Kinh nghiệm về công nghệ tài chính thông qua ngân hàng mở trên thế giới và giải pháp cho Việt Nam

Bài viết khoa học chuyên sâu
Ngân hàng mở (Open banking) gần đây đã nổi lên như một xu hướng toàn cầu, được thúc đẩy bởi sự đổi mới, các quy định pháp lý và tốc độ phát triển của công nghệ tài chính (Fintech). Đồng thời, ngân hàng mở phát triển cũng vì lý do người tiêu dùng có nhu cầu được kiểm soát nhiều hơn cách thức sử dụng dữ liệu của họ. Ngân hàng mở cho phép truyền tải một cách an toàn, bảo mật những dữ liệu tài khoản đã được khách hàng ủy quyền cho ngân hàng cung cấp cho bên đối tác thứ ba (third-party service provider - TPP) (Brodsky & Oakes, 2017)...
aa

1. Giới thiệu về ngân hàng mở

Ngân hàng mở (Open banking) gần đây đã nổi lên như một xu hướng toàn cầu, được thúc đẩy bởi sự đổi mới, các quy định pháp lý và tốc độ phát triển của công nghệ tài chính (Fintech). Đồng thời, ngân hàng mở phát triển cũng vì lý do người tiêu dùng có nhu cầu được kiểm soát nhiều hơn cách thức sử dụng dữ liệu của họ. Ngân hàng mở cho phép truyền tải một cách an toàn, bảo mật những dữ liệu tài khoản đã được khách hàng ủy quyền cho ngân hàng cung cấp cho bên đối tác thứ ba (third-party service provider - TPP) (Brodsky & Oakes, 2017). Đồng thời, ngân hàng cũng cho phép bên thứ ba truy cập vào dữ liệu mở hay truy cập bảo mật đến các dữ liệu đóng để viết ứng dụng và cung cấp dịch vụ từ chính dữ liệu đó, trên cơ sở tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan.

Trong khi một số quốc gia đưa ra những quy định pháp lý nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng mở, thì động lực chính để ngân hàng mở phát triển ở nhiều quốc gia là sự xuất hiện của Fintech và các sáng kiến ​​đổi mới về công nghệ tài chính (ví dụ: công ty Fintech cung cấp các công cụ quản lý tài chính để người tiêu dùng có thể theo dõi chi tiêu và vay nợ một cách hợp lý). Các tổ chức tài chính, ngân hàng sử dụng “Ứng dụng giao diện lập trình” (Application programming interfaces - API) để kết nối với các bên đối tác thứ ba như nhà cung cấp, các doanh nghiệp, các công ty Fintech để tạo thêm nhiều ứng dụng mới, cung cấp thêm tiện ích cho khách hàng. API là giao diện kết nối giữa phần mềm với phần mềm. Thực chất, AIP là một tập hợp các tính năng và quy trình cho phép tạo các ứng dụng truy cập vào dữ liệu của hệ điều hành hoặc ứng dụng khác. (Hình 1)

Hình 1: Mô hình ngân hàng mở


Nguồn: IPSI 2020


Lợi ích của ngân hàng mở so với hệ thống ngân hàng truyền thống là khả năng các tổ chức tài chính, ngân hàng cung cấp cho khách hàng dịch vụ tài chính nâng cao, chia sẻ dữ liệu và cung cấp cho người tiêu dùng quyền kiểm soát tốt hơn về dữ liệu tài chính của họ. Khách hàng cũng giảm được chi phí giao dịch tài chính khi tiếp cận được nhiều nguồn thông tin, gia tăng sự lựa chọn sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tối đa nhu cầu giao dịch tài chính, nâng cao trải nghiệm khách hàng (Pandy, 2020). Về phía ngân hàng, lợi ích của ngân hàng mở là giúp hệ thống ngân hàng thích ứng với mô hình kinh doanh mới bên cạnh mô hình kinh doanh truyền thống. Ngân hàng sẽ tận dụng được nguồn lực bên ngoài để nâng cao năng lực gia tăng sản phẩm dịch vụ mới, ứng dụng công nghệ hiện đại, cũng như cơ hội tiếp cận những khách hàng mới và bán chéo sản phẩm dịch vụ (Phạm Loan, 2020).

2. Hệ thống pháp lý về quản lý ngân hàng mở

Nhiều nước trên thế giới đã xây dựng hoặc đang trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho ngân hàng mở với nhiều cách tiếp nhận khác nhau như yêu cầu, thúc đẩy hoặc cho phép thực hiện. Nhìn chung, khung pháp lý của các nước đều hướng đến cơ chế hỗ trợ các ngân hàng chia sẻ dữ liệu khách hàng được phép cho các bên đối tác thứ ba.

Liên minh châu Âu (EU) đang dẫn đầu về các sáng kiến ngân hàng mở sau khi ra mắt khuôn khổ quy định vào tháng 01/2018 về “Chỉ thị dịch vụ thanh toán sửa đổi” (PSD2) và Quy định chung về bảo vệ dữ liệu (GDPR) điều chỉnh việc bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư cho tất cả các cư dân EU. PSD2 yêu cầu rằng: (i) Các tổ chức tài chính, ngân hàng (Financial Institution-FIs) cung cấp cho bên đối tác thứ ba quyền truy cập vào dữ liệu khách hàng thông qua mở các API; và (ii) Các tổ chức tài chính, ngân hàng và các bên thứ ba thực hiện các biện pháp kiểm soát bảo mật dữ liệu liên quan (EU-Led, 2018). PSD2 đã đưa ra một khuôn khổ pháp lý về cách thức chia sẻ dữ liệu của các tổ chức dịch vụ tài chính như thế nào, cũng như quy định về việc các bên thứ ba nên bảo vệ dữ liệu người tiêu dùng và sử dụng như thế nào những dữ liệu mà họ thu thập được.

Tại châu Á, Cơ quan Quản lý tiền tệ Singapore (MAS) đi đầu trong phong trào ngân hàng mở với bộ khung tiêu chuẩn về hoạt động ngân hàng mở ban hành năm 2016, thông qua việc đóng góp ý kiến của các ngân hàng và tổ chức tài chính trong nước (ndgit, 2019). Ngân hàng Trung ương Hồng Kông (HKMA) cũng đã ban hành khung pháp lý về API mở (Open API) vào tháng 01/2018, nhằm xác định các tiêu chuẩn kỹ thuật tiền đề, hướng tới các quy định pháp lý về ngân hàng mở trong thời gian tới. Tại Nhật Bản, Luật Ngân hàng sửa đổi yêu cầu các ngân hàng phải phát triển API để các doanh nghiệp bên ngoài có thể tích hợp sử dụng được. Chính phủ Úc hiện đang thúc đẩy một cơ chế ngân hàng mở, ban hành “Quyền truy cập dữ liệu” (CDR) vào tháng 8/2019 cho phép khách hàng kiểm soát dữ liệu của họ và chia sẻ dữ liệu với các bên thứ ba (tương tự như GDPR). Chính phủ Úc cũng yêu cầu bốn ngân hàng lớn nhất của Úc (Commonwealth Bank, Westpac, ANZ và NAB) chính thức cung cấp dữ liệu tài chính cho người tiêu dùng vào tháng 7/2020; đồng thời, thiết lập Cơ quan Tiêu chuẩn dữ liệu, nhằm đặt nền móng cho việc chia sẻ dữ liệu xuyên ngành. Tại New Zealand, Chính phủ đã đưa ra chương trình thử nghiệm API năm 2018. Chương trình thử nghiệm tại New Zealand mang tên “Payments NZ” do nhà nước quản lý với sự tham gia của 6 thành viên bao gồm các ngân hàng và bên đối tác thứ ba: ASB, BNZ, Datacom, Paymark, Trade Me và Westpac (Price Waterhouse Coopers, 2018).

Tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020. Tiếp đến là Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chỉ thị yêu cầu các bộ, ban, ngành, địa phương xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ số để đảm bảo an toàn, an ninh, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã bước đầu xây dựng, thử nghiệm và dần hoàn thiện các khung pháp lý để quản lý hoạt động ngân hàng mở. Cụ thể, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 328/QĐ-NHNN ngày 16/3/2017 về việc thành lập Ban Chỉ đạo và Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo về lĩnh vực công nghệ tài chính của NHNN. Tháng 6/2018, Cục Công nghệ thông tin (CNTT) thuộc NHNN đã tiến hành khảo sát Open API trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Tháng 10/2018, Cục CNTT ký biên bản hợp tác chung với Cơ quan Xúc tiến CNTT Hàn Quốc và Viện Tài chính viễn thông - Thanh toán bù trừ Hàn Quốc (KFTC) về giao diện Open API trong lĩnh vực ngân hàng (Nguyễn Nhâm, 2020). Kết quả khảo sát là cơ sở để NHNN ban hành chuẩn dữ liệu về ngân hàng mở, tạo điều kiện cho các ngân hàng và các công ty Fintech phát triển hoạt động ngân hàng mở theo đúng định hướng, nhằm nắm bắt các xu thế phát triển khoa học và công nghệ trên thế giới và vẫn đảm bảo được mục tiêu ổn định tài chính quốc gia.

3. Phát triển ngân hàng mở trên thế giới

Sự thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng đang thúc đẩy các ngân hàng ngoài việc cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ trực tuyến và di động truyền thống, cần phải chuyển sang các lựa chọn thay thế có thể tăng mức độ tương tác của khách hàng với dữ liệu của ngân hàng. Theo một cuộc khảo sát ngân hàng bán lẻ toàn cầu năm 2018 của Tổ chức tài chính Oracle, khách hàng đang đòi hỏi trải nghiệm ngân hàng kỹ thuật số thông minh hơn và phù hợp hơn. Khoảng 69% khách hàng muốn toàn bộ lịch sử tài chính của họ trên các kênh kỹ thuật số và 30% muốn thử nghiệm dịch vụ tài chính của các công ty Fintech hoặc đối thủ cạnh tranh của ngân hàng (Oracle Financial Services, 2018). Vì vậy, nhiều ngân hàng đang xem xét việc phát triển ngân hàng mở theo hướng cộng tác với các công ty Fintech thông qua API, nhằm tận dụng thế mạnh của cả hai bên và cải thiện trải nghiệm khách hàng được tốt hơn theo cách của từng bên tham gia.

Tại Anh: Năm 2019, Cơ quan Quản lý cạnh tranh và điều hành thị trường Anh (CMA) đã yêu cầu 9 ngân hàng lớn (HSBC, Barclays, RBS, Santander, Bank of Ireland, Allied Irish Bank, Danske, Lloyds và Nationwide) phải công bố chuẩn dữ liệu và cấp quyền truy cập dữ liệu bảo mật cho các bên thứ ba được ủy quyền (Nguyễn Nhâm, 2020).

Tại Mỹ: Các tổ chức tài chính và ngân hàng coi ngân hàng mở là chất xúc tác cho chuyển đổi kỹ thuật số. Tuy nhiên, họ phải đối mặt với những thách thức bắt nguồn từ việc các ngân hàng có hệ thống máy tính lớn, cũ và phức tạp nên khó tích hợp với các công ty Fintech khi tiến hành tự động hóa, số hóa và mở rộng quy mô. Trong khi nhiều ngân hàng lớn đang chuyển sang hạ tầng dữ liệu đám mây (cloud-based infrastructure), chi phí cho việc mở rộng và mức độ co giãn phạm vi tiếp cận ngân hàng kỹ thuật số đang là một trở ngại cho việc thực hiện tích hợp. Hiện tại, con đường phát triển của ngân hàng mở ở Hoa Kỳ vẫn chưa chắc chắn, bao gồm cả nghi ngờ về một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng và công ty Fintech, cũng như tiêu chuẩn hóa các công nghệ chia sẻ dữ liệu cho phép các ngân hàng chia sẻ dữ liệu với đối tác chiến lược và tăng tốc đổi mới (Pandy, 2020). Hơn nữa, sở thích và mức độ hiểu biết của người tiêu dùng vẫn chưa rõ ràng về ngân hàng mở. Đến nay, Mỹ cũng là quốc gia mà Chính phủ ban hành ít quy định nhất về ngân hàng mở (Capgemini Research Institute, 2019).

Tại Singapore: Năm 2017, Ngân hàng DSB đã ra mắt cổng phát triển API lớn nhất với hơn 155 API có sẵn, mở đầu cho hệ sinh thái ngân hàng mở tại nước này. MAS hoan nghênh và tạo điều kiện cho các ngân hàng thực hiện ngân hàng mở trên tinh thần tự nguyện (ndgit, 2019).

Tại Úc: Tiến trình thực hiện ngân hàng mở là bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Trung ương, với bốn ngân hàng hàng đầu phải tuân theo tiến trình này vào tháng 2/2020, các ngân hàng và công ty tài chính nhỏ hơn phải tuân thủ vào tháng 2/2021 (Pandy, 2020)

Tại Nhật Bản: Tương tự như Úc, Ngân hàng Trung ương ban hành chỉ thị yêu cầu 80% các ngân hàng và công ty tài chính phải có API vào năm 2020. Đi đầu là Tập đoàn tài chính Mitsubishi UFJ cung cấp cho các bên đối tác thứ ba quyền truy cập bảo mật vào cơ sở dữ liệu của ngân hàng trong một phần tiến trình dự án ngân hàng mở của họ (Pandy, 2020).

Tại New Zealand: Chưa có luật cụ thể cho ngân hàng mở và thị trường đang phát triển và thử nghiệm thông số kỹ thuật API mới trong một quá trình gồm năm giai đoạn. Trong đó, ứng dụng “Jude” cho phép người dùng liên kết tất cả các tài khoản ngân hàng của họ trên một nền tảng công nghệ và quản lý tài khoản thông qua một cổng kỹ thuật số duy nhất (Wells & Anderson, 2018).

Tại Hồng Kông: HKMA đã đưa ra Open API trên trang thông tin điện tử chính thức của mình vào tháng 7/2018. Trong đó, có khoảng 130 bộ thông tin bao trùm dữ liệu tài chính - ngân hàng và thông tin khác đã được cung cấp cho tiến trình API mở theo các giai đoạn, bao gồm số liệu thống kê về tỉ giá, lãi suất của đô la Hồng Kông, thông tin ngân hàng và thị trường tài chính, các quỹ đầu tư... Các bên liên quan và người tiêu dùng có thể sử dụng nguồn thông tin trên để nghiên cứu hoặc để phát triển các ứng dụng mới (Pandy, 2020).

Tại Trung Quốc: Ngân hàng mở được đi đầu bởi các công ty công nghệ lớn như Tencent và Ant Financial. Cụ thể là, khi người tiêu dùng hay doanh nghiệp nhỏ đăng ký một khoản vay trên Ant Financial’s Mybank, API sẽ tự động cung cấp thông tin cho vay của một hoặc nhiều ngân hàng để người tiêu dùng dễ dàng so sánh, lựa chọn (Pandy, 2020).

4. Phát triển ngân hàng mở tại Việt Nam

Nhận thức tầm quan trọng và xu thế tất yếu của việc sử dụng API mở trong việc phát triển mô hình kinh doanh mới, các ngân hàng thương mại tại Việt Nam cũng đang nghiên cứu, triển khai từng bước ứng dụng Open API với các đối tác/nhà cung cấp dịch vụ. Đại dịch Covid-19 đã và đang gây ảnh hưởng đến thị trường cung cấp dịch vụ tài chính Việt Nam. Tại Diễn đàn dịch vụ tài chính và Hội thảo Future Banking diễn ra ngày 28/5/2020, với chủ đề “Phát triển các dịch vụ bảo hiểm; kinh doanh chứng khoán trên nền tảng số và hiện thực hóa mô hình ngân hàng mở - giải pháp giúp các tổ chức tài chính vượt qua khó khăn do dịch Covid-19” tại Việt Nam do Tập đoàn Dữ liệu Quốc tế Việt Nam và Hiệp hội Kinh doanh Chứng khoán Việt Nam đồng tổ chức, các chuyên gia nhận định: Ngoài các giải pháp hỗ trợ của Chính phủ, các tổ chức tài chính cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động cung ứng dịch vụ của mình để thoát khỏi suy thoái. Trong đó, việc ứng dụng API được cho là xu thế phù hợp và được nhiều ngân hàng triển khai thực hiện.

Đi đầu là Vietcombank đã hợp tác triển khai với các công ty Fintech ở đa dạng các lĩnh vực thông qua chia sẻ API mở bao gồm: triển khai y tế thông minh với gần 80 đơn vị, trong đó phát hành thẻ Vietcombank tích hợp với thẻ khám chữa bệnh, cung cấp dịch vụ thanh toán viện phí trên thiết bị di động thông minh; hợp tác với 232 đơn vị trường học, trường đại học cung ứng dịch vụ thanh toán học phí đa dạng như Internet banking, Mobile banking, Autodebit, Quầy giao dịch, E-commerce; hợp tác với 5 tổng công ty điện lực và hơn 30 công ty nước trên toàn quốc để được ủy quyền trích nợ tự động tiền điện, nước theo yêu cầu của khách hàng. Ngoài ra, Vietcombank còn triển khai giao thông thông minh tích hợp với hệ thống soát vé trong giao thông công cộng; thu thuế, phí, lệ phí tự động; kết nối với các nhà cung cấp dịch vụ để tối ưu hóa nhu cầu mua sắm, giải trí của khách hàng.

Với yêu cầu của khách hàng ngày càng cao và công nghệ ngày càng phát triển như hiện nay, một số ngân hàng như VietinBank, BIDV, Techcombank cũng hướng đến việc phát triển ngân hàng mở qua mở rộng kết nối với các đối tác, công ty Fintech và các doanh nghiệp ở ngành nghề khác nhau. Qua đó, ngân hàng sẽ cung cấp API dịch vụ tài chính, ngân hàng lồng ghép vào dịch vụ của các đối tác trên thị trường, từ đó tạo hệ sinh thái phục vụ tốt nhất cho khách hàng.

Ngoài ra, việc chia sẻ dữ liệu ngân hàng với người tiêu dùng nói chung để đạt đến mức độ tích hợp lịch sử giao dịch tài chính trên một giao diện vẫn đang là lĩnh vực được nghiên cứu để triển khai. Thực hiện được điều này sẽ giúp khách hàng quản lý tài chính tốt hơn cũng như truy cập thông tin của các nhà cung cấp trên cùng một giao diện để dễ dàng so sánh, lựa chọn.

5. Một số thách thức và giải pháp phát triển ngân hàng mở tại Việt Nam

Tình hình thực tế phát triển ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay cho thấy, về cơ bản, việc xây dựng API mở vẫn đang thực hiện một cách riêng lẻ (point-to-point) và chưa được chuẩn hóa, phần lớn do ngân hàng và đối tác tự xây dựng dựa trên nhu cầu của nhau. Đồng thời, chi phí xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin trong dịch vụ tài chính khá lớn. Hiện nay, các công nghệ tài chính chỉ xử lý các ứng dụng chung, để áp dụng trong các trường hợp liên kết cụ thể sẽ đòi hỏi cấu hình mạnh hơn nhiều. Điều này có thể là một thách thức đối với các ngân hàng vừa và nhỏ. Mặt khác, vấn đề bảo mật thông tin khách hàng của ngân hàng cũng là một thách thức khi phải chia sẻ với bên thứ ba, trong khi đảm bảo an toàn thông tin tài chính của khách hàng vẫn là tiêu chí hàng đầu của các ngân hàng từ trước đến nay.

Vì vậy, một số giải pháp phát triển ngân hàng mở tại Việt Nam được đề xuất:

Đối với Chính phủ và cơ quan quản lý Nhà nước: Chính phủ cần sớm hoàn thiện khung pháp lý về ngân hàng mở như các nước trên thế giới và trong khu vực. Cụ thể, Chính phủ cần ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về chuẩn trao đổi thông tin, các hàm API bắt buộc, các chuẩn mã hóa dữ liệu, hay tiêu chuẩn thiết kế các API. Bên cạnh đó, Chính phủ nên xem xét thành lập một trung tâm trung gian làm nhiệm vụ thẩm định, chứng nhận, cấp phép và kiểm tra các bên thứ ba được phép sử dụng Open API của ngân hàng.

Đối với các ngân hàng thương mại và công ty tài chính: Nên có định hướng và lộ trình để mở rộng triển khai ngân hàng mở, đồng thời đảm bảo an toàn, tối ưu hóa về chi phí. Cụ thể: Từng bước chuẩn hóa API; xây dựng mô hình chuẩn để kết nối thông tin giữa ngân hàng và công ty Fintech; xây dựng bộ quy định tiêu chuẩn Fintech; đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng thông tin, xây dựng và triển khai các hệ thống đảm bảo an ninh CNTT, nghiên cứu và xây dựng, áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin.

Đối với các bên đối tác thứ ba: Các bên đối tác thứ ba thường có quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với ngân hàng, tiếp cận công nghệ tiên tiến dễ dàng và linh hoạt nhưng cần có chiến lược đầu tư lâu dài trong việc hợp tác với ngân hàng, trên cơ sở phát huy lợi thế của ngân hàng mở và phải đảm bảo sử dụng đúng quyền truy cập thông tin của ngân hàng, bảo mật thông tin cho khách hàng.

Đối với người tiêu dùng: Trước khi triển khai chính thức ngân hàng mở, cần đạt được sự tin tưởng của người tiêu dùng bằng cách cung cấp các dịch vụ an toàn, giáo dục đầy đủ về ngân hàng mở và các dịch vụ mới.

Tóm lại, việc áp dụng API mở vào trong ngân hàng sẽ giúp hiện đại hóa và đa dạng hóa các dịch vụ tài chính, giúp các bên thứ ba phát huy khả năng sáng tạo, viết ứng dụng và cung cấp dịch vụ mới, khách hàng kiểm soát thông tin tài chính và trải nghiệm dịch vụ tốt hơn. Tuy nhiên, thách thức của việc triển khai ngân hàng mở là đảm bảo cân bằng giữa an toàn và phát triển, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo vệ dữ liệu khách hàng. Để triển khai ngân hàng mở hiệu quả, cần có hành lang pháp lý để giúp cho các ngân hàng, tổ chức tài chính có định hướng đầu tư công nghệ và hợp tác với nhau trong tương lai.


Tài liệu tham khảo:

1. Brodsky, Laura; Oakes, Liz (2017). “Data sharing and open banking”. McKinsey & Company. Archived from the original on 8 November 2017.

2. Capgemini Research Institute. (2019). World payments report 2019. Truy cập tại https://worldpaymentsreport.com/resources/world-payments-report-2019/.

3. Chính phủ (2017). Chỉ thị 16/CT-TTg “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4” ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ.

4. Competition and Marketing Authority (2017) "The Retail Banking Market Investigation Order 2017 - Gov.uk.” 6/11/2014. Truy cập tại https://assets.publishing.service.gov.uk/media/5893063bed915d06e1000000/retail-banking-market-investigation-order-2017.pdf.

5. EUR- Led “Directive (EU) 2015/2366 of the European Parliament and of the Council of 25 November 2015 on payment services in the internal market, amending Directives 2002/65/EC, 2009/110/ EC and 2013/36/EU and Regulation (EU) No 1093/2010, and repealing Directive 2007/64/ EC. Truy cập tại https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=CELEX%3A32015L2366.

6. Mai Ca (2020). Ngân hàng mở - giúp ngành tài chính vượt bão Covid-19. Công thương 5/2020. Truy cập tại https://congthuong.vn/ngan-hang-mo-giup-nganh-tai-chinh-vuot-bao-covid-19-138085.html.

7. ndgit (2019) Open banking: The global evolution in banking. Truy cập tại https://nextdigitalbanking.com/open-banking-whitepaper-article?lang=en.

8. Nguyễn Nhâm (2020). Ngân hàng mở: Xu thế của thời đại 4.0. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 8/2020.

9. Pandy, Susan (2020). “Developments in Open Banking and APIs: Where Does the US Stand”. Payment Strategies. Federal Reserve, Bank of Boston 3/2020.

10. PriceWaterhouseCoopers (2018, April). Open banking; US is next. Financial Crimes Observer. Truy cập tại https://www.pwc.com/il/he/bankim/assets/2018/Open%20banking-US%20is%20next.pdf

11. Phạm Châu Loan (2020). Cơ chế chia sẻ dữ liệu trong hợp tác ngân hàng với fintech nhằm phát triển ngân hàng mở. Future Banking Conference. IDG 2020.

12. Wells, R. and Anderson, K. (2018). Open banking - what it means for New Zealand’s financial services sector. Truy cập tại https://minterellison.co.nz/our-view/open-banking-what-it-means-for-new-zealandsfinancial-services-sector.

TS. Nguyễn Thị Hồng Nhung, TS. Hoàng Hải Yến
Khoa Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Phân tích báo cáo tài chính cung cấp thông tin rõ ràng về tình hình tài chính, vốn và công nợ của doanh nghiệp, giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định điều hành và đầu tư chính xác. Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các chỉ số tài chính của nhóm doanh nghiệp có nguy cơ phá sản và nhóm doanh nghiệp không có nguy cơ phá sản. Các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản thường có chỉ số tài chính không ổn định (quá cao hoặc quá thấp) so với các doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Những năm gần đây, với sự chuyển đổi số mạnh mẽ và sự phát triển không ngừng của các công nghệ tiên tiến, việc đo lường mức độ chấp nhận và sử dụng công nghệ mới của người dùng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sự sẵn sàng áp dụng công nghệ của một cá nhân sẽ phản ánh khuynh hướng chấp nhận công nghệ của họ trong các hoạt động thường ngày. Để đánh giá chính xác xu hướng này, Chỉ số sẵn sàng công nghệ đã trở thành một công cụ hữu ích, giúp đo lường tâm lý, thái độ và hành vi của người dùng đối với các ứng dụng công nghệ. Từ đó, doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về mức độ sẵn sàng áp dụng công nghệ của các đối tượng mục tiêu, cũng như dự báo xu hướng phát triển của thị trường.
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Để đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng, nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng kết hợp với định tính. Quy trình nghiên cứu được thực hiện theo các bước: Thống kê mô tả, đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy tuyến tính bội và kiểm định giả thuyết. Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc gửi phiếu khảo sát dưới hình thức online đến sinh viên các trường đại học.
Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp phải nhiều bất cập do những hạn chế về pháp lý, thủ tục hành chính phức tạp, thời hạn sử dụng đất ngắn và thiếu sự minh bạch trong quản lý đất đai. Các rào cản này không chỉ làm giảm sức hút của môi trường đầu tư Việt Nam mà còn cản trở sự phát triển bền vững của các dự án FDI. Để nâng cao hiệu quả quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp...
Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng mang lại nhiều lợi ích vượt trội, góp phần hiện đại hóa hoạt động, nâng cao trải nghiệm khách hàng và bảo đảm an toàn giao dịch. Các công nghệ sinh trắc học phổ biến như nhận diện khuôn mặt, quét vân tay, mống mắt hay xác thực giọng nói... không chỉ cải thiện quy trình vận hành mà còn gia tăng mức độ tin cậy trong các giao dịch tài chính.
Tính độc lập của thư tín dụng và ngoại lệ gian lận: Thực tiễn áp dụng tại một số quốc gia và đề xuất cho Việt Nam

Tính độc lập của thư tín dụng và ngoại lệ gian lận: Thực tiễn áp dụng tại một số quốc gia và đề xuất cho Việt Nam

Phương thức thanh toán bằng L/C được các doanh nghiệp sử dụng rộng rãi trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Phương thức thanh toán này giúp các bên giảm thiểu rủi ro do khoảng cách về địa lý và sự khác biệt của pháp luật giữa các quốc gia.
Cơ hội và thách thức của ngành Ngân hàng trong việc đạt mục tiêu ESG

Cơ hội và thách thức của ngành Ngân hàng trong việc đạt mục tiêu ESG

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với những thách thức lớn từ biến đổi khí hậu, bất bình đẳng xã hội và sự thiếu minh bạch trong quản trị, khái niệm ESG đã nổi lên như một giải pháp không thể thiếu để hướng tới sự phát triển bền vững.
Tác động của việc triển khai thuế tối thiểu toàn cầu đến kinh tế các nước trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Tác động của việc triển khai thuế tối thiểu toàn cầu đến kinh tế các nước trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc xây dựng thể chế thuế tối thiểu toàn cầu là một vấn đề quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển và hội nhập. Một trong những yếu tố cần thiết để xây dựng hệ thống thuế tối thiểu toàn cầu là có một khung pháp lý rõ ràng và minh bạch, tạo sự tin tưởng cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc