Làm việc tại nhà hay văn phòng? Xu hướng làm việc mới trong tương lai

Nghiên cứu - Trao đổi
Làm việc tại nhà - Work From Home (WFH) đang là xu hướng mới trên toàn cầu, cũng như tại Việt Nam... Tóm tắt: Làm việc tại nhà - Work From Home (WFH) đang là xu hướng mới trên toàn cầu, cũng như tại ...
aa

Làm việc tại nhà - Work From Home (WFH) đang là xu hướng mới trên toàn cầu, cũng như tại Việt Nam...

Tóm tắt: Làm việc tại nhà - Work From Home (WFH) đang là xu hướng mới trên toàn cầu, cũng như tại Việt Nam. Rất nhiều doanh nghiệp đã chủ động dịch chuyển theo xu hướng này. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát từ ngày 19/9/2021 đến hết ngày 30/9/2021 thu thập 1.280 ý kiến cá nhân đang làm công việc văn phòng tại Việt Nam. Nghiên cứu chỉ ra mức độ WFH tại Việt Nam và có so sánh với các nghiên cứu tại 29 quốc gia khác về việc trở lại văn phòng hay làm việc tại nhà sau đại dịch Covid-19. Nghiên cứu chỉ ra các lợi ích chính, cũng như những hạn chế chính khi WFH. Nhóm tác giả cũng đưa ra nhận định cá nhân và một số khuyến nghị giúp doanh nghiệp và người lao động WFH tốt hơn.

Từ khóa: Làm việc tại nhà, làm việc từ xa, Work From Home, WFH, mô hình kết hợp.

Đại dịch Covid-19 đã gây ra khủng hoảng và xáo trộn tồi tệ trên toàn thế giới, cũng như Việt Nam. Social distancing - giãn cách xã hội và làm việc tại nhà - WFH là những cụm từ được sử dụng nhiều nhất trong thời gian gần đây.

Hai năm qua, các tổ chức, doanh nghiệp bị tác động rất mạnh bởi cơn bão đại dịch Covid-19, các dòng tiền bị dừng đột ngột, chuỗi cung ứng sản xuất và tiêu dùng toàn cầu đều bị đình trệ, đứt gãy do đi lại bị phong tỏa, giãn cách. Để ngăn chặn sự lây nhiễm, tránh tình trạng đóng băng, thua lỗ và duy trì được hoạt động kinh doanh, công việc văn phòng thì làm việc từ xa trở thành giải pháp tối ưu của các tổ chức, doanh nghiệp và người lao động. Một xu hướng tất yếu đó là phải tự chuyển đổi để thích nghi với hình thức WFH. Dù muốn hay không, hình thức làm việc từ xa có lẽ sẽ trở thành xu hướng nổi bật không chỉ ở thời điểm hiện tại mà chúng ta cần chuẩn bị tâm thế sẵn sàng để thay đổi trong tương lai.

1. WFH là gì?

WFH dịch theo tiếng Việt nghĩa là “Làm việc tại nhà” hay “Làm việc từ xa”. WFH chính là hình thức làm việc tại nhà hoặc tại các địa điểm ngoài văn phòng, doanh nghiệp, công ty, hình thức làm việc này đã xuất hiện từ rất lâu về trước và đã được áp dụng cho một số ngành nghề, công việc không yêu cầu người lao động phải làm việc trực tiếp tại doanh nghiệp.



WFH đang là xu hướng làm việc mới trên toàn cầu (Ảnh: TNT)

Trước đây, WFH không được các nhà quản lý khuyến khích bởi có thể nhân viên chưa tập trung trong công việc, người quản lý khó giám sát và theo dõi quy trình làm việc của nhân viên, không trực tiếp quản lý nhân viên cũng như thiếu các công cụ báo cáo, giám sát trực tiếp về công việc. Tuy nhiên, đến năm 2020, WFH lại được xem là xu hướng làm việc tất yếu mà các doanh nghiệp phải tuân thủ. WFH trong quá khứ không mang đến hiệu quả tối ưu, nguyên nhân là do các hạn chế về công nghệ. Do đó, nhân viên WFH thường chưa được xem là nhân viên quan trọng và chưa được đánh giá cao.

Hiện nay, nhờ có công nghệ phát triển, WFH có thể cho thấy các ưu điểm và lợi ích của mình. Công nghệ và phần mềm hỗ trợ giúp các nhà quản lý có thể giám sát và điều hành nhân sự của mình thông qua các thiết bị kết nối Internet. WFH có thể áp dụng cho nhiều hình thức kinh doanh khác nhau.

Đối với các nhân viên, họ sẽ gọi hình thức làm việc này là sự thay đổi chỗ làm từ văn phòng về nhà, “nhà ở đâu, làm việc ở đấy”. Đối với các lãnh đạo công ty, họ sẽ gọi là “làm việc từ xa”. Với họ, không chỉ thay đổi nơi làm việc, mà còn là thay đổi hình thức quản trị công ty, quản lý nhân viên và phân bổ công việc. Dù gọi với bất cứ cái tên nào đi chăng nữa thì sự thay đổi nào cũng cần thời gian và sự chấp nhận. Khi biết chấp nhận hoàn cảnh công việc mới, đó là lúc bạn đã sẵn sàng để tiếp thu những điều mới. Và cái tên gọi “Work From Home - WFH” được dùng chung cho cả người lao động và người sử dụng lao động khi nói về làm việc tại nhà.

2. Trước đại dịch Covid-19, WFH diễn ra như thế nào?

Vào những năm 1940, khi Nhật Bản đang cần thay đổi trước tình trạng nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đất nước này đã thay đổi cơ cấu tài chính từ tập đoàn gia đình trị Zaibatsu thành liên minh giữa các công ty, gọi là Keiretsu. Mỗi Keiretsu là một tổ chức tài chính và việc sở hữu cổ phần chéo giữa các công ty trong mạng lưới. Họ phải kinh doanh với những người làm việc ở các địa điểm và các ngành khác nhau, trong mối quan hệ hai chiều của sự trao đổi đầu tư. Với sự sáng tạo của hệ thống mạng lưới mới mẻ này, thế giới làm việc từ xa được hình thành.

Theo sự phát triển của Internet, hình thức làm việc từ xa dần dần có sự hỗ trợ của công nghệ. Đặc biệt, khi suy thoái xảy ra, nhiều công ty buộc phải tận dụng hình thức làm việc này đối với nhân viên. Xét về hình thức làm việc từ xa của các năm về trước với thời điểm hiện tại, tuy cách thức làm việc giống nhau, đều sử dụng công nghệ để làm việc từ xa, nhưng trạng thái tinh thần lại khác nhau.

Tại Việt Nam, trước đại dịch Covid-19, chỉ 7,5% người khảo sát đã làm việc tại nhà.

3. Đại dịch Covid-19 làm thay đổi phương thức làm việc truyền thống

Tại Việt Nam, dịch Covid-19 đã xuất hiện từ đầu năm 2020 và bùng phát cao điểm lần thứ tư diễn ra nghiêm trọng với biến chủng Delta cực kỳ nguy hiểm, lây lan rất nhanh, khó kiểm soát, đã ảnh hưởng hết sức tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, làm đảo ngược các thành quả phòng, chống dịch trước đây.

Đến ngày 30/9/2021, thế giới ghi nhận hơn 234 triệu ca mắc Covid-19, trên 4,7 triệu trường hợp tử vong. Việt Nam đã ghi nhận khoảng 787.000 ca mắc, 606.000 người đã khỏi bệnh (74%); có 13/62 tỉnh đã qua 14 ngày không ghi nhận ca mắc mới, 7 tỉnh không có lây nhiễm thứ phát, có 01 tỉnh chưa ghi nhận ca mắc (Cao Bằng). Tỷ lệ mắc bệnh trên một triệu dân của Việt Nam xếp thứ 154/223 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tỷ lệ tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 136/223 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Trong ba đợt dịch trước đây, công tác phòng, chống dịch dựa vào 5 nguyên tắc cơ bản là ngăn chặn, phát hiện, cách ly, khoanh vùng dập dịch, điều trị và công thức 5K, đã thành công trong phòng, chống dịch với các chủng ban đầu.

Với hầu hết mọi người làm việc tại nhà, WFH đang là một tình thế bất đắc dĩ, đặc biệt khi dịch Covid-19 bùng phát và lây lan mạnh, việc hạn chế đi lại và cách ly là điều bắt buộc. Đối với các nhân viên, có thể sẽ có nhiều người thích, nhiều người không. Nhưng đây, có thể là một hình thức làm việc mặc định giữa đại dịch lịch sử. Điều này khiến những nhân viên khi WFH dần học được sự linh hoạt trong phong cách làm việc, bởi WFH như một trải nghiệm thích ứng với tình hình mới. Các công ty, doanh nghiệp có triển khai được WFH như một cứu cánh hữu hiệu mùa dịch, vừa thực hiện đúng quy định giãn cách, giúp mọi người an toàn hơn trong mùa dịch mà vẫn tạo ra giá trị quan trọng cho tổ chức, tạo lợi thế cạnh tranh so với các tổ chức không thực hiện được WFH.

Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu, trong đợt dịch thứ tư này, có tới 81,8% nhân viên WFH. Trong đó, ngành Ngân hàng chiếm 67,8%; Kế toán, kiểm toán 6,3%; Công ty tài chính 4,1%; ngành khác 21,7%. Vẫn còn 10,7% nhân viên không thể WFH do tính chất công việc hoặc không đủ phương tiện, công cụ hỗ trợ để WFH. (Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Kết quả khảo sát mức độ WFH


Dịch Covid-19 bùng phát mạnh tại TP. Hồ Chí Minh, đồng thời với chính sách thận trọng trong phòng dịch tại Hà Nội, nên tỷ lệ nhân viên tại hai thành phố là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh WFH đã chiếm 74,1%, cao hơn các khu vực tỉnh, thành, khác như khu vực Miền Trung 13,9%; khu vực phía Bắc (ngoài Hà Nội) 5,6%; khu vực phía Nam (ngoài TP. Hồ Chí Minh) 6,4%.

Các lợi ích khi thực hiện WFH

Qua kết quả khảo sát, trên 70% người tham gia khảo sát cho rằng, WFH giúp phòng tránh dịch bệnh tốt hơn cho bản thân, tuân thủ các quy định, hưởng ứng tinh thần phòng dịch và có trách nhiệm hơn với cộng đồng trong phòng dịch. Điều này đặc biệt quan trọng trong thời kỳ cao điểm của đại dịch Covid-19.Trên 50% người tham gia khảo sát cho rằng, WFH tạo cảm giác thoải mái hơn so với làm việc tại văn phòng vì trang phục làm việc thoải mái hơn, tạo cảm giác an toàn, thoải mái hơn khi không phải điều khiển phương tiện giao thông và có thời gian làm việc linh hoạt hơn.

54% nhân viên JP Morgan Chase thích địa điểm và thời gian làm việc được linh hoạt.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy, 48,6% người lao động WFH giúp họ gần gũi hơn với gia đình, so với trước đây khi làm việc toàn thời gian ở văn phòng họ chưa có được. (Biểu đồ 2).

Trong một cuộc khảo sát với 25.000 nhân viên từ các nước như Pháp, Úc, Nhật Bản, Nga... cho thấy, 2/3 trong số họ cảm thấy làm việc online hay từ xa hiệu quả hơn. Thực tế, con người luôn đòi hỏi công việc phải có sự cân bằng giữa công sở, gia đình, quan hệ xã hội và các lợi ích cá nhân, tính linh hoạt trong công việc… và hình thức làm việc từ xa cho phép nhân viên cân bằng được những nhu cầu này.

Theo Bloomberg, Fujitsu thông báo sẽ giảm 50% không gian văn phòng tại Nhật trong vòng 3 năm tới. Công ty cũng khuyến khích khoảng 80.000 người lao động WFH. Ngoài Fujitsu, nhiều tập đoàn công nghệ đa quốc gia như Facebook, Google, Twitter, Amazon cũng đã có lựa chọn WFH cho nhân viên kể cả sau dịch.

Trong thời kỳ khảo sát, thời gian WFH bình quân một tuần 4,39 ngày/tuần. Trong đó, có 72% đang làm việc 100% tại nhà (cả 5 ngày/tuần). Với thời gian làm việc bình quân là 8,2 giờ/ngày, cao hơn mức quy định 8 giờ/ngày khi làm việc tại văn phòng, điều đó thể hiện sự tự giác và nỗ lực của nhân viên. (Biểu đồ 3).

Biểu đồ 3: Thời gian WFH trung bình khi đại dịch Covid-19 (ngày/tuần)



Khi WFH, mỗi người tiết kiệm chi phí, thời gian khi không tham gia giao thông và 58% cảm thấy an toàn, thoải mái hơn khi không phải điều khiển phương tiện giao thông, giúp giảm tai nạn giao thông, giảm một phần chi phí đi lại.

Những người có năng suất cao hơn khi WFH là nhưng người nỗ lực làm việc khi ở nhà nhiều thời gian hơn (9 giờ/ngày). 53,4% nhân viên WFH có năng suất thấp hơn, một phần họ làm việc ít hơn (7,9 giờ/ngày) và có thể họ còn chưa quen với phương thức làm việc này hoặc chưa được hỗ trợ, kết nối tốt từ văn phòng. (Bảng 1).

Bảng 1: Kết quả khảo sát về năng suất làm việc khi WFH


Hạn chế khi thực hiện WFH

WFH cũng có những hạn chế nhất định: Tỷ lệ 44,5% người khảo sát cho rằng, WFH thiếu tiếp xúc trực tiếp làm giảm ý tưởng sáng tạo; 36,3% người khảo sát cảm thấy cô đơn, thiếu tính kết nối với tổ chức; 35,6% người khảo sát thấy nhớ đồng nghiệp (thấp hơn mức trên 50% tại cuộc khảo sát 29 quốc gia của IPSOS tại diễn đàn Kinh tế thế giới). (Biểu đồ 4).

Biểu đồ 4: Tỷ lệ đồng ý với các hạn chế mang lại khi WFH


Điều đáng lưu ý là 64% người có năng suất lao động thấp hơn là phụ nữ có con dưới 17 tuổi, với thời gian làm việc bình quân của họ cũng là 7,9 giờ/ngày, họ thiếu tập trung và bị ảnh hưởng tới công việc chăm sóc con và công việc nhà.

4. Xu hướng WFH trong tương lai và một số phát hiện từ nghiên cứu

WFH ngày càng quan trọng và cần thiết, đây không chỉ là một phương thức làm việc trong mùa dịch mà còn là trạng thái “bình thường mới” của các tập đoàn sau đại dịch Covid-19: Giờ làm việc của nhân viên được linh động hơn, giảm tai nạn giao thông, giảm một phần chi phí đi lại, giúp công ty “tối ưu chi phí”. Đây có thể nói là một “hướng đi” mới cho các doanh nghiệp khi vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh, vừa đạt được hiệu quả công việc và lợi ích sức khỏe cho nhân viên.

Kết quả nghiên cứu ở Việt Nam về xu hướng làm việc trong tương lai tại khảo sát này đã chỉ ra:

(1) 36,5% ý kiến mong muốn tiếp tục WFH sau khi kết thúc đại dịch hoặc trong tương lai.

Đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và tác động tai hại hơn mọi dự báo, đà hồi phục chậm hơn so với mong đợi kéo theo tình trạng người thất nghiệp quá nhanh. Các công ty cắt giảm chi phí bằng cách sa thải nhân viên hoặc cắt giảm lương, hàng loạt người bị mất việc, nhiều người WFH trong thời gian giãn cách xã hội hòa chung vào thị trường lao động tự do. Khi đã làm quen được với hình thức WFH hoặc làm việc từ xa, có lẽ nhiều người chợt nhận ra, hóa ra làm việc từ xa cũng có nhiều cơ hội. Tuy nhiên, thị trường này sẽ trở thành một miếng bánh khó “nuốt” nếu bạn không có những lợi thế cạnh tranh về kỹ năng lẫn kinh nghiệm, nếu không chứng minh được mình có tiềm năng thì “cơ hội vượt trội” của bạn sẽ rất khó.

(2) Số người được hỏi mong muốn sau khi kết thúc đại dịch Covid-19 hoặc trong tương lai WFH bình quân 2,55 ngày/tuần (cao hơn một chút so với khảo sát tại 29 quốc gia là 2,5 ngày. Tuy nhiên, vẫn thấp hơn mức người lao động các nước châu Á muốn WFH lần lượt là 3,4 ngày/tuần tại Indonesia; 2,9 ngày/tuần tại Singapore và 2,8 ngày/tuần tại Malaysia.

Theo Harvard Business Review tháng 8/2021: Nhân viên muốn WFH trung bình 2,5 ngày một tuần và 80% người Mỹ muốn WFH ít nhất một ngày mỗi tuần; mong muốn WFH và cắt giảm việc đi lại đã tăng lên khi đại dịch vẫn kéo dài và nhiều người ngày càng trở nên thoải mái hơn với những tương tác từ xa giữa con người với nhau. Sự lan truyền nhanh chóng của biến thể Delta cũng làm giảm động lực cho việc sớm quay trở lại văn phòng toàn thời gian.

(3) Chỉ có 10,7% người lao động làm công việc văn phòng không WFH trong thời điểm khảo sát từ ngày 19/9/2021 đến hết ngày 30/9/2021.

Cuộc khảo sát tại 29 quốc gia của IPSOS cho Diễn đàn Kinh tế thế giới nhấn mạnh sự chuyển đổi sang làm việc từ xa do đại dịch Covid-19 gây ra. Trước đại dịch, chưa đến một phần tư (24%) làm việc chủ yếu ở nhà; trên toàn cầu, 53% cho biết họ chủ yếu hoặc luôn luôn làm việc trong văn phòng. Tại thời điểm khảo sát, được thực hiện từ ngày 21/5/2021 đến ngày 04/6/2021, con số đó đã giảm xuống còn 39% và mức độ mà mọi người đang làm việc chủ yếu hoặc hoàn toàn ở nhà rất khác nhau giữa các quốc gia: Từ ít nhất một nửa số người được khảo sát ở Nam Mỹ, Malaysia, Singapore và Nam Phi, đến 21% ở Nga và chỉ 15% ở Trung Quốc, tại Việt Nam là 36,5%.

(4) Đại dịch Covid-19 bùng phát lần thứ tư, người khảo sát có tỷ lệ WFH cao và đang dịch chuyển rất mạnh từ làm việc tại văn phòng sang WFH: Trước đại dịch, chỉ 7,5% WFH; trong đợt dịch lần thứ tư, con số này tăng lên 89,3% do hệ quả của đại dịch Covid-19 và có 36,5% người khảo sát vẫn mong muốn WFH khi đại dịch kết thúc hoặc trong tương lai.

Cuộc khảo sát 29 quốc gia của IPSOS: Ngày nay, khoảng ba phần tư (76%) hiện đang WFH cho biết đó là hệ quả của đại dịch Covid-19.

(5) Khoảng 3/4 người được hỏi mong muốn tổ chức cho phép người lao động duy trì sự linh hoạt trong công việc (lựa chọn địa điểm, lịch trình, thời gian làm việc và phương thức tuyển dụng linh hoạt).

(6) Gần 1/3 người được hỏi cân nhắc tìm việc khác với mức lương và trách nhiệm tương đương nếu công ty muốn họ quay lại văn phòng toàn thời gian.

Theo Harvard Business Review tháng 8/2021: Họ tiết lộ rằng, hơn 40% nhân viên Hoa Kỳ sẽ bắt đầu tìm kiếm một công việc khác hoặc nghỉ việc ngay lập tức nếu được yêu cầu quay lại văn phòng toàn thời gian. Không có gì ngạc nhiên khi Goldman Sachs vừa công bố mức tăng lương 30% cho các nhân viên mới. Nếu bạn muốn nhân viên trở lại văn phòng toàn thời gian, bạn phải trả tiền cho việc đó.

Theo The Wall Street Journal ngày 06/7/2021: Các tập đoàn tài chính lớn như Goldman Sach và JPMorgan Chase đang thực hiện gọi nhân viên trở lại trực tiếp làm 5 ngày một tuần tại New York. Họ có thể mất đi một số nhân viên tài năng thích sự linh hoạt so với đối thủ sẵn sàng cạnh tranh như CityGroup vẫn áp dụng cho nhân viên WFH.

Để WFH hiệu quả hơn, kết quả khảo sát chỉ ra:

(1) Khoảng 9/10 người lao động WFH mong muốn tổ chức hỗ trợ họ hiểu và cải thiện quy trình phù hợp với WFH; chuẩn bị tốt các công cụ kết nối với văn phòng và dữ liệu; giao mục tiêu và đánh giá công việc phù hợp với phương thức WFH; đồng thời, cần thiết lập các cuộc họp, kết nối, quan tâm hỗ trợ họ cải thiện năng suất công việc kịp thời.

(2) Khoảng 8/10 người lao động cho rằng để làm việc WFH hiệu quả hơn họ cũng cần chủ động: Lên kế hoạch công việc và xác định sẵn các lịch làm việc nhóm; tạo một không gian văn phòng tại nhà, chuẩn bị đầy đủ các thiết bị và công cụ kết nối với văn phòng.

5. Nhận định và một số khuyến nghị

Trong đại dịch Covid-19, WFH được xem là phương thức làm việc tất yếu mà các doanh nghiệp và người lao động phải tuân thủ. Từ năm 2020 đến nay, WFH giúp họ phòng tránh dịch bệnh tốt hơn; tuân thủ các quy định và hưởng ứng tinh thần phòng dịch và có trách nhiệm hơn với cộng đồng. Điều này đặc biệt quan trọng vào thời điểm bùng dịch lần thứ tư tại Việt Nam, đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới TP. Hồ Chí Minh, các tỉnh phía Nam và nhiều tỉnh, thành trong cả nước.


Biểu đồ 5: Mong muốn của người lao động khi WFH


WFH không chỉ là một phương thức làm việc trong mùa dịch, thực ra nó là trạng thái “bình thường mới” của các tập đoàn, doanh nghiệp sau đại dịch Covid-19. Đây có thể là một xu hướng mới cho các doanh nghiệp để vừa duy trì được hoạt động kinh doanh, vừa đạt được hiệu quả công việc và mang lại lợi ích, sức khỏe cho nhân viên.

WFH đang là xu hướng mới trên toàn cầu, cũng như tại Việt Nam. Rất nhiều doanh nghiệp đã chủ động dịch chuyển theo xu hướng này tạo lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh; để thu hút, giữ chân nhân tài và tạo ra giá trị cho cả tổ chức và người lao động.

Đối với doanh nghiệp

Để đạt hiệu quả hơn trong phương thức WFH theo mô hình kết hợp giữa làm việc tại văn phòng và tại nhà, doanh nghiệp cần lưu ý một số khuyến nghị sau:

Thứ nhất, cho phép người lao động lựa chọn phương thức làm việc linh hoạt giữa làm việc tại văn phòng và WFH phù hợp với đặc điểm kinh doanh, văn hóa của tổ chức.

Thứ hai, chuẩn bị tốt hơn công cụ kết nối văn phòng và dữ liệu từ xa, đảm bảo thuận tiện và an toàn. Cải thiện quy trình phù hợp khi làm việc từ xa.

Thứ ba, linh hoạt hơn trong tuyển dụng từ xa, cân nhắc cẩn trọng nếu chính sách yêu cầu người lao động phải làm việc toàn phần tại văn phòng để thu hút và giữ chân nhân tài, những người thích WFH nếu họ muốn chuyển đổi.

Thứ tư, đầu tư và thiết kế văn phòng linh hoạt, tối ưu phù hợp với xu hướng làm việc từ xa.

Thứ năm, tăng cường đào tạo và hỗ trợ cần thiết nhân viên WFH, kết nối với đội nhóm, đồng nghiệp, giúp nhân viên cảm thấy đỡ nhớ đồng nghiệp và gắn kết hơn với tổ chức.

Đối với người lao động

Để phương thức WFH theo mô hình kết hợp giữa làm việc tại văn phòng và tại nhà hiệu quả hơn, người lao động cần lưu ý một số khuyến nghị sau:

(1) Cần tạo một không gian văn phòng phù hợp nhất tại nhà.

(2) Chuẩn bị tốt nhất các công cụ làm việc và kết nối với văn phòng.

(3) Lập danh sách việc cần làm, ưu tiên công việc trọng tâm, tạo giá trị quan trọng. Chủ động chuẩn bị và hẹn giờ các lịch họp trước thời gian bắt đầu, kết nối tốt, chuyên nghiệp khi tương tác nhóm online.

(4) Chủ động hiểu các quy định liên quan đến công việc và tích cực góp ý tưởng cải thiện quy trình phù hợp với làm việc từ xa, tăng năng suất làm việc.

(5) Chủ động đề xuất sự hỗ trợ từ tổ chức, tham gia các hội, nhóm cải thiện công việc, nâng cao hiệu suất và sức khỏe tinh thần khi WFH.

Đại dịch Covid-19 vẫn trở thành thách thức với xã hội và chưa thể kiểm soát ngay trong thời gian tới, nhưng dù có khó khăn đến đâu, việc phải đối diện với nó là điều bắt buộc, bởi sự bùng phát này đã tạo ra sự thay đổi lâu dài trong cách con người làm việc và sinh hoạt. Thế giới thay đổi không ngừng, chúng ta phải tạo ra các cơ hội mới trong tình hình mới.

Làm việc từ xa hay làm việc tại công ty chỉ là hình thức làm việc, quan trọng là dù bạn làm ở đâu, trong môi trường, hoàn cảnh nào, cũng cần linh hoạt và nỗ lực học tập không ngừng, đó mới là vũ khí giúp bạn sống tốt giữa thời đại thiên biến vạn hóa rất nhanh này. Vì vậy, hãy WFH với “Cả trái tim và tinh thần nhiệt huyết”.

Tài liệu tham khảo:

1.https://money.usnews.com/investing/news/articles/2021-05-04/working-from-home-doesnt-work-for-those-who-want-to-hustle-jpmorgan-ceo

2.https://www.forbes.com/sites/jackkelly/2021/04/13/jpmorgan-plans-to-have-about-25000-of-its-employees-work-from-home/

3. https://www.indeed.com/cmp/JPMorgan-Chase/topics/work-from-home

4.https://www.wsj.com/articles/jpmorgan-goldman-call-time-on-work-from-home-their-rivals-are-ready-to-pounce-11625563800

5. https://www.weforum.org/agenda/2021/07/back-to-office-or-work-from-home-survey/

6. https://virtusinterpress.org/THE-BENEFITS-AND-PITFALLS-OF.html

7. https://hbr.org/2021/08/dont-force-people-to-come-back-to-the-office-full-time

8. https://vnexpress.net/tuong-lai-dai-dich-6-thang-toi-4356096.html

9. https://linkpower.vn/total-rewards/work-from-home-la-gi

10. https://globalopentour.com/work-from-home-xu-huong-lam-viec-trong-mua-dich-covid19

11. https://isoftglobe.com/2021/05/29/xu-huong-lam-viec-moi-cua-nen-kinh-te-hien-dai-work-from-home/

12. https://workit.vn/TinTucChiTiet/Index/219Những rào cản khi làm việc tại nhà và những bí quyết để khắc phục.

13. http://nld.com.vn/cong-nghe/lam-viec-tu-xa-hieu-qua-20210814203228802.htm

14. https://phunuhiendai.vn/8-diem-han-che-khi-lam-viec-tu-xa-ban-nen-tinh-den/

15.https://saigonbooks.com.vn/blog/goc-chuyen-tro-3/post/covid-19-va-su-len-ngoi-cua-hinh-thuc-work-from-home-245

16. https://laodong.vn/cong-nghe/work-from-home-ban-da-san-sang-lam-viec-o-nha-chua-877063.ldo

17.https://saigonbooks.com.vn/blog/goc-chuyen-tro-3/post/covid-19-va-su-len-ngoi-cua-hinh-thuc-work-from-home-245

18.https://moh.gov.vn/tin-noi-bat/-/asset_publisher/3Yst7YhbkA5j/content/covid-19-nhung-quyet-inh-mang-tam-chien-luoc-vi-tinh-mang-va-suc-khoe-nhan-dan

19.https://ncov.vnanet.vn/tin-tuc/thu-do-nhung-ngay-gian-cach-dot-dich-lan-thu-4-bai-1-trieu-con-tim-mot-y-chi/cb0b7f8d-1119-442e-9c80-9a7e489904cd

20. https://tuoitre.vn/gan-160-ngay-tp-hcm-chong-dich-20210925192946811.htm

TS. Nguyễn Thị An Bình, ThS. Trịnh Khánh Trung (MB)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ để thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050 và đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững, ESG đã và đang trở thành một yêu cầu tất yếu đối với hệ thống tài chính nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng...
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân là kim chỉ nam giúp chúng ta xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, không chỉ hội nhập thành công với thế giới mà còn giữ vững được bản sắc dân tộc, bảo đảm sự ổn định và phát triển lâu dài cho đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Những năm gần đây, nhiều tập đoàn đã bắt đầu chú trọng vào các vấn đề đảm bảo tính bền vững trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chuỗi cung ứng và các quyết định đầu tư của mình. Tại các buổi thảo luận của Liên hợp quốc, các quốc gia trong nhóm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và G20 đã thể hiện sự đồng thuận mang tính quốc tế cao rằng, để tăng cường tính ổn định tài chính và phát triển kinh tế dài hạn, cần nhanh chóng cải thiện các hoạt động về quản trị trách nhiệm với môi trường và xã hội (Environmental and Social Governance - E&S) tại các doanh nghiệp. Một trong những hoạt động mà Liên hợp quốc hướng tới là khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện Báo cáo phát triển bền vững.
Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Xem thêm
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng