Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường và hàm ý cho Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường (BVMT) bao gồm thuế, phí, lệ phí, đặt cọc, kí quỹ, quỹ bảo vệ môi trường, trợ cấp môi trường... Không giống như công cụ hành chính mang tính chất mệnh lệnh, công cụ kinh tế mang tính mềm dẻo, linh hoạt, khiến cho người gây ô nhiễm và người hưởng thụ môi trường có các hành vi xử sự có lợi cho môi trường.
aa

Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường (BVMT) bao gồm thuế, phí, lệ phí, đặt cọc, kí quỹ, quỹ BVMT, trợ cấp môi trường... Không giống như công cụ hành chính mang tính chất mệnh lệnh, công cụ kinh tế mang tính mềm dẻo, linh hoạt, khiến cho người gây ô nhiễm và người hưởng thụ môi trường có các hành vi xử sự có lợi cho môi trường. Áp dụng công cụ kinh tế trong môi trường là cách tiếp cận đúng đắn nhằm hạn chế ô nhiễm và suy thoái môi trường. Nội dung bài viết tập trung vào việc phân tích làm rõ đặc điểm, kinh nghiệm áp dụng của một số quốc gia và đánh giá thực trạng các công cụ kinh tế đang triển khai ở Việt Nam, từ đó khuyến nghị các giải pháp hoàn thiện áp dụng các công cụ kinh tế trong BVMT.

1. Tổng quan về công cụ kinh tế trong BVMT

Các công cụ kinh tế được xây dựng trên các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường với mục tiêu điều hòa xung đột giữa tăng trưởng kinh tế và BVMT. Công cụ kinh tế hiện nay rất đa dạng, bao gồm các loại thuế, phí và lệ phí, đặt cọc, kí quỹ BVMT, trợ cấp môi trường, hệ thống các tiêu chuẩn ISO...

Luật BVMT năm 2020, Chương XI có xây dựng một mục riêng: “Mục 1- Công cụ kinh tế cho BVMT”, cụ thể như: Điều 136 - Chính sách thuế, phí BVMT; Điều 137 - Kí quỹ BVMT; Điều 138 - Chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên; Điều 139 - Tổ chức và phát triển thị trường carbon; Điều 140 - Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường...

- Thuế BVMT

Thuế BVMT là loại thuế gián thu, thu vào các sản phẩm, hàng hóa mà việc sử dụng gây tác động xấu đến môi trường hoặc chất ô nhiễm môi trường. Mức thuế BVMT được xác định căn cứ vào mức độ gây tác động xấu đến môi trường.

Thuế BVMT do các cơ quan có thẩm quyền quy định ở cấp quốc gia hoặc địa phương, được xác định dựa trên cơ sở khối lượng các chất ô nhiễm do các cơ sở thải vào môi trường. Theo hệ thống này, người gây ô nhiễm phải trả phí cho mỗi đơn vị ô nhiễm phát thải vào môi trường.

Ví dụ, thuế môi trường không khí được áp dụng để giảm thiểu lượng khí thải CO2, và các loại khí và các chất bụi không không khí gây hiệu ứng nhà kính và làm trái đất nóng lên. Hà Lan là nước phương tây đầu tiên thu thuế carbon đánh vào xăng - một trong những nguyên nhân thải CO2.

Tại Việt Nam, Luật Thuế BVMT năm 2010 quy định rõ nhóm các mặt hàng chịu thuế BVMT như xăng dầu, than đá, dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (dung dịch HCFC), túi ni lông, thuốc trừ cỏ, thuốc bảo quản lâm sản… Đây là những mặt hàng khi sử dụng sẽ có tác động xấu đến môi trường sinh thái. Ví dụ, mức thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ, nhờn từ ngày 01/01/2023, thuế BVMT với xăng là 2.000 đồng/lít, các mặt hàng dầu (trừ dầu hỏa) và mỡ nhờn là 1.000 đồng; từ đầu năm 2024, thuế BVMT với xăng dầu, mỡ nhờn sẽ trở lại mức trần của biểu khung thuế (xăng là 4.000 đồng/lít; nhiên liệu bay là 3.000 đồng/lít, dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn là 2.000 đồng/lít; dầu hỏa 1.000 đồng /lít, mỡ nhờn là 2.000 đồng/kg).



Thuế BVMT là giải pháp kinh tế tài chính chủ yếu để giảm ô nhiễm môi trường (Nguồn ảnh: Internet)


- Phí BVMT

Phí BVMT được sử dụng phổ biến ở các nước trên thế giới để ngăn ngừa người gây ô nhiễm thải chất thải ra môi trường, tạo khoản thu để bù đắp các chi phí BVMT dựa trên nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Theo đó, phí BVMT là khoản tiền mà cá nhân, tổ chức xả thải ra môi trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối với môi trường phải nộp nhằm cơ bản bù đắp chi phí và mang tính phục vụ khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp dịch vụ cho hoạt động bảo vệ, xây dựng, bảo dưỡng môi trường...

Ví dụ, phí BVMT áp dụng đối với hoạt động xả thải ra môi trường; khai thác khoáng sản hoặc làm phát sinh tác động xấu đối với môi trường. Mức phí BVMT được xác định trên cơ sở khối lượng, mức độ độc hại của chất ô nhiễm thải ra môi trường, đặc điểm của môi trường tiếp nhận chất thải; mức độ tác động xấu đến môi trường của hoạt động khai thác khoáng sản; tính chất dịch vụ công thuộc lĩnh vực BVMT.

Phí vệ sinh môi trường là khoản phí trả cho việc thu gom, xử lí rác thải đô thị. Đây là công cụ kinh tế được sử dụng khá sớm. Về cơ bản loại phí này được sử dụng ở khu vực đô thị, mức phí thu có thể khác nhau phụ thuộc vào từng địa phương.
Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản áp dụng cho các loại khoáng sản: đá, fenspat, sỏi, cát, đất, than, nước khoáng thiên nhiên, sa khoáng ti tan (ilmenit), các loại khoáng sản kim loại, quặng apatit.

- Kí quỹ BVMT

Kí quỹ BVMT là việc tổ chức, cá nhân gửi một khoản tiền vào quỹ BVMT để bảo đảm trách nhiệm cải tạo, phục hồi và BVMT trong các hoạt động được quy định theo pháp luật.

Ví dụ, kí quỹ để phục hồi môi trường trong hoạt động khoáng sản là hình thức kí quỹ bắt buộc đối với mọi tổ chức, cá nhân được khai thác khoáng sản trước khi tiến hành khai thác có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc các loại giấy tờ có giá trị vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ phục hồi môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra.

- Chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên

Chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên (PES) là việc tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên trả tiền cho tổ chức, cá nhân cung ứng giá trị môi trường, cảnh quan do hệ sinh thái tự nhiên tạo ra để bảo vệ, duy trì và phát triển hệ sinh thái tự nhiên. PES là công cụ kinh tế để những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chi trả cho những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của hệ sinh thái đó. Đây là một hướng tiếp cận mới, được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và được coi là một cơ chế tài chính bền vững cho bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học và xóa đói, giảm nghèo. Với góc độ tiếp cận đó, PES đóng vai trò là một cơ chế nhằm tạo lợi ích cho các cá nhân và các cộng đồng bảo vệ dịch vụ hệ sinh thái bằng cách bồi hoàn cho họ khoản chi phí phát sinh từ việc quản lí và cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái.

Các dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên được chi trả bao gồm: Dịch vụ môi trường rừng của hệ sinh thái rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp; Dịch vụ hệ sinh thái đất ngập nước phục vụ mục đích kinh doanh du lịch, giải trí, nuôi trồng thủy sản; Dịch vụ hệ sinh thái biển phục vụ mục đích kinh doanh du lịch, giải trí, nuôi trồng thủy sản; Dịch vụ hệ sinh thái núi đá, hang động và công viên địa chất phục vụ mục đích kinh doanh du lịch, giải trí; Dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên phục vụ mục đích hấp thụ và lưu trữ carbon.

Ở Việt Nam, PES được biết đến rộng rãi trong lĩnh vực lâm nghiệp với cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được thể chế hóa trong pháp luật về lâm nghiệp và mang lại những lợi ích đã được chứng minh. Tuy nhiên, bên cạnh hệ sinh thái rừng thì còn nhiều kiểu hệ sinh thái khác có những giá trị, tiềm năng áp dụng PES như đất ngập nước, biển … Chính vì vậy, Luật BVMT năm 2020 đã đưa ra quy định về PES.

- Thị trường carbon

Thuật ngữ thị trường carbon bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto 1997 của Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu. Theo Điều 17 Nghị định thư Kyoto 1997 thì thị trường carbon được hiểu là các quốc gia có dư thừa quyền phát thải được bán cho hoặc mua từ các quốc gia phát thải nhiều hơn hoặc ít hơn mục tiêu đã cam kết.

Từ đó, trên thế giới xuất hiện một loại hàng hóa mới được tạo ra dưới dạng chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải khí nhà kính. Do carbon là khí nhà kính quy đổi tương đương của mọi khí nhà kính nên các giao dịch được gọi chung là mua bán, trao đổi carbon, hình thành nên thị trường carbon (hay tín chỉ carbon).

Tín chỉ carbon là thuật ngữ chung cho tín chỉ có thể kinh doanh hoặc giấy phép đại diện cho 1 tấn carbon dioxide (CO2) hoặc khối lượng của một khí nhà kính khác tương đương với 1 tấn CO2 (tCO2e). Việc mua bán sự phát thải khí CO2 hay mua bán carbon trên thị trường được thực hiện thông qua tín chỉ.

Thị trường carbon quốc tế đầu tiên là của Liên minh châu Âu, vận hành từ năm 2005. Đây là công cụ chính sách quan trọng bậc nhất của Liên minh châu Âu nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, thực thi cam kết trong Nghị định thư Kyoto trước đây và sau này là Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Thị trường này chiếm khoảng 45% tổng lượng phát thải toàn châu Âu và khoảng 3/4 thị trường phát thải carbon toàn cầu.

Điều 139 Luật BVMT 2020 quy định tổ chức và phát triển thị trường carbon. Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon, có quy định cụ thể về lộ trình phát triển, thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước (Điều 17). Trong đó, giai đoạn đến hết năm 2027 sẽ: Xây dựng quy định quản lí tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon. Thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025. Tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức trong năm 2028. Quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.

- Bảo hiểm trách nhiệm đền bù thiệt hại

Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường là bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm bồi thường đối với bên mua bảo hiểm với việc chi trả cho hoạt động khôi phục khi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm đất, nước, không khí và thiệt hại về đa dạng sinh học. Đây cũng là bảo hiểm cho những tổn thất phát sinh do tình trạng ô nhiễm từ những địa điểm mà người được bảo hiểm sở hữu hay hoạt động sản xuất kinh doanh. Bảo hiểm môi trường còn là công cụ linh hoạt, mang tính chiến lược nhằm hỗ trợ các công ty quản lí rủi ro về môi trường.

Mục đích của bảo hiểm môi trường là nhằm bảo đảm các khoản kinh phí cần thiết để khắc phục môi trường khi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp phải những rủi ro về mặt môi trường. Khi doanh nghiệp đã nộp một khoản tiền gọi là tiền phí bảo hiểm thì khi rủi ro xảy ra gây ảnh hưởng tới môi trường thì lúc này người phải khắc phục môi trường không phải là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh - người gặp phải rủi ro, mà là doanh nghiệp bảo hiểm. Nhà nước có thể quy định hình thức bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm môi trường tự nguyện áp dụng đối với các đối tượng có hoạt động khác nhau.

Tại Việt Nam, theo Luật BVMT và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ, bảo hiểm Môi trường là bảo hiểm bắt buộc đối với một số nghề nghiệp.

2. Kinh nghiệm áp dụng các công cụ kinh tế trong BVMT của một số quốc gia

- Áp dụng thuế BVMT

Na Uy, Thụy Điển thu thuế môi trường đối với khí thải, đánh vào nhiên liệu chất đốt và một số sản phẩm có chứa các chất gây ô nhiễm không khí và được thải ra trong quá trình sử dụng, như các thiết bị điện lạnh tủ lạnh, điều hòa…

Thụy Điển đã vận dụng một cách rộng rãi thuế, phí và nhiều biện pháp kinh tế trong BVMT. Các biện pháp kinh tế bao gồm thu thuế, phí đối với chất thải CO2, NOx, SOx, thuế chất thải như thuốc bảo vệ thực vật, thực hiện chương trình hoàn trả tiền đặt cọc đối với hộp nhôm và hộp nhựa; thuế rác, phân biệt thu phí tàu thuyền đường biển và trợ cấp thêm quỹ kĩ thuật nguồn năng lượng và đầu tư… Hiệu quả từ các loại thuế là rất lớn, không chỉ góp phần BVMT mà còn đóng góp vào nền kinh tế quốc dân. Chế độ thu thuế nguồn năng lượng môi trường ở Thụy Điển gồm thuế năng lượng; thuế đối với các nhiên liệu dầu, than, khí đốt thiên nhiên. Năm 1992, Thụy Điển bắt đầu thu phí NOx của nguồn gây ô nhiễm cố định phần lớn là nhà máy điện có công suất 50 triệu kWh trở lên. Việc thu phí theo lượng thải NOx như vậy đã khuyến khích được người sản xuất giảm mức phát thải ra thấp hơn mức trung bình.

Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được Hàn Quốc áp dụng từ năm 1983 đối với chất thải khí. Ban đầu, Hàn Quốc áp dụng phạt do không thực hiện cam kết về BVMT. Từ năm 1986, biện pháp này đã được thay thế bằng thu phí đối với phần chất thải vượt tiêu chuẩn. Mức phí được xác định trên cơ sở nồng độ chất gây ô nhiễm, vị trí thải ô nhiễm, lượng chất thải vượt tiêu chuẩn cho phép và tùy thuộc vào số lần vi phạm. Tuy nhiên, biện pháp này đã bộc lộ một số nhược điểm, chẳng hạn trong một số trường hợp thấp hơn cả chi phí vận hành thiết bị xử lí ô nhiễm, vì vậy ít có tác động khuyến khích giảm ô nhiễm. Để khắc phục những nhược điểm này, năm 1990, Hàn Quốc đã thực hiện thu phí căn cứ vào khối lượng khí thải ra thực tế chứ không chỉ căn cứ vào lượng chất thải vượt tiêu chuẩn cho phép và kết hợp nồng độ chất thải trong công thức tính phí.

Ở Malaysia, để đảm bảo sự công bằng trong thu phí gây ô nhiễm không khí do các phương tiện giao thông vận tải gây ra, mức phí gây ô nhiễm không khí được căn cứ vào cả khối lượng lẫn nồng độ các chất thải ra môi trường không khí. Ngoài ra, Chính phủ còn cho phép đánh thuế cao đối với những thiết bị cũ, các dây chuyền sản xuất không có hệ thống xử lí khí thải, bụi và tiếng ồn. Biện pháp này nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, kĩ thuật, ngăn chặn xu hướng các nước tiên tiến chuyển giao công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm sang các nước nghèo đem lại lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp nước ngoài.

- Phí BVMT đối với nước thải

Phí BVMT đối với nước thải nói chung, nước thải công nghiệp nói riêng là một trong những công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Giống như các loại thuế hay phí môi trường khác, phí nước thải hoạt động theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, qua đó tạo động lực để các doanh nghiệp giảm ô nhiễm, đồng thời tạo nguồn thu để chi trả cho các hoạt động BVMT.

Phí nước thải đã được áp dụng từ khá lâu ở nhiều nước phát triển, từ năm 1961 ở Phần Lan, từ năm 1970 ở Thụy Điển, năm 1980 ở Đức... đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong việc quản lí ô nhiễm do nước thải gây ra ở các nước này. Phí nước thải cũng được áp dụng ở các nước đang phát triển trong thời gian gần đây: Năm 1978 ở Trung Quốc và Malaysia, năm 1996 ở Philippines. Ở các nước ASEAN, hiện chỉ có Malaysia và Philippines áp dụng phí nước thải ở quy mô cả nước. Thái Lan bắt đầu áp dụng ở quy mô thành phố từ năm 2000 và đang trong quá trình nghiên cứu nhằm áp dụng ở quy mô cả nước.

Phần lớn các quốc gia đều có mức phí khác biệt tùy thuộc vào khối lượng và chất lượng chất ô nhiễm. Hệ thống phí ô nhiễm của Bỉ, Đức và Hàn Quốc đều đặt mục tiêu tạo khuyến khích và thay đổi hành vi của người gây ô nhiễm, trong khi tại các quốc gia khác mục tiêu chính là tạo nguồn thu. Ở Hàn Quốc và Mexico, mức phí áp dụng cho khối lượng nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép.

Tại Canada, phí nước thải đã được triển khai áp dụng cho tất cả các cơ sở gây ô nhiễm công nghiệp có phát thải từ tháng 5/1993 kết hợp với biện pháp mệnh lệnh và kiểm soát. Canada áp dụng hệ thống phí đúp: Phí cố định hằng năm cộng với một mức phí khả biến là hàm số của số lượng ô nhiễm cụ thể của cơ sở thải ra. Tổng lượng phí bao gồm từ tháng 1 đến tháng 12 hằng năm.

Tại Pháp, phí ô nhiễm nước được áp dụng hơn 20 năm nay. Nước Pháp được chia ra thành 6 lưu vực sông, tùy theo mỗi lưu vực, các cơ quan chức năng quyết định mức phí và quản lí chương trình thu phí ô nhiễm cũng như sử dụng tiền thu được từ các phí này. Mức phí thay đổi tùy theo các chất gây ô nhiễm và mức phí theo từng lưu vực sông. Khác với Canada, việc thu phí tại Pháp dựa trên các chất phát thải ra chứ không dựa vào lượng phát thải thực tế. Tiền thu được được sử dụng để đầu tư chống ô nhiễm của ngành và xây dựng nhà máy xử lí nước thải đô thị.

Tại Hoa Kỳ, phí nước thải được quy định trong Luật Nước sạch năm 1972 và trong Đạo luật ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nước. Mỹ thu phí ô nhiễm đối với tất cả các thành phần ô nhiễm và quy định ngưỡng ô nhiễm cho các chất riêng biệt. Phí ô nhiễm được áp dụng trên toàn thể các bang của Mỹ, tuy nhiên cách thu phí và mức phí có sự khác biệt. 10% tổng số thu từ phí ô nhiễm được nộp vào ngân sách liên bang và 90% được chuyển vào các quỹ sinh thái khu vực và địa phương.

Tại Trung Quốc, phí nước thải được quy định trong Điều 18 Luật BVMT năm 1979. Trong những năm 1979 - 1981, phí ô nhiễm được áp dụng trên cơ sở thử nghiệm ở 27 tỉnh/thành phố dưới sự giám sát trực tiếp của Chính phủ. Từ năm 1982 việc thực hiện được áp dụng trên toàn quốc. Từ sau năm 2004, phí nước thải được tính với tất các các đơn vị ô nhiễm (cả đơn vị trên và dưới tiêu chuẩn cho phép). Phí được áp dụng cho hơn 100 thông số ô nhiễm trong nước thải, các tiêu chuẩn do Bộ Môi trường quy định thay đổi tùy thuộc vào từng ngành công nghiệp, và mức phí thay đổi tùy theo loại chất gây ô nhiễm. Ngoài ra, các địa phương có thể đưa ra các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn tiêu chuẩn quốc gia và có thể đưa ra mức phí cao hơn mức phí do Bộ Môi trường quy định.

- Phí BVMT đối với khí thải

Phí BVMT đối với khí thải đã được áp dụng tương đối rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới kể cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Về mức phí, để đảm bảo mục tiêu giảm phát thải khí gây ô nhiễm môi trường thì mức phí phải cao bằng chi phí giảm thiểu ô nhiễm cận biên, điều mà một số nước đã đạt được như Mỹ, Ba Lan... (Ở Ba Lan, mức phí là 80 EURO/tấn SO2, NO2 năm 1996). Tuy nhiên, theo thời gian, tác dụng khuyến khích BVMT của một loại phí có thể bị giảm do lạm phát. Vì vậy, mức phí cụ thể cần được rà soát và điều chỉnh theo thời gian.

Ngoài ra, mức phí phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, phải có tính khả thi cao. Vì vậy, một số quốc gia triển khai áp đặt mức phí theo lộ trình; mức phí có thể được xây dựng với mức thấp, để cho các đối tượng nộp phí có thể chấp nhận, sau đó được tăng dần đến mức cần thiết theo một lộ trình nhất định. Cộng hòa Séc là nước đã có những bước tăng mức phí rất phù hợp (năm 1996 vào khoảng 20 - 25 EURO/tấn SO2, NO2, sau đó tăng dần), còn ở Ba Lan mức phí được điều chỉnh hằng năm.

Về phân bổ nguồn phí: Về nguyên tắc, phí BVMT phải được đầu tư trở lại cho công tác BVMT. Ở nhiều nước, phí BVMT thường được chi trở lại cho môi trường thông qua các quỹ BVMT Trung ương và địa phương. Ở Trung Quốc và Thụy Điển, một số phí BVMT thu được được hoàn trả lại cho các doanh nghiệp sau khi họ đã đầu tư cho việc xây dụng các hệ thống xử lí chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường.

- Chi trả dịch vụ hệ sinh thái

Các chương trình PES tại các quốc gia như Costa Rica, Mexico, Hoa Kỳ, Ecuador đều mang lại kết quả góp phần giảm nghèo, tạo sinh kế ổn định cho một bộ phận dân cư. PES cũng tạo sự công bằng trong tiếp cận các thông tin môi trường thông qua cơ chế những người sử dụng dịch vụ môi trường phải chi trả cho người cung cấp dịch vụ môi trường bằng các thỏa thuận tự nguyện. Theo đó, bản thân người cung cấp dịch vụ môi trường phải được tiếp cận thông tin môi trường đầy đủ để tránh việc bị chi trả dưới giá thị trường cho các dịch vụ mình cung cấp.

Trong thực tế, thông qua các chương trình PES, người dân đã được tăng cường tiếp cận các thông tin môi trường và hệ thống pháp luật về lĩnh vực tài nguyên và môi trường. PES cũng tạo sự bình đẳng xã hội khi người nghèo có cơ hội được tiếp cận với y tế, giáo dục và các giá trị văn hóa, giải trí khác thông qua việc nâng cao thu nhập và các chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng. PES góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của dịch vụ hệ sinh thái được cung cấp, cải thiện sinh kế bền vững cho những người cung cấp dịch vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống toàn xã hội.

- Kí quỹ môi trường

Công cụ kí quỹ môi trường đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt với các hoạt động công nghiệp như khai thác mỏ, khai thác rừng hoặc đại dương.

Tại Canada, kí quỹ môi trường đã được áp dụng trong ngành khai thác khoáng sản tại Quebec (Canada) từ đầu những năm 1990. Theo quy định, bất kì cá nhân nào tham gia khai thác mỏ hoặc điều hành hệ thống khai thác phải đệ trình kế hoạch phục hồi và một khoản tài chính đảm bảo, chiếm 70% chi phí phục hồi khu vực khai thác. Bản hợp đồng kí quỹ giữa các ngân hàng và chủ đề án phải đảm bảo các điều khoản sau: i) Không cá nhân nào có thể thu hồi hoặc hoàn trả mà không có sự cho phép của Bộ trưởng với mục đích đảm bảo cho các kế hoạch phục hồi được thực hiện đầy đủ; ii) Bộ Tài chính cần sử dụng một phần tiền đảm bảo để chi trả cho các hoạt động phục hồi cần thiết. Khoản tiền kí quỹ phụ thuộc vào đề án phục hồi và tương ứng với 70% chi phí ước tính đối với việc phục hồi khu vực khai thác.

Tại Philippines, quy định về khoản kí quỹ mà người khai thác khoáng sản phải chi trả để được thực hiện như sau: Người kí quỹ hợp đồng/sở hữu giấy phép/thuê đất sẽ phải chi trả cho Chính phủ một khoản tiền đặt cọc có giá trị tối thiểu bằng 5% giá trị thị trường của toàn bộ sản lượng khoáng sản khai thác hoặc các sản phẩm chế biến không bao gồm tất cả các loại thuế khác. 10% khoản tiền trên và 10% doanh thu khác như quản lí hành chính, vệ sinh, khai thác và các chi phí liên quan khác được thu từ hoạt động thăm dò, khai thác, phát triển và sử dụng các nguồn tài nguyên khoáng sản cùng với khoáng sản dự trữ sẽ được Chính phủ quản lí như một quỹ tín dụng và sẽ được kí quỹ vào ngân quỹ của chính phủ để phân phối cho các đề án đặc biệt và các chi phí hành chính khác liên quan đến thăm dò, khai thác, phát triển và quản lí môi trường khoáng sản.

Từ cuối năm 1980, trái phiếu môi trường được áp dụng tại Tây Australia như là một dạng bảo hiểm nhằm đảm bảo cho khu vực tránh khỏi các nguy cơ về tài chính trong trường hợp hoạt động khai thác mỏ thất bại trong việc phục hồi môi trường sau khi khai thác. Trái phiếu môi trường được quản lí bởi Cục Môi trường của Bộ Mỏ và Dầu khí. Các chủ khai thác khoáng sản phải đảm bảo tuân thủ các quy định về thăm dò, khai thác và cho thuê giấy phép khai thác theo Luật Khai thác mỏ…

- Thị trường carbon

Thị trường giao dịch phát thải của Liên minh châu Âu (EU ETS) là thị trường đa quốc gia lớn nhất thế giới. Thị trường được xây dựng theo 4 giai đoạn liên tiếp: Giai đoạn I (2005 - 2007, thường được gọi là "giai đoạn thí điểm"); giai đoạn II (2008 - 2012); giai đoạn III (2013 - 2020); giai đoạn thứ tư bắt đầu từ năm 2021. EU ETS đã đạt được mục tiêu giảm phát thải ngay lập tức với chi phí tối thiểu.

Trong giai đoạn đầu của ETS, EU cho phép người phát thải sử dụng tín chỉ từ các dự án ở các nước đang phát triển để đáp ứng yêu cầu giảm phát thải của họ. Tính minh bạch trong EU ETS cao và được củng cố chặt chẽ trong luật pháp. Điều này đã giúp thiết lập một thị trường đáng tin cậy với tính thanh khoản cao. Đặc biệt đối với cơ chế Đo lường - Báo cáo - Giám sát (MRV), các quy tắc được thiết lập ngày càng rõ ràng và hài hòa để đảm bảo việc giảm phát thải và cấp phép là rõ ràng và đáng tin cậy.

Năm 2011, sau khi các quy định thị trường carbon của Nghị định thư Kyoto được công bố, Trung Quốc đã thiết lập thí điểm 7 thị trường carbon. Trong năm 2013 và 2014, có 57 triệu tấn carbon được giao dịch trên thị trường. Mỗi thị trường thử nghiệm được xây dựng bằng cách liên kết và phối hợp các cơ quan cấp tỉnh, thành phố và thiết lập các sàn giao dịch phát thải khí thải tại địa phương, với các nhà lãnh đạo, chuyên gia từ các trường đại học và viện nghiên cứu đồng thời tham vấn với các lãnh đạo cấp cao tại Bắc Kinh. Năm 2021, Trung Quốc đã triển khai ETS quốc gia đối với ngành Điện.

Tại Hàn Quốc, ETS cho đến nay phân biệt 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 diễn ra từ năm 2015 - 2017, bao gồm 23 phân ngành từ 6 lĩnh vực sau: Điện, công nghiệp (như sắt thép, hóa dầu, xi măng, lọc dầu, kim loại màu, giấy, dệt may, máy móc, khai thác mỏ, thủy tinh và gốm sứ...), tòa nhà, công cộng, chất thải và giao thông vận tải (hàng không). Giới hạn này được thiết lập dựa trên mục tiêu khí nhà kính quốc gia cũng như tiềm năng giảm nhẹ của ngành. Đối với Giai đoạn 2, phân bổ dựa trên định mức đã được mở rộng thành 8 lĩnh vực và áp dụng hình thức đấu giá. Đấu giá lúc đầu dự kiến sẽ bắt đầu vào năm 2018, nhưng quá trình này đã bị trì hoãn đến tháng 1 năm 2019 (3%). Giai đoạn 3 từ năm 2021 - 2025 với tỉ lệ đấu giá sẽ tăng hơn nữa (lên hơn 10%), tăng tính linh hoạt trong việc sử dụng tín dụng và cho phép các bên thứ ba thực hiện buôn bán trên thị trường.

- Bảo hiểm môi trường

Tại Hàn Quốc, Đạo luật về trách nhiệm, bồi thường thiệt hại và khắc phục thiệt hại do ô nhiễm môi trường đưa ra định nghĩa, bảo hiểm môi trường có nghĩa là một hợp đồng bảo hiểm được kí kết giữa chủ cơ sở sản xuất với công ty bảo hiểm, trong đó quy định các điều khoản, điều kiện đảm bảo về trách nhiệm đối với thiệt hại về môi trường. Chính phủ Hàn Quốc đã phân loại các hoạt động sản xuất trong lĩnh vực dầu khí theo mức độ, tiềm năng gây ô nhiễm môi trường theo 3 nhóm rủi ro: Cao, trung bình, thấp. Trên cơ sở từng mức độ rủi ro được phân loại, Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng mức độ trách nhiệm tối thiểu đối với từng loại hình đối tượng tham gia mua bảo hiểm trách nhiệm pháp lí môi trường.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc đền bù thiệt hại ô nhiễm môi trường do sự cố tràn dầu, Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) đã thông qua các công ước quốc tế thiết lập khung pháp lí về bồi thường thiệt hại ô nhiễm dầu do các sự cố tràn dầu từ tàu gây ra như Công ước quốc tế 1969 về trách nhiệm dân sự đối với bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu (Công ước Trách nhiệm dân sự 1969) và Công ước quốc tế 1971 về thành lập Quỹ quốc tế đối với đền bù thiệt hại do ô nhiễm dầu (Công ước Quỹ 1971).

3. Một số hàm ý về áp dụng công cụ kinh tế cho BVMT ở Việt Nam

Từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy việc áp dụng các công cụ kinh tế trong BVMT có những đặc điểm như sau:

Thứ nhất, thuế BVMT là giải pháp kinh tế tài chính chủ yếu để giảm ô nhiễm môi trường; giảm phát thải khí thải; giảm tiêu thụ năng lượng trên một đơn vị tăng trưởng GDP; ngân sách có nguồn tài chính để thực hiện phát triển kinh tế, xã hội.

Thứ hai, các quốc gia đã áp dụng các công cụ khác nhau để đạt mục tiêu BVMT và phát triển bền vững, trong đó có các loại công cụ được sử dụng phổ biến như: Phí ô nhiễm không khí, phí ô nhiễm nước, phí rác thải, phí sử dụng môi trường, thuế môi trường, đặt cọc, kí quỹ, bảo hiểm môi trường, phát triển thị trường carbon...

Thứ ba, thuế môi trường (như thuế năng lượng/nhiên liệu, thuế môi trường hoặc thuế xanh, thuế phương tiện…) là một trong những biện pháp kinh tế thường được các quốc gia sử dụng nhằm tạo nguồn thu trực tiếp cho ngân sách nhà nước. Số thu từ nhóm thuế này trung bình chiếm khoảng 5% GDP và dao động từ 3% - 13% GDP tùy thuộc vào từng quốc gia.

Thứ tư, xu hướng phát triển đã có sự thay đổi, quan điểm thân thiện với môi trường và duy trì hệ sinh thái tự nhiên thông qua chuyển đổi mô hình phát triển đầu tư vào khoa học công nghệ, xử lí ô nhiễm, giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng chất thải. Bảo vệ tài nguyên và môi trường cơ bản dựa trên đặc thù của hệ sinh thái, dựa trên khả năng của hệ sinh thái để có phương án khai thác sử dụng, quy hoạch và bảo vệ hợp lí.

Thứ năm, mô hình phát triển của các nước đã chú trọng tới môi trường và tiết kiệm tài nguyên, phát triển theo xu hướng “Tăng trưởng xanh”, “Kinh tế carbon thấp”, hướng tới nền kinh tế xanh. Tuy nhiên, việc tiếp cận mô hình phát triển “kinh tế xanh” sẽ đặt ra nhiều thách thức, nhất là nguồn vốn đầu tư, công nghệ và năng lực thực thi. Để vượt qua được những thách thức đó, các nước đang phát triển không chỉ phải phát huy nội lực mà còn cần có sự trợ giúp của các nước phát triển.

4. Kết luận và khuyến nghị

Việt Nam đã hình thành được một hệ thống văn bản, từng bước phát huy được vai trò của các công cụ kinh tế trong BVMT. Việc sử dụng công cụ kinh tế góp phần làm giảm bớt gánh nặng ngân sách, tạo ra một nguồn tài chính dồi dào và cần thiết từ toàn xã hội cho BVMT. Trong vòng 10 năm (2012 - 2021), số thu ngân sách từ thuế BVMT đã tăng 4,8 lần (năm 2012 là hơn 11.000 tỉ đồng; năm 2019 gần 69.000 tỉ đồng, trong đó xăng, dầu đóng góp hơn 90%). Đến năm 2021, thu từ thuế BVMT ước chiếm khoảng hơn 4% tổng thu ngân sách nhà nước. Thuế BVMT đang trở thành một sắc thuế quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt Nam.

Ngoài ra, Việt Nam cũng đã triển khai một số cơ chế chính sách về tín dụng ưu đãi đối với các dự án liên quan đến BVMT, tiết kiệm năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo thông qua Quỹ BVMT Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và các quỹ đầu tư phát triển địa phương. Cùng với đó, các cơ chế chính sách để đa dạng hóa nguồn lực, thúc đẩy sự tham gia của tư nhân vào các dự án BVMT cũng đã được xây dựng và tổ chức thực hiện.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc áp dụng các công cụ kinh tế này trong thời gian qua chưa mang lại hiệu quả cao, mới chỉ góp phần tăng nguồn thu ngân sách mà chưa góp phần hữu hiệu trong việc điều chỉnh, thay đổi các hành vi theo hướng có lợi cho môi trường. Hoạt động tín dụng xanh mới chỉ được quan tâm trong những năm gần đây, chưa được triển khai rộng rãi do khung pháp lí hỗ trợ thực hiện tín dụng xanh còn chưa đồng bộ. Do vậy, để phát huy hiệu quả các công cụ kinh tế trong BVMT, Việt Nam cần chú trọng một số nội dung:

Thứ nhất, cần xem xét, bổ sung danh mục các hàng hóa, sản phẩm chịu thuế môi trường để phù hợp hơn với tình hình phát thải gây hại môi trường hiện nay. Quy định về khung và mức thuế BVMT đối với các hàng hóa phù hợp với mức độ gây ô nhiễm môi trường của các hàng hóa. Bổ sung trường hợp được miễn giảm, ưu đãi thuế BVMT nhằm khuyến khích doanh nghiệp cải tiến kĩ thuật, hạn chế xả thải gây hại môi trường.

Thứ hai, việc thu phí thu gom, xử lí rác thải sinh hoạt theo số lượng phát sinh theo khối lượng quy định tại Luật BVMT là cần thiết, nâng cao ý thức của người dân trong việc hạn chế xả rác ra môi trường; phân loại rác, thu gom để tái chế, bảo đảm công bằng giữa các hộ dân, giảm bớt chi ngân sách. Do vậy, các bộ, ngành liên quan cần nghiên cứu ban hành phương pháp, quy trình xác định quản lí chi phí dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lí chất thải rắn sinh hoạt để các địa phương xây dựng, điều chỉnh đơn giá nhanh chóng, thuận tiện.

Thứ ba, xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về thị trường carbon, bao gồm hệ thống quản lí hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; ban hành định mức phát thải khí nhà kính trên đơn vị sản phẩm đối với các loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh. Tạo lập sàn giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức, quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.

Thứ tư, đẩy mạnh đa dạng hóa nguồn lực cho thực hiện các mục tiêu về BVMT, thúc đẩy tăng trưởng xanh. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lí cho sự phát triển của tín dụng xanh, trong đó, chú trọng xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn về tín dụng xanh làm căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Ngoài ra, đẩy mạnh đàm phán, tạo thuận lợi cho các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức tín dụng trong nước tham gia hoạt động hợp tác quốc tế tài trợ vốn cho các dự án xanh…

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2021), Báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia giai đoạn 2016 - 2020.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2022), Công cụ kinh tế cho bảo vệ môi trường. Tài liệu Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ V, năm 2022.
3. Trương Bá Tuấn (2022), Vai trò của chính sách tài chính nhằm thực hiện các mục tiêu về bảo vệ môi trường. Tạp chí Tài chính, kì 1 tháng 7/2022
4. Lê Quang Thuận (2017), Sử dụng công cụ thuế để BVMT hướng tới phát triển bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hoàn thiện chính sách thuế, phí BVMT”.
5. Nguyễn Hoàng Lan (2023), Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam về việc hình thành thị trường carbon. Tạp chí Công Thương, số tháng 2/2023.
6. Phạm Thị Linh (2021), Chi trả dịch vụ môi trường - Tiếp cận khái niệm và vai trò. Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, số 10, tháng 5 năm 2021.
7. Nguyễn Thế Chinh và cộng sự (2022), Đánh giá dịch vụ hệ sinh thái với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Tạp chí điện tử Kinh tế môi trường, tháng 7/2022.
8. Lê Thị Hảo, Nguyễn Quang Tuấn (2011), Sử dụng công cụ kinh tế và pháp lí trong quản lí, bảo vệ môi trường. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9(194), tháng 5/2011.
9. Lưu Đức Hải và cộng sự (2021), Đặc điểm và phân loại công cụ kinh tế môi trường. Tạp chí điện tử Kinh tế môi trường, tháng 11/2021.
10. Trần Thế Anh (2022), Thực trạng triển khai tín dụng xanh đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phát triển tín dụng xanh trong thời gian tới. Tạp chí Môi trường số 11/2022.



TS. Nguyễn Đình Đáp

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng