Lịch sử công nghệ kỹ thuật số trong hoạt động ngân hàng

Công nghệ & ngân hàng số
Công nghệ số, chuyển đổi số là những cụm từ được nhắc tới nhiều nhất trong thời gian gần đây bởi những tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống và xã hội. Trong đó, ngành Ngân hàng là một trong những ngành đón nhận nhiều cơ hội như giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, cải thiện quy trình…
aa

Tóm tắt: Công nghệ số, chuyển đổi số là những cụm từ được nhắc tới nhiều nhất trong thời gian gần đây bởi những tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống và xã hội. Trong đó, ngành Ngân hàng là một trong những ngành đón nhận nhiều cơ hội như giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, cải thiện quy trình… Chính vì vậy, thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong hoạt động là một trong những chiến lược trọng tâm được đặt ra tại tất cả các ngân hàng hiện nay. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy, công nghệ đã, đang và luôn hiện hữu trong hoạt động ngân hàng từ rất lâu, với mỗi bước tiến của công nghệ luôn đặt một dấu mốc, tầm cao mới trên con đường phát triển của ngành Ngân hàng. Trong đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai nổi bật với phát kiến về máy tự động, máy tính tạo nền tảng cho sự ra đời của ATM, tiền polymer. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba mở đầu cho Internet Banking, Mobile Banking, điện thoại di động, điện thoại thông minh. Và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) hiện nay với trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), Internet kết nối vạn vật (IoT) đã mang đến một diện mạo, phương thức tiếp cận dịch vụ tài chính hoàn toàn mới trên thế giới.

Từ khóa: Công nghệ số, chuyển đổi số, Cách mạng công nghiệp, ngân hàng.

1. Lời mở đầu

Những năm gần đây, chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng được đặt ra như một trong những trụ cột, chiến lược quan trọng giúp ngân hàng tăng lợi thế cạnh tranh và phát triển bền vững. Cụ thể, nghiên cứu về sự chuyển đổi của hoạt động ngân hàng truyền thống trong thời đại công nghệ, Galazova và Magomaeva (2019) khẳng định, chuyển đổi số trở thành chiến lược ưu tiên trên con đường phát triển của bất cứ ngân hàng nào trên thế giới. Điều này xuất phát từ những lợi ích to lớn của việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số trong hoạt động ngân hàng như cải thiện cách thức tương tác giữa các ngân hàng, chính phủ và các khách hàng tiềm năng (Thalassinos, 2018); giảm thiểu chi phí giao dịch, nâng cao khả năng cạnh tranh về giá, khả năng cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng (Kazarenkova và Svetovtseva, 2018).


Chính vì vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu được thực hiện tại cấp độ quốc gia, khu vực hoặc trên toàn thế giới về tầm quan trọng của chuyển đổi số đối với đời sống kinh tế, xã hội nói chung, ngân hàng nói riêng, cũng như chia sẻ những câu chuyện thực tiễn về sự thành công hay bài học của các ngân hàng trong quá trình chuyển đổi số. Cụ thể, với một thao tác tìm kiếm nhanh các cụm từ như “chuyển đổi số trong ngân hàng” hay “digital transformation in banking” thì đã trả về đến hơn 150 triệu kết quả. Qua đó cho thấy, tầm ảnh hưởng to lớn của công nghệ đối với hoạt động ngân hàng ngày nay, đặc biệt khi ngày càng có nhiều công ty công nghệ gia nhập vào thị trường, hơn nữa trong bối cảnh Covid-19 diễn ra khiến cho tốc độ chuyển đổi càng được yêu cầu đẩy nhanh hơn nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế.

Tuy nhiên, có một thực tế đáng ghi nhận đó là công nghệ đã và luôn đồng hành với sự phát triển của ngân hàng từ những năm 1940 với sự ra đời của ATM, sau đó là ngân hàng máy tính, Online Banking rồi Mobile Banking. Hay nói cách khác, sử dụng công nghệ đã có lịch sử từ lâu trong lĩnh vực ngân hàng, chứ không phải chỉ nổi lên trong những năm gần đây. Chính vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện với mong muốn hệ thống hóa lịch sử ứng dụng công nghệ trong hoạt động ngân hàng từ những buổi ban đầu cho đến công nghệ cao như hiện nay. Qua đó, làm nổi bật tiến trình ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt góp một phần nhỏ bé khẳng định tầm quan trọng của công nghệ trên con đường phát triển của ngân hàng.

2. Các giai đoạn phát triển của kỹ thuật số trong lĩnh vực ngân hàng

Cho đến nay, nhân loại đã trải qua 04 cuộc Cách mạng công nghiệp. Cụ thể, các dấu mốc và sự kiện nổi bật trong từng dấu mốc sẽ được lần lượt trình bày trong phần tiếp sau. (Hình 1)

Hình 1: Lịch sử các cuộc Cách mạng công nghiệp


Nguồn: Tổng hợp của tác giả

2.1. Ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai trong ngành Ngân hàng

Bắt đầu ở Anh, từ cuối thế kỷ 18 và kéo dài đến đầu thế kỷ 19, cuộc Cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới đã mở ra một kỷ nguyên cơ giới hóa. Cụ thể, vào các mốc năm 1784, 1785, 1807 và 1885, các phát minh quan trọng đã lần lượt ra đời là máy hơi nước, máy dệt vải, tàu thủy chạy bằng hơi nước và lò cao, góp phần vô cùng quan trọng vào tăng năng suất lao động, chất lượng hay tốc độ của máy móc. Những phát minh trong giai đoạn này mặc dù chưa được áp dụng nhiều vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng, song đã tạo tiền đề, châm ngòi cho các cuộc cách mạng công nghiệp khác lần lượt được ra đời.

Cụ thể, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai nối tiếp ngay sau đó khi khởi nguồn từ cuối thế kỷ 19 và kéo dài đến đầu thế kỷ 20. Cuộc Cách mạng công nghiệp này đã mở ra thời kỳ cải tiến về công cụ sản xuất mới khi chứng kiến sự ra đời của rất nhiều phát minh lớn như máy tính, máy tự động, người máy, hệ điều khiển tự động và polymer - một vật liệu mới với độ bền và sức chịu nhiệt cao. Quan trọng hơn, kể từ đây, những ứng dụng của công nghệ trong ngành Ngân hàng lần lượt ra đời, tạo ra những ngân hàng “không ngủ”. Trong đó, nổi bật là sự ra đời của ATM - máy rút tiền tự động - vào những năm 1960, giúp cho khách hàng có thể thực hiện giao dịch rút tiền 24/7. Phát minh này đã nhanh chóng được chào đón và sử dụng rộng rãi tại Mỹ và các quốc gia trên thế giới. Cụ thể, dữ liệu của Cục Thống kê lao động Mỹ cho thấy, số lượng ATM được lắp đặt đã tăng nhanh từ khoảng 300.000 máy vào năm 1970 đến 500.000 máy vào năm 1980, tiếp tục tăng dần qua các năm. Xu hướng chung cũng được nhìn nhận tại các quốc gia khi dữ liệu thống kê từ Ngân hàng Thế giới và Statistic.com đều cho thấy, tỷ lệ ATM trên 100.000 người trưởng thành trên toàn thế giới cũng duy trì mức tăng trưởng đều đặn từ năm 2008 đến nay.

Một phát kiến tiếp theo cũng có tác động mạnh mẽ tới ngành Ngân hàng nói riêng và xã hội nói chung là sự ra đời của polymer - một vật liệu mà ngày nay đang được sử dụng vô cùng rộng rãi trong công nghệ in tiền tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cụ thể, sự ra đời của polymer trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã tạo tiền đề cho đồng tiền polymer đầu tiên trên thế giới được ra đời tại Úc vào năm 1988. Ban đầu chỉ là một lượng tiền polymer nhỏ được sản xuất với mục đích lưu niệm, song với những lợi ích nổi bật mà tiền polymer mang lại như có khả năng chống nước và độ ẩm cao, sạch hơn, tuổi thọ cao hơn so với tiền giấy, cũng như tính năng bảo mật, chống làm giả tốt hơn so với tiền giấy, thì ngay sau đó, polymer đã chính thức được sử dụng để làm vật liệu in tiền cho tất cả các mệnh giá tiền tệ của Úc. Điều này đồng nghĩa với việc Úc trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới phát hành và giao dịch tiền polymer. Tiếp nối sự cải tiến trong ngành công nghiệp in tiền tại Úc, cho đến nay, tiền polymer đã trở nên phổ biến và được sử dụng tại nhiều nước trên thế giới (Mai Chi, 2021). Cụ thể, theo thống kê vào năm 2016 của IMF, polymer đã được ứng dụng và sử dụng trong công nghệ in tiền tại hơn 20 quốc gia trên thế giới như Úc, Canada, New Zealand, Romania, Việt Nam...

Cuối cùng, phát minh về máy tính ra đời vào khoảng những năm đầu thế kỷ 20 đã giúp cho các ngân hàng có thể đẩy nhanh tốc độ giao dịch để theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh doanh của ngân hàng, giải quyết một số vấn đề cụ thể trong hoạt động của ngân hàng (Bátiz-Lazo và Wood, 2002), cũng như tạo cơ hội cho ngân hàng có thể tự động hóa một số hoạt động của mình (BBC, 1995; Morris, 1986; Seeger et al.,1974). Một ví dụ nổi bật là vào những năm 1960, ngân hàng New South Wales đã đầu tư một khoản tiền lớn để mua chiếc máy tính đầu tiên cho ngân hàng với mục đích thay thế các hoạt động kế toán máy riêng lẻ tại từng chi nhánh bằng một chiếc máy tính xử lý tập trung các giao dịch của ngân hàng. Cũng trong thời điểm này, Barclays trở thành ngân hàng đầu tiên của Anh sử dụng máy tính điện tử trong hoạt động ngân hàng, góp phần tạo nên danh tiếng của ngân hàng như một nhà đổi mới, tiên phong của ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, thiết kế của máy tính vẫn còn nhiều hạn chế như cồng kềnh, chi phí cao, cũng như yêu cầu một đội ngũ kỹ sư và chuyên gia để vận hành và duy trì hoạt động. Do đó, mức độ phủ rộng của máy tính tại ngân hàng chưa thực sự mạnh mẽ và phải sang cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba với kỷ nguyên máy tính thì máy tính mới thực sự bùng nổ và tạo dấu ấn mạnh mẽ trong ngành Ngân hàng.

2.2. Ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba trong ngành Ngân hàng

Diễn ra vào những năm 1970 và kéo dài đến năm 2012, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba đã mang lại bước tiến mới cho ngành Ngân hàng với sự ra đời của máy tính cá nhân, Laptop, Internet, điện thoại di động và điện thoại thông minh.

Cụ thể, những năm 1970 đánh dấu sự ra đời của máy tính cá nhân - một sự phát triển có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội. Bởi lẽ, thời gian trước đó máy tính rất lớn và đắt tiền nên chủ yếu được vận hành bởi các công ty lớn. Tuy nhiên, năm 1977, công ty máy tính Apple Computer giới thiệu máy vi tính cũng được gọi là máy tính cá nhân (Personal Computer - PC). Điều này đã giúp cho các gia đình, cá nhân có thể tiếp cận với máy tính một cách dễ dàng hơn. Do đó, nhu cầu sử dụng máy tính tăng mạnh và biến thị trường này trở nên màu mỡ và sôi động hơn bao giờ hết. Nhiều cá nhân và công ty đã đầu tư vào thị trường máy tính cá nhân. Trong đó, một số máy tính được thiết kế riêng biệt, còn đa phần theo sự dẫn dắt của Apple. Ngành công nghiệp sản xuất máy tính ngày càng phát triển. Vào năm 1981, IBM cuối cùng cũng gia nhập vào thị trường khi giới thiệu máy tính cá nhân của hãng, ngay lập tức tạo cú hích lớn khi trong vài tháng đầu tiên IBM đã bán được hàng chục nghìn máy tính cá nhân. Có thể thấy, chính sự thu nhỏ ngày càng tinh vi hơn của các vi mạch điện tử đã đưa đến việc sử dụng rộng rãi máy tính cá nhân tại nhà và trong kinh doanh. Đặc biệt, với nhu cầu có thể dịch chuyển máy tính mang theo bên mình, máy tính xách tay đã ra đời và trở nên phổ biến trong giới sinh viên, nhà nghiên cứu và doanh nhân.

Quan trọng hơn, vào năm 1974, công ty IBM đã giới thiệu một loạt các thiết bị đầu cuối được chế tạo cho lĩnh vực ngân hàng và thương mại, thông qua các dây cáp mạng các thiết bị đầu cuối có thể truy cập cùng một lúc vào một máy tính dùng chung. Với việc liên kết các máy tính nằm ở trong một khu vực nhỏ như một tòa nhà hay là một khu nhà thì tiền chi phí cho các thiết bị và phần mềm là thấp. Từ đó, việc nghiên cứu khả năng sử dụng chung môi trường truyền thông và các tài nguyên của các máy tính nhanh chóng được đầu tư. Nổi bật trong đó chính là mạng “Internet” - một thuật ngữ được nhắc tới lần đầu tiên vào năm 1974 với tiền thân là ARPAnet - mạng máy tính quy mô lớn đầu tiên kết nối các loại máy tính khác nhau với nhau.

Cùng với nhau, máy tính và Internet đã tạo ra tác động to lớn đến xã hội nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng, khi vào giữa những năm 1990, dịch vụ ngân hàng qua Internet được triển khai, cho phép người dùng có thể truy cập tài khoản của họ bằng máy tính gia đình có kết nối Internet - một yếu tố quan trọng nhất của ngân hàng điện tử (Cati và cộng sự, 2007). Cụ thể, ứng dụng ngân hàng trực tuyến đầu tiên bắt đầu ở Mỹ vào năm 1996, sau đó, các ngân hàng nổi tiếng như Citibank và Wells Fargo cũng bắt đầu cung cấp dịch vụ này cho khách hàng của họ vào năm 2001 (Gefen và Straub, 2005). Tại Singapore, Internet Banking cũng xuất hiện khá sớm vào năm 1997 tại Ngân hàng DPS, theo sau bởi các ngân hàng như UOB và OCBC (Gerrard và cộng sự, 2016). Theo thống kê của European Statistic, số lượng cá nhân sử dụng Internet cho hoạt động ngân hàng trực tuyến liên tục gia tăng từ năm 2010. (Biểu đồ 1)

Biểu đồ 1: Tỷ lệ cá nhân sử dụng Internet để thực hiện Internet Banking


Đơn vị: %

Nguồn: Eurostat.com

Một phát kiến nữa cũng làm thay đổi hoàn toàn cách thức giao dịch hiện nay của con người trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng chính là việc hãng Motorola cho ra mắt chiếc điện thoại di động đầu tiên vào năm 1973, mở ra một thời kỳ phát triển rực rỡ của điện thoại di động ngày nay. Cụ thể, với khởi điểm của chiếc điện thoại di động có chiều dài lên tới 25,4cm, cân nặng 1kg và giá trị vào khoảng 4.000 USD, các phiên bản của điện thoại di động đã cải thiện dần về hình thức, trọng lượng, giá bán và đặc biệt là các tính năng đi kèm. Đỉnh điểm là sự xuất hiện của chiếc điện thoại thông minh đầu tiên trên thế giới có tên gọi là Simon do IBM sản xuất và bán ra trên thị trường vào năm 1993. Tuy nhiên, mãi đến năm 2000, điện thoại thông minh mới được chính thức kết nối với mạng 3G và góp phần đáng kể vào nâng cao lợi thế cho điện thoại thông minh hiện nay. Đặc biệt, theo thời gian khi giá gói cước và chi phí cho điện thoại thông minh giảm dần đã tạo thuận lợi rất lớn để điện thoại di động nói chung và điện thoại thông minh nói riêng phủ sóng khắp toàn cầu. Đây cũng là nền tảng quan trọng để Mobile Banking được triển khai rộng rãi.

Theo Drigă (2015), Mobile Banking là bước phát triển sau ngân hàng trực tuyến và là một kênh phân phối dịch vụ không dây cho phép khách hàng tiến hành các giao dịch tài chính với ngân hàng của họ thông qua thiết bị di động. Hay theo như Krugel (2007), Mobile Banking là một phần mở rộng của cơ sở hạ tầng thanh toán trong ngân hàng thông qua việc tận dụng di động và phạm vi tiếp cận của thiết bị này để cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, dù định nghĩa về Mobile Banking như thế nào thì cũng không thể phủ nhận mức độ tăng trưởng và phủ rộng mạnh mẽ của hình thức này ngày nay. Minh chứng cho điều này trong nghiên cứu về sự trỗi dậy của Mobile Banking trong giai đoạn 2014 - 2019, Dante và Makridis (2021) đã chỉ ra rằng, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng dịch vụ ngân hàng di động đã tăng từ 16% lên 28% trong giai đoạn 2014 - 2019.

2.3. Ứng dụng thành tựu của cuộc CMCN 4.0 trong ngành Ngân hàng

Chính thức đặt dấu ấn chuyển giao giữa cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba và thứ tư là vào năm 2013 khi từ khóa “công nghệ 4.0” được nhắc tới như một mở đầu cho thời kỳ công nghệ cao, hiện đại hóa sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. Đây được coi là cuộc cách mạng số với sự nổi lên của IoT, AI, tương tác thực tại ảo (AR), Cloud Computing, Blockchain, Big Data... có tác động mạnh mẽ tới nhiều ngành nghề lĩnh vực, trong đó có ngành Ngân hàng.

Cụ thể, theo như phân tích của McKinsey được trích dẫn trong nghiên cứu của Omarini (2017), chuyển đổi số mang lại cho ngân hàng cả cơ hội và thách thức. Trong đó, các thách thức được đề cập như sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh mới như Fintech, Big Tech; gia tăng rủi ro hoạt động. Trái lại, ngân hàng lại có cơ hội gia tăng doanh thu từ những mô hình kinh doanh mới, sự ra đời của các sản phẩm mới hoặc bán chéo dữ liệu cho các tổ chức khác. Đồng thời, chi phí hoạt động của ngân hàng cũng sẽ được cắt giảm thông qua quá trình tự động hóa, số hóa và dịch chuyển giao dịch từ chi nhánh ngân hàng sang thiết bị số.

Từ giác độ thách thức, các công ty công nghệ đang dần chuyển dịch sang lĩnh vực dịch vụ tài chính - ngân hàng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Minh chứng cụ thể là sự gia nhập đông đảo của các công ty công nghệ trong lĩnh vực thanh toán. Trong đó, phải kể đến Google - công ty chuyên tìm kiếm thông tin/quảng cáo; Apple - công ty công nghệ/sản xuất phần cứng; Facebook - doanh nghiệp cung cấp phương tiện truyền thông xã hội/quảng cáo; Amazon, Alibaba, Ratuken và Mercado Libre - các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thương mại điện tử/cửa hàng bán lẻ trực tuyến; Tencent - công ty công nghệ, trò chơi và truyền tin. Quan trọng hơn, không chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ thanh toán, các doanh nghiệp này đều ngày càng đầu tư mở rộng danh mục sản phẩm và lấn sân sâu hơn vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng. (Bảng 1)

Bảng 1: Dịch vụ tài chính được cung cấp bởi một số công ty Big Tech lớn


Nguồn: FSB


Với sự gia tăng không ngừng về danh mục sản phẩm, vị trí của các công ty công nghệ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng vì thế mà tăng lên. Qua đó, đe dọa tới doanh thu, lợi nhuận của các ngân hàng - tổ chức tín dụng truyền thống.

Tuy nhiên, chuyển đổi số không chỉ mang lại thách thức mà trong đó, tiềm ẩn rất nhiều cơ hội để ngân hàng có thể vươn lên, bứt phá để hội nhập và gặt hái được nhiều thành công hơn trong tương lai. Trước tiên phải kể đến công nghệ số đã giúp ngân hàng có thể gia tăng khả năng kết nối với các bên liên quan như khách hàng, nhân viên, nhà cung cấp. Qua đó, giúp nâng cao trải nghiệm của khách hàng đối với ngân hàng cũng như nâng tầm vị thế của ngân hàng trên thị trường. Một ví dụ điển hình đó là hiện nay có rất nhiều ngân hàng sử dụng Chatbot trong hỗ trợ, giải đáp các vấn đề thắc mắc chung của khách hàng mà không cần sự hỗ trợ của các nhân viên điều hành trực tiếp. Cụ thể, số liệu thống kê tại Bank of America cho thấy có hơn 10 triệu khách hàng đã tương tác với Chatbot Erica của chính Ngân hàng. Điều này đã giúp cho Bank of America giảm thiểu chi phí nhân sự, dịch vụ và đặc biệt có thể hỗ trợ khách hàng 24/7 giúp đảm bảo hỗ trợ nâng cao trải nghiệm của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng vô cùng thành công. Hay theo như PNC Bank, với những thay đổi nhỏ về chính sách kèm sự hỗ trợ công nghệ, các ngân hàng có thể dễ dàng thay đổi nhận thức của khách hàng và tăng trải nghiệm khách hàng. Ví dụ, PNC Bank đã tích hợp thêm chức năng thanh toán hóa đơn tại ATM. Như vậy ATM thay vì chỉ biết đến với tính năng rút tiền mặt, mà còn có thể hỗ trợ khách hàng thanh toán các hóa đơn mà họ mong muốn.

Lợi ích thứ hai mà ngân hàng nhận được từ công cuộc chuyển đổi số đó là sử dụng dữ liệu lớn trong phân tích và ra các quyết định trong bán hàng, thiết kế sản phẩm, định giá hay phát hành bảo lãnh. Cụ thể, theo một thống kê của Business Insider Intelligence, AI đã được áp dụng vào nhiều khía cạnh trong hoạt động ngân hàng, từ các bộ phận front, middle đến back. Trong đó, việc ứng dụng AI tại các bộ phận front và middle đã mang đến cho ngân hàng cơ hội rất lớn trong giảm thiểu chi phí với số tiền tiết kiệm ước tính lần lượt là 199 tỷ USD và 219 tỷ USD. Đi sâu hơn vào ứng dụng trong vận hành, đối với bộ phận front, công nghệ đang hỗ trợ ngân hàng trong việc củng cố, gia tăng thêm quan hệ với khách hàng, đặc biệt có thể đưa ra các khuyến nghị, hỗ trợ mang tính cá nhân riêng biệt với từng khách hàng. Điều này được ngân hàng thực hiện thông qua việc tận dụng các thuật toán trên giao diện người dùng để xác định và xác thực khách hàng, cũng như bắt chước nhân viên trực tiếp thông qua Chatbot và trợ lý giọng nói để giao tiếp và tương tác với khách hàng. Không dừng lại ở đó, tại bộ phận middle, công nghệ cũng giúp các ngân hàng đánh giá, phát hiện và ngăn chặn gian lận thanh toán, góp phần vào quy trình chống rửa tiền và thấu hiểu khách hàng. Cuối cùng, với khả năng kết nối, tổng hợp và xử lý lượng lớn dữ liệu, tại bộ phận back, AI cũng đã giúp ích cho các ngân hàng rất nhiều trong việc thẩm định và phân tích khách hàng. Một minh chứng cụ thể là Ngân hàng Sberbank có trụ sở tại Nga đã tận dụng sức mạnh của học máy và AI để thiết kế sản phẩm Tips giúp khách hàng có thể kiểm soát tình hình tài chính của mình tốt hơn. Cụ thể, các thông tin về số tiền khách hàng chi tiêu hằng ngày đều được Tips ghi nhận, theo dõi; qua đó, đưa ra các gợi ý trong kiểm soát ngân sách một cách hiệu quả.

3. Kết luận

Theo chiều dài lịch sử các cuộc Cách mạng công nghiệp từ lần thứ nhất đến CMCN 4.0, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến đáng kể làm thay đổi cách thức cũng như phương thức giao dịch và tương tác của ngân hàng đối với khách hàng. Trong đó, những phát kiến được tạo ra trong mỗi cuộc Cách mạng công nghiệp đều là tiền đề cho cải tiến hoạt động của ngân hàng trong những năm tiếp theo. Hay nói cách khác, công nghệ là sự chuẩn bị và là bàn đạp vững chắc cho từng bước đổi mới của ngân hàng. Với việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, ngân hàng đã từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm thiểu chi phí phát sinh, tiếp cận với khách hàng cả về quy mô và chiều sâu. Cụ thể, cuộc Cách mạng công nghiệp thứ nhất và cuộc Cách mạng công nghiệp thứ hai với sự ra đời của máy tự động là tiền đề để phát minh ra ATM đầu tiên trên thế giới vào khoảng những năm 1947 - 1969. Từ đây, mở ra một thời đại tự động hóa trong ngành Ngân hàng, đặc biệt nâng cao trải nghiệm của khách hàng với dịch vụ 24/7. Tiếp theo đó, sự xuất hiện của máy tính vào những năm đầu thế kỷ 20 đã giúp cho các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua việc gia tăng tốc độ và khối lượng giao dịch. Tuy nhiên, với những rào cản về chi phí đầu tư và vận hành, việc ứng dụng máy tính chưa thực sự phổ rộng. Phải đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba, bắt đầu vào những năm 1970, với sự ra đời của máy tính cá nhân và mạng Internet thì hình thức ngân hàng máy tính, ngân hàng trực tuyến mới thực sự nở rộ. Và đến nay, khi cả thế giới bắt đầu chuyển tiếp sang CMCN 4.0 với những xu hướng mới như xử lý Big Data, IoT, AI, Cloud Computing, thì ngành Ngân hàng cũng đang có những chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng, phát triển sản phẩm và nâng cao chất lượng chăm sóc khách hàng.

Tài liệu tham khảo:

1. Ayllon, T.W.I., 2020. Digital transformation in the banking sector and its impact on financial inclusion: BIM Peru case study (Doctoral dissertation).

2. Bátiz-Lazo, B. and Wood, D., 2002. An historical appraisal of information technology in commercial banking. Electronic Markets, 12(3), pp.192-205.

3. Dante, H. and Makridis, C., 2021. The Rise of Mobile Banking and the Displacement of Brick-and-Mortar Branches,

2014 - 2019. Available at SSRN 3822561.

4. Drigă, I., 2015. The rise of mobile banking. Annals of the University of Petros-ani. Economics, 15, pp.29-36.

5. FSB., 2020. Big Tech Firms in Finance in Emerging Market and Developing Economies. Retrieved from https://www.fsb.org/wp-content/uploads/P121020-1.pdf

6. Galazova, S.S. and Magomaeva, L.R., 2019. The transformation of traditional banking activity in digital.

7. Kazarenkova, N.P., Svetovtseva, T.A. 2018. The Transformation of the Russian Banking System under the Influence of the Digitalization of the Economy. News of SouthWest State University. Series: Economy. Sociology. Management, 4(29), 188-195

8. Omarini, A., 2017. The digital transformation in banking and the role of FinTechs in the new financial intermediation scenario.

9. Thalassinos, E. I., & Thalassinos, Y. (2018). Financial Crises and e-Commerce: How Are They Related. Available at SSRN 3330169.


Nguyễn Bích Ngọc

Học viện Ngân hàng


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Bài viết đề cập đến vai trò then chốt của ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện và xu thế toàn cầu hóa. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều chiến lược thúc đẩy chuyển đổi số, hiện đại hóa hoạt động toàn ngành. Bài viết đồng thời phân tích nhiệm vụ, thành tựu, khó khăn trong quá trình này và đề xuất giải pháp giúp ngành Ngân hàng thực hiện sứ mệnh phát triển trong thời kỳ mới.
Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thương mại điện tử phát triển mạnh sau đại dịch Covid-19 nhưng kéo theo nhiều rủi ro về bảo mật thông tin và dữ liệu cá nhân, gây ra tình trạng xâm phạm, đánh cắp dữ liệu và gia tăng tội phạm mạng. Do đó, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân trở thành yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh kinh tế số. Bài viết phân tích thực trạng bảo vệ dữ liệu, chỉ ra những hạn chế và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Phát triển ngân hàng số  và thanh toán không dùng tiền mặt  tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Phát triển ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Nghiên cứu phân tích sự bùng nổ của ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024, với sự tăng trưởng mạnh về số lượng khách hàng, giao dịch và chuyển dịch sang kênh điện tử. Động lực là sự phối hợp giữa chính sách, đổi mới từ ngân hàng, công nghệ và sự hưởng ứng của người dân. Nghiên cứu kết luận giai đoạn này góp phần thúc đẩy chuyển đổi số và đề xuất giải pháp duy trì tăng trưởng, khắc phục thách thức về an ninh và khoảng cách số.
Đặc trưng của chuyển đổi số  và những tác động đến hoạt động  của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Đặc trưng của chuyển đổi số và những tác động đến hoạt động của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Chuyển đổi số, nổi bật trong bối cảnh CMCN 4.0, đang thay đổi sâu sắc cách vận hành và cung cấp dịch vụ trong ngành ngân hàng, bao gồm cả ngân hàng trung ương. Bài viết làm rõ khái niệm, đặc điểm của chuyển đổi số trong lĩnh vực này, phân tích tác động đến hoạt động của các NHTW trên thế giới và đề xuất gợi ý cho Việt Nam.
Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Với quyết tâm từ các cấp lãnh đạo, nỗ lực của ngành Ngân hàng và ý thức cảnh giác của mỗi người dân, chúng ta hoàn toàn có thể giảm thiểu mối đe dọa từ deepfake, góp phần bảo vệ an ninh tài chính quốc gia trong kỷ nguyên số hóa.
Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Những năm gần đây, token được sử dụng rộng rãi đối với các giao dịch trực tuyến trong lĩnh vực tài chính -ngân hàng, nhằm đảm bảo an toàn cho tài khoản của khách hàng. Tiến bộ công nghệ đã dẫn đến xu hướng tạo dựng token điện tử trên các nền tảng có khả năng lập trình với mục tiêu cung cấp hạ tầng cơ sở (gọi là sắp đặt token) và mã hóa các token (tokenization) để hỗ trợ các bên tham gia phát hành, chuyển giao tiền tệ và những tài sản khác, bắt đầu được triển khai trên thị trường tài sản ảo và nhanh chóng được nghiên cứu, thử nghiệm rộng rãi.
Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Ngày 29/5/2025, tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Thời báo Ngân hàng đã phối hợp với Vụ Thanh toán - NHNN tổ chức sự kiện “Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025” với chủ đề “Hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới”. Tham dự sự kiện có đồng chí Phạm Minh Chính - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Ban Chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06.
Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Bài viết phân tích sự chuyển dịch của hệ thống chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số, nhấn mạnh vai trò của hành vi khách hàng, hiệu quả chi phí và công nghệ. Mô hình hybrid được xem là giải pháp tối ưu, kết hợp giữa kênh số và chi nhánh truyền thống. Nghiên cứu đề xuất tái cấu trúc mạng lưới, nâng cao năng lực nhân sự và ứng dụng dữ liệu lớn để phục vụ đa dạng nhu cầu khách hàng.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng