 ước đạt 45.500 tỷ đồng, tăng 12% so với 31/12/2014. Dư nợ được cơ cấu đến cuối tháng 12/2015 đối với lĩnh vực tôm và cá tra khoảng 2.000 tỷ đồng. Theo Quyết định số 540/QĐ-TTg ngày 16/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng đối với người nuôi tôm và cá tra gặp khó khăn: Đã có 6 ngân hàng thực hiện khoanh nợ cho 11.668 khách hàng với tổng số tiền khoanh nợ là trên 777,52 tỷ đồng tại 9 tỉnh, thành phố.

- Cho vay tái canh cà phê tại Agribank: Đến 30/11/2015, dư nợ cho vay tái canh cà phê tại Agribank là 733,36 tỷ đồng, tái canh diện tích 8.299ha, đối với 6.206 khách hàng được vay vốn theo chương trình.

- Cho vay theo chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ: Đến cuối tháng 12/2015, tổng dư nợ cho vay ước đạt khoảng 3.500 tỷ đồng, tăng 89,4% so với 31/12/2014, trong đó: (i) Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đạt 3.140 tỷ đồng, tăng 112% so với cuối năm 2014; (ii) Dư nợ cho vay theo lãi suất tín dụng đầu tư đạt 360 tỷ đồng, giảm 1,9% so với cuối năm 2014.

- Cho vay đóng mới, nâng cấp tàu theo Nghị định 67: Đã có 27/28 tỉnh, thành phố có biển đã phê duyệt được danh sách các chủ tàu đủ điều kiện vay vốn để đóng mới, nâng cấp 1.262 tàu trong đó: đóng mới 1.108 tàu (đạt 48,5% tổng số tàu cần đóng mới 2.284 tàu theo Quyết định số 3602/QĐ-BNN-TCTS của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), nâng cấp 154 tàu. Thành phố Hồ Chí Minh chưa phê duyệt danh sách các chủ tàu đủ điều kiện vay vốn theo Nghị định 67. Hiện nay, 4 NHTM Nhà nước đã nhận được 534 bộ hồ sơ của chủ tàu tại 26/27 tỉnh, thành phố và đã ký hợp đồng tín dụng để đóng mới, nâng cấp 301 tàu (đóng mới 296 tàu, nâng cấp 5 tàu), với tổng số tiền các ngân hàng cam kết cho vay trên 3.150 tỷ đồng. Dư nợ đến thời điểm báo cáo đạt 1.120 tỷ đồng. Mức cho vay theo nhu cầu của khách hàng từ 60% - 95% tổng giá trị đầu tư đóng mới, nâng cấp con tàu, tài sản bảo đảm là chính con tàu. Trong 07 tháng trở lại đây, việc ký kết các hợp đồng tín dụng của ngư dân đã tăng lên đáng kể (số lượng hợp đồng tín dụng được ký kết tăng hơn 4 lần so với thời điểm 30/6/2015). Đến nay, đã có 60 con tàu hoàn thành đóng mới, nâng cấp, được hạ thủy và đưa vào hoạt động.

Kết quả cho vay vốn lưu động: Các NHTM đã thực hiện giải ngân cho 179 lượt khách hàng với tổng số tiền gần 58 tỷ đồng tại các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Tiền Giang, Phú Yên, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa.

- Xử lý tháo gỡ khó khăn tín dụng cho hộ nuôi tôm, cá tra theo Quyết định số 540/QĐ-TTg ngày 16/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ: Đã có 6 ngân hàng thực hiện khoanh nợ cho 11.668 khách hàng với tổng số tiền khoanh nợ là trên 777,52 tỷ đồng tại 9 tỉnh, thành phố. Ở thời điểm hiện tại, NHNN đã thực hiện tái cấp vốn đối với 02 ngân hàng (SCB, Agribank) với số tiền 458,25 tỷ đồng và đang tiếp tục xem xét tái cấp vốn cho các NHTM khác thực hiện khoanh nợ cho các hộ dân nuôi tôm và cá tra gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng. Đến 30/11/2015, các TCTD đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo Quyết định số 540/QĐ-TTg đối với 39 khách hàng với dư nợ đạt khoảng 30 tỷ đồng, trong đó gia hạn nợ 27 tỷ đồng và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ 3 tỷ đồng.

- Chương trình tín dụng cho vay theo chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao theo Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 5/3/2014 của Chính phủ: NHNN đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quyết định số 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014 về chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp nhằm khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, xây dựng cánh đồng lớn; khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy xuất khẩu. Kết quả cụ thể thực hiện chương trình này: Chương trình đã lựa chọn 31 dự án của 28 doanh nghiệp tại 22 tỉnh, thành phố tham gia thí điểm. Số tiền các NHTM đã ký kết với các doanh nghiệp tham gia chương trình lên tới hơn 5.627 tỷ đồng, đến 20/12/2015 đã giải ngân 6.125,4 tỷ đồng, dư nợ đạt 1.998 tỷ đồng. Lãi suất ngắn hạn hiện áp dụng là
6,5%/năm, một số dự án có lãi suất thấp hơn ở mức 5,4-6,3%/năm.
- Cho vay xóa đói, giảm nghèo qua các năm: Ưu đãi vốn cho 25 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách; góp phần giúp 3,6 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; tạo việc làm cho 11,8 triệu lao động từ các chương trình chính sách; hỗ trợ trên 3,3 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng gần 6,6 triệu công trình cung cấp nước sạch và vệ sinh ở nông thôn; xây dựng được 484 nghìn căn nhà cho hộ nghèo và các hộ gia đình chính sách; xây dựng 700 chòi tránh lũ; trên 102 nghìn ngôi nhà vượt lũ cho hộ gia đình vùng Đồng bằng sông Cửu Long…

Các chương trình mục tiêu trên đã được NHNN nỗ lực triển khai trong suốt giai đoạn vừa qua, mục tiêu ưu tiên xuyên suốt trong các chương trình là tập trung nguồn vốn triển khai thí điểm cho vay các mô hình liên kết chuỗi giá trị, mô hình ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh, chất lượng sản phẩm và đáp ứng nhu cầu ngày một đa dạng của người tiêu dùng, đặc biệt đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn hàng hóa xuất khẩu.

Các mô hình liên kết chuỗi giá trị, mô hình ứng dụng công nghệ cao cần có sự liên kết chặt chẽ giữa 5 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà tư vấn và nhà nông. Trong đó, doanh nghiệp với vai trò trung tâm cần phát huy được sự năng động, sáng tạo. Trên thực tế, nếu chỉ tập trung gánh nặng vào vai chính sách tín dụng ngân hàng thì hiệu quả chính sách sẽ không cao.Để phát triển các mô hình này trong nông nghiệp một cách bền vững, hiệu quả hơn cần có nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà nước như tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước để phát triển khoa học và công nghệ trong nông nghiệp; xây dựng sản phẩm nông nghiệp chủ lực của quốc gia, những sản phẩm có tiềm năng như: gạo, cà phê, cao su, thủy sản, thịt lợn, sữa, lâm sản… Trên cơ sở đó, xây dựng chương trình, kế hoạch đầu tư về khoa học và công nghệ trong chọn, tạo giống, tổ chức sản xuất, xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng. Cần hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao hoạt động có hiệu quả tại những vùng nông nghiệp trọng điểm. Mặt khác, cần có sự hỗ trợ đồng bộ từ các chính sách khác như chính sách về bảo hiểm các sản phẩm nông nghiệp; vấn đề về quy hoạch; chính sách về đất đai, dồn điền đổi thửa… Và yếu tố quan trọng không thể thiếu là sự vào cuộc của chính quyền các cấp trong quản lý quy hoạch, quản lý thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và các mô hình liên kết trong nông nghiệp phát triển.

Bên cạnh đó, đối với lĩnh vực này, nhu cầu vốn rất lớn nhưng hiện nay nguồn vốn kể cả ngắn hạn và dài hạn qua kênh ngân hàng chưa đủ đáp ứng.Mặc dù, NHNN đã chủ động, định hướng rõ trong chính sách tín dụng đối với các chương trình ưu tiên này, tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện tại các TCTD, còn thiếu những quy định, quy trình cụ thể đối với từng đối tượng vay vốn, từng mô hìnhvới những tiêu chuẩn, đặc điểm kỹ thuật khác nhau, từng vùng khác nhau… Đây không chỉ là vướng mắc trong cho vay các mô hình liên kết chuỗi giá trị, mô hình ứng dụng công nghệ cao mà đối với các chương trình tín dụng mục tiêu khác mà ngành ngân hàng đang triển khai cũng gặp phải như cho vay tái canh cà phê triển khai tại Agribank…

Như vậy, để có thể phát triển nền nông nghiệp bền vững trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, trước hết cần có định hướng và chỉ đạo của Nhà nước để tạo lập một khung chính sách chung cho phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó có sự phối hợp đồng bộ, toàn diện giữa các Bộ, Ngành và chính quyền địa phương trong triển khai thực hiện chính sách.

Về phía NHNN, cần có đánh giá, tổng kết về các chương trình tín dụng đang triển khai thực hiện, nhận diện những khó khăn, vướng mắc để hoàn thiện chính sách. Trong đó, cần sớm có đánh giá tổng kết đầy đủ về chương trình thí điểm cho vay theo chuỗi giá trị để nhân rộng trong các ngành hàng của sản xuất nông nghiệp. NHNN cũng cần có những nghiên cứu, điều tra, khảo sát về tình hình thực tế triển khai các chính sách tín dụng, các chương trình tín dụng mục tiêu đang thực hiện tại các địa phương khác nhau để xây dựng, điều chỉnh và hoàn thiện khung chính sách tín dụng và để các TCTD có cơ sở để xây dựng các quy trình cấp tín dụng riêng, phù hợp với từng đối tượng cụ thể.

Tài liệu tham khảo:
ThS. Phạm Xuân Hòe, “Tín dụng ngân hàng cho nông nghiệp, nông thôn cần cách tiếp cận toàn diện và đột phá”,Hội thảo khoa học về “Đánh giá cơ chế, chính sách trong nông nghiệp nông thôn phục vụ tái cơ cấu và thu hút đầu tư”, Hà Nội, tháng 12/2015.

ThS.Nguyễn Thị Hiền
Nguồn:Tạp chí Ngân hàng số 5-2016

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng