Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2024 và một số đề xuất, khuyến nghị

Nghiên cứu - Trao đổi
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; đặc biệt là trong bối cảnh diễn biến phức tạp, khó lường của triển vọng kinh tế toàn cầu, các xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát thế giới còn ở mức cao, các ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu…
aa

Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; đặc biệt là trong bối cảnh diễn biến phức tạp, khó lường của triển vọng kinh tế toàn cầu, các xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát thế giới còn ở mức cao, các ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu…, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn tích cực ở hầu hết các mặt. Tốc độ tăng trưởng GDP quý III/2024 ước tăng 7,4%, 9 tháng đầu năm ước tăng 6,82% so với cùng kỳ. Xu hướng cải thiện của nền kinh tế diễn ra ở cả phía cung và phía cầu, nhiều cân đối lớn của nền kinh tế tiếp tục được bảo đảm, lạm phát trong tầm kiểm soát.

1. Đánh giá tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam 9 tháng đầu năm 2024

Tình hình kinh tế Việt Nam trong tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2024 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước; tính chung 9 tháng năm 2024 đạt nhiều kết quả quan trọng, cao hơn cùng kỳ trên hầu hết các lĩnh vực. Cụ thể:

Tăng trưởng kinh tế: Lũy kế 9 tháng đầu năm 2024, GDP ước tăng 6,82% so với cùng kỳ năm trước, tương đương với mức tăng bình quân của GDP 9 tháng giai đoạn 5 năm trước dịch Covid-19 (2015 - 2019); trong đó, riêng quý III/2024 tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 5,66% của quý I/2024 và 6,93% của quý II/2024. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,20%, đóng góp 5,37% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,19%, đóng góp 46,22%; khu vực dịch vụ tăng 6,95%, đóng góp 48,41%.


Kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm 2024 có nhiều điểm sáng tích cực bên cạnh những rủi ro và thách thức (Nguồn ảnh: Internet)

Năng lực của nền kinh tế được cải thiện tốt hơn. Việt Nam được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ghi nhận là một trong 8 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhiều nhất về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu - GII 2024, Việt Nam được xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng từ vị trí 59 năm 2016 và tăng 2 bậc so với năm 2023). Năm 2024, Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới là chỉ số về nhập khẩu công nghệ cao, xuất khẩu công nghệ cao và xuất khẩu hàng hóa sáng tạo; có 3 chỉ số thuộc nhóm 10 quốc gia dẫn đầu thế giới là: Tốc độ tăng năng suất lao động (xếp hạng 3); số lượng ứng dụng điện thoại thông minh được tạo ra (xếp hạng 7); phần chi nghiên cứu và phát triển do doanh nghiệp trang trải/tổng chi nghiên cứu và phát triển (xếp hạng 9).

Hình 1. Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ năm trước
các năm 2011 - 2024 (%)

Nguồn: Tổng cục Thống kê


- Tổng cung: Hoạt động sản xuất phục hồi tích cực ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Riêng ngành nông, lâm, thủy sản tăng trưởng thấp hơn do chịu ảnh hưởng bởi cơn bão số 3; hoạt động của doanh nghiệp còn khó khăn trong tháng 9 nhưng đã cải thiện hơn so với cùng kỳ.

Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản: Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2024 tăng 3,2%, chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2020 trong giai đoạn 2020 - 20241. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 2,92% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,25 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 4,96%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,73%, đóng góp 0,10 điểm phần trăm. Mặc dù vậy, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng đầu năm 2024 vẫn bảo đảm nhu cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu.

Sản xuất công nghiệp: Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2024 tăng 8,34% so với cùng kỳ năm trước (quý III/2024 ước đạt 9,59%), mức tăng khá tích cực trong giai đoạn 2011 - 20242, đóng góp 2,71 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,76%, đóng góp 2,44 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.

Khu vực dịch vụ: Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 9 tháng năm 2024 tăng 6,95% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, một số ngành có đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế như bán buôn và bán lẻ (đóng góp 0,78 điểm phần trăm), ngành vận tải, kho bãi (0,70 điểm phần trăm), hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (0,38 điểm phần trăm)...

Về tình hình doanh nghiệp: Trong tháng 9/2024, cả nước có 11,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 16,3% so với tháng 8/2024 và giảm 5,0% so với cùng kỳ năm trước; có gần 6,5 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 23,7% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng đầu năm 2024, cả nước có gần 121,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, hơn 61,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 25% so với cùng kỳ năm 2023), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong 9 tháng năm 2024 lên hơn 183,0 nghìn doanh nghiệp, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2023.

Mặc dù hoạt động sản xuất diễn ra khá tích cực trong các tháng đầu năm 2024, tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơn bão số 3, các lĩnh vực của ngành sản xuất đang đối mặt với khó khăn, rủi ro thu hẹp. Theo đó, Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam tháng 9/2024 giảm xuống dưới ngưỡng 50 điểm, trong khi các tháng trước đều trên ngưỡng điểm 50, báo hiệu các điều kiện kinh doanh suy giảm trở lại vào thời điểm cuối quý III/2024. Cụ thể: PMI ngành sản xuất Việt Nam đã giảm xuống từ 52,4 của tháng 8/2024 xuống 47,3 điểm trong tháng 9/2024, cho thấy sức khỏe ngành sản xuất đã yếu đi ở mức đáng kể nhất kể từ tháng 11 năm ngoái do đóng cửa hoạt động kinh doanh tạm thời, sự chậm trễ ở các dây chuyền sản xuất và chuỗi cung ứng; sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới giảm, khiến các doanh nghiệp lần đầu tiên trong 6 tháng qua thu hẹp hoạt động mua hàng; tồn kho hàng mua giảm mạnh, mức giảm này là mạnh thứ hai trong lịch sử chỉ số, chỉ kém mức của tháng 4/2020 là tháng chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.

- Tổng cầu: Nhìn chung, các thành tố của tổng cầu đã có sự cải thiện tốt hơn so với trước; trong đó, tăng trưởng mạnh mẽ của hoạt động thương mại và đầu tư ngoài nhà nước hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế từ phía cầu.

Cầu tiêu dùng: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9/2024 ước đạt 535,8 nghìn tỉ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 ước đạt 1.591,0 nghìn tỉ đồng, tăng 1,7% so với quý trước (quý II/2024 tăng 1,2%) và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 4.703,4 nghìn tỉ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 10,1%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,8% (cùng kỳ năm 2023 tăng 7,6%).

Đầu tư: Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành 9 tháng đầu năm 2024 ước đạt 2.417,2 nghìn tỉ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 6%), trong đó, vốn của khu vực ngoài nhà nước đạt 1.336,9 nghìn tỉ đồng, chiếm 55,3% và tăng 7,1% (cùng kỳ năm 2023 tăng 3,9%); khu vực có vốn FDI đạt 415,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 17,2% và tăng 10,7% (cùng kỳ năm 2023 tăng 2,1%); vốn của khu vực nhà nước đạt 664,7 nghìn tỉ đồng, chiếm 27,5% tổng vốn và tăng 4,1% (cùng kỳ năm 2023 tăng 15,9%)

Tình hình FDI tăng cả về vốn đăng ký và giải ngân. Tính đến ngày 30/9/2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 24,78 tỉ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước3. Vốn FDI thực hiện 9 tháng đầu năm 2024 ước đạt 17,34 tỉ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2023.

Thương mại phục hồi nhanh, lũy kế 9 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 578,47 tỉ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2023; trong đó, xuất khẩu tăng 15,4% (điện tử, máy tính và linh kiện tăng 27,4%, máy móc thiết bị tăng 22,1%); nhập khẩu tăng 17,3% (điện tử, máy tính và linh kiện tăng 25,8%, máy móc thiết bị tăng 16,6%). Cán cân thương mại hàng hóa thặng dư ở mức 20,79 tỉ USD, tương đương với 6,94% kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, thặng dư này chủ yếu được thúc đẩy bởi hoạt động sản xuất do khu vực FDI dẫn đầu (9 tháng đầu năm 2024 đóng góp khoảng 38,17 tỉ USD), trong khi khu vực trong nước thâm hụt thương mại (khoảng 17,38 tỉ USD).

Lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát

Trong tháng 9/2024, ảnh hưởng của cơn bão số 3 đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống nhân dân, một số thời điểm đã xuất hiện việc khan hiếm một số mặt hàng như rau, củ quả, thực phẩm và tăng giá cục bộ ở một số địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 92/CĐ-TTg về việc khắc phục hậu quả của bão số 3, đồng thời, Bộ Tài chính đã có Công điện số 03/CĐ-BTC ngày 13/9/2024 gửi các cơ quan, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị, tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính đề nghị đẩy mạnh, tăng cường các biện pháp quản lý, điều hành giá sau bão, nhờ đó, nguồn cung giá cả hàng hóa được đảm bảo, mặt bằng giá cả trong tầm kiểm soát.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2024 tăng 0,29% so với tháng trước, trong đó, nhóm hàng giáo dục có mức tăng cao nhất 2,09% (dịch vụ giáo dục tăng 2,33%, đóng góp khoảng 0,12 điểm phần trăm vào mức tăng CPI chung); nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,92% (đóng góp 0,31 điểm phần trăm); nhóm nhà ở - vật liệu xây dựng tăng 0,52% (đóng góp 0,1 điểm phần trăm). Riêng nhóm hàng giao thông giảm 2,77% góp phần giảm CPI chung 0,27 điểm phần trăm.

Bình quân 9 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,69%, mức thấp nhất trong vòng 8 tháng qua, cho thấy lạm phát tiền tệ đang được kiểm soát chặt chẽ. Bên cạnh đó, khoảng cách giữa lạm phát cơ bản và lạm phát bình quân đang được thu hẹp nhưng vẫn khá cao so với đầu năm, cho thấy sức ép lạm phát từ các yếu tố bên ngoài yếu tố tiền tệ mặc dù có giảm nhưng vẫn còn lớn.

Hình 2. Lạm phát cơ bản và lạm phát bình quân
(Lũy kế, so với cùng kỳ)

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Chính sách tài khóa chủ động, linh hoạt, hiệu quả, được triển khai theo hướng tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế. Dư địa tài khóa tích cực do thu ngân sách nhà nước (NSNN) và thu nội địa tăng khá.

- Về thu NSNN: Lũy kế 9 tháng đầu năm 2024, thu NSNN ước đạt 1.448,2 nghìn tỉ đồng, bằng 85,1% dự toán, trong đó: Thu nội địa ước đạt 1.203,1 nghìn tỉ đồng, bằng 83,3% dự toán, tăng 18,9% so cùng kỳ năm 2023; thu từ dầu thô ước đạt khoảng 44,4 nghìn tỉ đồng, bằng 96,6% dự toán, giảm 2,9% so cùng kỳ năm 2023; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 200,2 nghìn tỉ đồng, bằng 98,1% dự toán, tăng 17,6% so cùng kỳ năm 2023.

- Về chi NSNN: Lũy kế chi 9 tháng đầu năm 2024 đạt khoảng 1.256,3 nghìn tỉ đồng, bằng 59,3% dự toán, tăng 1,4% so cùng kỳ năm 2023, bao gồm: Chi đầu tư phát triển ước đạt khoảng 320,6 nghìn tỉ đồng, bằng 47,3% dự toán Quốc hội quyết định, chi trả nợ lãi ước đạt khoảng 77,3 nghìn tỉ đồng, bằng 69,2% dự toán; chi thường xuyên ước đạt 856,5 nghìn tỉ đồng, bằng 68% dự toán; chi dự trữ ước đạt 81,1% dự toán.

Tính đến ngày 30/9/2024, giải ngân vốn đầu tư nguồn NSNN ước thực hiện đạt 42,96% kế hoạch, tương đương 47,29% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2023 (tương ứng cùng kỳ đạt 47,75% và 51,38%). Trong đó, tỉ lệ giải ngân của các chương trình mục tiêu quốc gia đạt 55,31% so với kế hoạch, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đạt 80,16% kế hoạch, đều cao hơn mức thực hiện tính đến ngày 31/8/2024 (tương ứng đạt 43,99% và 76,17%)4.

Chính sách tiền tệ được điều hành phù hợp với tình hình thực tiễn; trong đó, tỉ giá, lãi suất được điều hành linh hoạt, kịp thời, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

- Tăng trưởng tín dụng có cải thiện: Tính đến ngày 27/9/2024, tổng phương tiện thanh toán tăng 5,10% so với cuối năm 2023 (cùng thời điểm năm trước tăng 5,40%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 4,79% (cùng thời điểm năm trước tăng 6,63%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 8,53% (cùng thời điểm năm trước tăng 6,24%).

Lãi suất cho vay giảm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn, mở rộng sản xuất, kinh doanh: Lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại trong nước đối với cả các khoản vay mới và các khoản vay cũ còn dư nợ ở mức 6,8 - 9,2%/năm, giảm 0,1% so với tháng 8/2024. Mức lãi suất này cũng đã giảm mạnh gần 1%/năm so với đầu năm 2024 (7,8 - 10,1%/năm). Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VND đối với lĩnh vực ưu tiên khoảng 3,7%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (4,0%/năm).

Tỉ giá USD/VND có xu hướng giảm: Đến ngày 30/9/2024, tỉ giá trung tâm trên thị trường ngoại hối chính thức ở mức 24.093 VND/USD, giảm 0,54% so với cuối tháng trước và tăng 0,95% so với cuối năm 2023. Với biên độ +/-5%, các ngân hàng thương mại được phép giao dịch trong khoảng 22.888 - 25.298 VND/USD. Tỉ giá trung bình tại các NHTM là 24.540 VND/USD, giảm 1,29% so với cuối tháng trước và tăng 1,15% so với cuối năm 2023. Trên thị trường tự do, tỉ giá USD/VND là 25.115 VND/USD, giảm 0,40% so với cuối tháng 8/2024 và tăng 1,51% so với cuối năm 2023.

Thị trường chứng khoán tích cực hơn, góp phần giảm áp lực cung ứng vốn từ khu vực ngân hàng

- Tính chung 9 tháng đầu năm 2024, VN-index tăng 13,98% so với cuối năm 2023, HNX-index tăng 2,82% và Upcom-index tăng 7,49%. Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 7.049 nghìn tỉ đồng, tăng 18,74%, chiếm 68,96% GDP của năm 2023. Về thanh khoản, giá trị giao dịch bình quân đạt 22.655 tỉ đồng/phiên, tăng 28,9% so với bình quân năm 2023.

Tính từ đầu năm đến ngày 20/9/2024, nhà đầu tư đã thực hiện bán ròng 65.342 tỉ đồng (tương đương 2,66 tỉ USD) trên thị trường cổ phiếu, chứng chỉ quỹ và mua ròng 1.507 tỉ đồng trái phiếu. Nguyên nhân bán ròng chủ yếu là do hoạt động tái cấu trúc dòng vốn trên toàn cầu; chênh lệch lãi suất giữa các thị trường phát triển với các thị trường cận biên, mới nổi ở mức cao và kéo dài nên dòng tiền chảy về các thị trường phát triển để hưởng mức sinh lời cao hơn…

Về cải thiện môi trường kinh doanh

Môi trường kinh doanh được cải thiện tốt hơn đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh 9 tháng đầu năm 2024, theo đó, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng đầu năm 2024 cho thấy, chỉ có khoảng 18 - 21% số doanh nghiệp khảo sát cho rằng lãi suất vay vốn cao, thiếu nguyên, nhiên vật liệu là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong khi có dưới 7% số doanh nghiệp khảo sát gặp vấn đề về chính sách pháp luật của Nhà nước hoặc khả năng tiếp cận vốn vay; yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh chủ yếu là nhu cầu thị trường trong nước thấp (53%) và tính cạnh tranh hàng trong nước cao (50,6%). Tuy vậy, các doanh nghiệp đều rất lạc quan về xu hướng kinh doanh trong thời gian tới, với hơn 80% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất, kinh doanh quý IV/2024 tốt hơn và giữ ổn định so với quý III/2024.

Ngày 18/9/2024, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 68/2024/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch chứng khoán; bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán; hoạt động của công ty chứng khoán và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, có hiệu lực thi hành từ ngày 02/11/2024. Thông tư số 68/2024/TT-BTC cho phép giao dịch mua cổ phiếu không yêu cầu có đủ tiền khi đặt lệnh của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư tổ chức nước ngoài mua chứng khoán ngay trong ngày (T+0) và thanh toán vào các ngày sau (T+1/T+2), điều này không chỉ giúp giảm chi phí tài chính và tăng tính linh hoạt cho nhà đầu tư mà còn tháo gỡ vướng mắc từ việc yêu cầu ký quỹ trước giao dịch, cũng như cải thiện quy trình mở mới tài khoản, là nhân tố hỗ trợ để nâng cấp thị trường Việt Nam lên trạng thái Thị trường mới nổi theo chuẩn FTSE Russell. Thời gian qua, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng liên tục với tổng giá trị từ đầu năm 2024 lên đến hơn 65.000 tỉ đồng (2,6 tỉ USD) chỉ tính riêng trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE), do đó, việc tháo gỡ nút thắt quan trọng trong quá trình nâng hạng cũng được kỳ vọng sẽ trở thành chất xúc tác để đảo chiều dòng vốn ngoại trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Ngoài ra, Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu đặt ra năm 2024 về xếp hạng Chính phủ điện tử. Theo Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử (EGDI) năm 2024 của Liên hợp quốc (UN), Việt Nam đã tăng 15 bậc về xếp hạng EGDI so với năm 2022, ở vị trí thứ 71 trong tổng số 193 quốc gia thành viên UN. Vị trí xếp hạng về các chỉ số chính trong EDGI của Việt Nam năm 2024 đều có sự tăng trưởng cả về giá trị và xếp hạng, đặc biệt là về xếp hạng HCI (Chỉ số nguồn nhân lực) và giá trị TII (Chỉ số hạ tầng viễn thông). Đồng thời, UN đánh giá cao Việt Nam về những nỗ lực trong việc cải tiến chất lượng dịch vụ công trực tuyến. So với 55 quốc gia trong nhóm có thu nhập trung bình thấp, Việt Nam là một trong 5 quốc gia có EGDI ở mức “Rất Cao” và là lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm EGDI ở mức “Rất Cao”. Với kết quả xếp hạng vượt bậc này, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu đặt ra năm 2024 về xếp hạng Chính phủ điện tử tăng ít nhất 5 bậc tại Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024.

2. Triển vọng, thách thức

Trong 9 tháng đầu năm 2024, kinh tế nước ta phục hồi tích cực, tăng trưởng kinh tế tiếp tục được củng cố vững chắc hơn với sự phục hồi tốt hơn ở hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế, đặc biệt là khu vực dịch vụ, thương mại và hiệu quả tích cực từ việc triển khai các chính sách hỗ trợ sản xuất, kinh doanh. Trong bối cảnh nền kinh tế còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức, tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian tới sẽ tiếp tục tích cực, bởi các yếu tố hỗ trợ như:

- Đối với trong nước:

(i) Ổn định vĩ mô được duy trì, lạm phát trong tầm kiểm soát, tỉ giá ổn định, cân đối tài khóa được củng cố, góp phần củng cố niềm tin tiêu dùng và đầu tư. Bên cạnh đó, Việt Nam có lợi thế của một nền kinh tế năng động, nhanh chóng thích nghi; việc chủ động và tích cực tham gia các hiệp định thương mại, mở rộng, tìm kiếm và khai thác các thị trường tiềm năng đã giúp Việt Nam thành công trong việc kết nối với các đối tác thương mại lớn trên thế giới, nhất là thị trường Mỹ. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế được cải thiện liên tục, quý sau tăng cao hơn quý trước đã cho thấy khả năng chống chịu khá tốt của Việt Nam trước các cú sốc bên ngoài và hiệu quả thực thi các chính sách điều hành vĩ mô.

(ii) Nhờ cải cách thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh, hoạt động giải ngân vốn đầu tư công và đầu tư sẽ tiếp tục được thúc đẩy, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng phía cầu. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2024 sẽ tác động tích cực lên triển vọng ngành bất động sản, thúc đẩy thị trường bất động sản Việt Nam phát triển lành mạnh, minh bạch và bền vững hơn, đồng thời góp phần khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai để phát triển kinh tế - xã hội đất nước; thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư lớn cho tăng trưởng của nền kinh tế.

(iii) Nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò là ngành “bệ đỡ” cho tăng trưởng kinh tế và vai trò này được thể hiện rõ ràng hơn trong bối cảnh dịch Covid-19. Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2023 ở mức 3,88% - cao nhất so với 4 năm trước đó; năm 2020 - 2021, tốc độ tăng của nhóm ngành này lần lượt là 3% và 3,7%, cao hơn tốc độ tăng chung của toàn nền kinh tế (2,9%, 2,6%) và tốc độ tăng của nhóm ngành dịch vụ (2% và 1,7%), khi đại dịch Covid-19 xuất hiện và bùng phát. Thời gian qua, nông nghiệp cũng là ngành giúp nước ta “cách ly” khỏi sự gia tăng giá lương thực - thực phẩm toàn cầu do có khả năng tự chủ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Lợi thế này giúp Việt Nam giảm thiểu được tác động của lạm phát lên giá hàng hóa nông nghiệp, đảm bảo nhu cầu trong nước và xuất khẩu, góp phần duy trì mức lạm phát trong tầm kiểm soát và lạm phát cơ bản ở mức thấp.

(iv) Công tác chỉ đạo, điều hành chủ động, bám sát. Chính phủ đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính, tiền tệ, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn, thông qua chính sách tiền tệ linh hoạt, bảo đảm cân đối hài hòa giữa điều hành tỉ giá và lãi suất, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng; bình ổn thị trường vàng; thúc đẩy giải ngân gói tín dụng nhà ở xã hội; đẩy mạnh xử lý nợ xấu, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng; triển khai hiệu quả chính sách hỗ trợ giảm 2% thuế giá trị gia tăng, gia hạn miễn, giảm thuế, phí, lệ phí; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công…

- Đối với kinh tế bên ngoài:

(i) Kinh tế toàn cầu tăng trưởng cao hơn dự kiến đã thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư. Theo đó, hầu hết các tổ chức đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với dự báo trước: Tháng 9/2024, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu và nhóm các nước G20 năm 2024 ở mức 3,2% - cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo của tháng 5/2024; UN dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt 2,7% trong năm 2024, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024 nhờ hoạt động kinh tế tốt hơn dự kiến ở Hoa Kỳ và triển vọng tăng trưởng ngắn hạn được cải thiện ở các nền kinh tế lớn khác…

(ii) Lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm và ở mức thấp hơn so với đầu năm 2024. Ở nhiều nước phát triển, lạm phát đang dần tiến gần đến mức mục tiêu của ngân hàng trung ương như lạm phát của Mỹ trong tháng 8/2024 ở mức 2,5%, gần mức lạm phát mục tiêu và là mức thấp nhất kể từ tháng 01/2021; khu vực đồng Euro: Lạm phát giảm từ 2,8% trong tháng 01/2024 xuống mức 1,8% trong tháng 9/2024; Hàn Quốc ở mức 1,6% trong tháng 9/2024, thấp hơn mức 2% của tháng 8/2024… Trong đó, giá dầu giảm mạnh là yếu tố góp phần làm giảm lạm phát. Theo Báo cáo thị trường hàng hóa xuất bản tháng 9/2024 của Ngân hàng thế giới (WB), chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu tháng 9 đã giảm 3,84% so với tháng trước và giảm 12,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giá năng lượng giảm tương ứng là 7,1% và 18,97% (giá bình quân 3 loại dầu giảm tương ứng 7,3% và 21,5%). Tháng 7/2024, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo lạm phát toàn cầu sẽ giảm dần từ mức 6,7% năm 2023 xuống còn 5,9% trong năm 2024 và 4,4% trong năm 2025; khu vực đồng Euro giảm từ 2,8% trong tháng 01/2024 xuống mức 2,6% trong tháng 7/2024.

(iii) Chính sách tiền tệ nới lỏng hơn tại các nền kinh tế lớn thông qua hạ lãi suất góp phần làm giảm chi phí huy động tài chính trên toàn cầu và thu hẹp chênh lệch lãi suất giữa VND/USD, từ đó đem lại tác động tích cực lan tỏa cho ngành Ngân hàng và khu vực tài chính.

(iv) Tăng trưởng thương mại toàn cầu phục hồi tích cực. UN và OECD (2024) nhận định thương mại toàn cầu tiếp tục phục hồi từ nửa đầu năm 2024, thể hiện qua khối lượng thương mại hàng hóa và dịch vụ tăng, đặc biệt trong quý II/2024, do gia tăng xuất khẩu của khu vực châu Á và Bắc Mỹ. Tháng 7/2024, IMF dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu tăng từ mức 0,8% trong năm 2023 lên 3,1% trong năm 2024 và 3,4% trong năm 2025; tháng 4/2024, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu ở mức 2,6% trong năm 2024 và 3,3% trong năm 2025. Tuy vậy, vẫn có những rủi ro làm suy giảm tăng trưởng thương mại toàn cầu, chẳng hạn: Căng thẳng địa chính trị dai dẳng, chi phí vận chuyển tăng, các chính sách công nghiệp và thương mại hướng nội có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng thương mại toàn cầu (UNCTAD, 7/2024).
Với những điểm sáng nổi bật của nền kinh tế 9 tháng đầu năm 2024 và các yếu tố hỗ trợ tích cực cho kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, nhiều tổ chức quốc tế đã đánh giá cao kết quả và triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam năm 2024 - 2025, trong đó, WB (9/2024) nâng dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 lên mức 6,5%, cao hơn mức 5,5% của dự báo tháng 4/2024; năm 2025 là 6,5%, vượt qua dự báo ban đầu là 6,0%. IMF (9/2024) cũng dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 ở mức 6,1%, cao hơn mức 5,8% của dự báo tháng 7/2024…

Bảng 1. Dự báo tăng trưởng và lạm phát Việt Nam năm 2024 - 2025

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam còn nhiều rủi ro, thách thức: Trong đó, xu hướng tăng trưởng tích cực của kinh tế toàn cầu còn chứa đựng nhiều yếu tố khó lường, nhất là tăng trưởng của những đối tác thương mại lớn của Việt Nam như Mỹ, Liên minh châu Âu, Trung Quốc. Bên cạnh đó, căng thẳng địa chính trị kéo dài và chính sách thương mại hướng nội gia tăng sẽ gây ảnh hưởng đến tăng trưởng thương mại toàn cầu và chuỗi cung ứng; rủi ro an ninh năng lượng, lương thực và ảnh hưởng tiêu cực từ biến đổi khí hậu… đều có thể là nhân tố khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp hơn dự báo... Ở trong nước, tăng trưởng kinh tế có thể gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bảo đảm đạt mục tiêu cả năm 2024 ở mức cận trên từ 6,5 - 7% như Chính phủ đề ra tại Nghị quyết số 108/NQ-CP ngày 10/7/2024 phiên họp Chính phủ thường kỳ 6 tháng năm 2024 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương do ảnh hưởng của cơn bão số 3 cùng với hoàn lưu sau bão đã gây nhiều thiệt hại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơ sở hạ tầng, sản xuất và cuộc sống của người dân. Ngoài ra, một số động lực tăng trưởng truyền thống phục hồi nhưng còn ở mức thấp so với trước dịch Covid-19 và chưa bền vững; tăng trưởng xuất khẩu phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng do sự chuyển hướng thương mại từ việc tái cấu trúc chuỗi giá trị toàn cầu đối với các sản phẩm như hàng may mặc, hàng dệt may và đồ điện tử, cũng như rủi ro từ căng thẳng địa chính trị và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng và còn phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI…

3. Một số đề xuất, khuyến nghị

Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay được đánh giá tích cực, các nền tảng cho tăng trưởng kinh tế vẫn được duy trì. Để bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra cho năm 2024 đạt kết quả cao nhất, cũng như tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế những năm tiếp theo, trong thời gian tới cần lưu ý triển khai một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2024; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024; Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 18/6/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp trong tâm để thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 3 (Yagi), nhanh chóng ổn định tình hình nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất, kinh doanh, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát; các Nghị quyết Phiên họp thường kỳ của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ - Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá tại các cuộc họp Ban Chỉ đạo điều hành giá. Tiếp tục bám sát, chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế, diễn biến giá dầu thế giới để có kịch bản ứng phó phù hợp.

Hai là, tiếp tục giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thông qua chủ động phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và quản lý giá; nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách (đặc biệt là giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác); khai thác tốt dư địa của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng, ổn định vĩ mô, bình ổn tỉ giá, thị trường tài chính - tiền tệ, bảo đảm an sinh xã hội. Cân nhắc dư địa nợ công, bội chi NSNN còn thấp so với giới hạn cho phép để huy động thêm nguồn lực cho phát triển, nhất là đầu tư cho các công trình hạ tầng chiến lược quốc gia.

Ba là, tiếp tục có chính sách hỗ trợ sản xuất, kinh doanh; khẩn trương triển khai các giải pháp khắc phục hậu quả, khôi phục sản xuất và đời sống nhân dân sau bão; đồng thời, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tập trung vào phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống (xuất khẩu, đầu tư - nhất là đầu tư tư nhân, tiêu dùng); khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…

Bốn là, đẩy mạnh triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, nhất là các dự án, các tổ chức tín dụng yếu kém nhằm giảm rủi ro, chi phí, tăng tính lành mạnh và hiệu quả của thị trường. WB (8/2024) ước tính, Việt Nam chỉ cần tăng đầu tư công thêm một điểm phần trăm so GDP có thể khiến cho GDP tăng thêm 0,1 phần trăm.

Năm là, đẩy nhanh tiến độ tháo gỡ khó khăn, phát triển bền vững các thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản theo hướng: (i) Thực hiện hiệu quả Quyết định số 1726/QĐ-TTg ngày 29/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030 và Công điện số 1360/CĐ-TTg ngày 13/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững, trong đó quyết tâm nâng hạng thị trường chứng khoán trong năm 2025, tăng cường kiểm soát rủi ro an ninh mạng, an toàn thông tin - dữ liệu; (ii) Triển khai có hiệu quả các luật mới ban hành liên quan đến thị trường bất động sản (Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh Bất động sản), cần đẩy nhanh việc hoàn thành các nghị định hướng dẫn thi hành trên cơ sở đảm bảo nội dung chất lượng, bám sát thị trường.

1 Tốc độ tăng giá trị tăng thêm 9 tháng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản so với cùng kỳ năm trước các năm 2020 - 2024 lần lượt là: 1,90%; 3,84%; 3,66%; 3,71% và 3,2%. Trong 9 tháng năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, xâm nhập mặn và dịch tả lợn châu Phi nên tăng thấp.
2 Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 9 tháng các năm 2011 - 2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 8,79%; 7,92%; 4,62%; 5,51%; 8,93%; 7,07%; 6,92%; 8,9%; 8,64%; 2,3%; 3,06%; 9,12%; 1,59% và 8,34%. Quý III các năm 2012 - 2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 8,17%; 4,85%; 6,59%; 9,29%; 7,9%; 9,93%; 9,45%; 9,38%; 2,38%; -4,6%; 10,69%; 4,51%; 9,59%.
3 Bao gồm: Tổng vốn đăng ký cấp mới đạt 13,55 tỉ USD, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký điều chỉnh tăng thêm 7,64 tỉ USD, tăng 48,1% so với cùng kỳ năm trước, tổng giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 3,59 tỉ USD, giảm 26,2% so với cùng kỳ năm trước.
4 https://dangcongsan.vn/kinh-te/giai-ngan-chuong-trinh-phuc-hoi-kinh-te-xa-hoi-nhieu-thach-thuc-de-hoan-thanh-ke-hoach-nam-679940.html


Tài liệu tham khảo:

1. ADB (9/2024), Asean Development Outlook.
2. IMF (9/2024), VietNam staff report for the 2024 article IV consultation.
3. OECD (9/2024), OECD Economic Outlook.
4. Tổng cục Thống kê (10/2024), Báo cáo số 279/BC-TCTK ngày 06/10/2024 về Tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2024.
5. UN (5/2024), World Economic Situation and Prospects as of mid-2024.
6. UN (9/2024), World Economic Situation and Prospects September 2024 update.
7. WB (8/2024), Báo cáo điểm lại tháng 8/2024: Vươn tới tầm cao mới trên thị trường vốn.
8. WB (9/2024), East Asia and the Pacific economic update October 2024.

ThS. Vũ Thị Huyền Trang
Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng