Khả năng sử dụng dịch vụ tài chính số của người trung niên tại Việt Nam - Cách tiếp cận từ dân trí tài chính

Bài viết khoa học chuyên sâu
Trong xu hướng số hóa của thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngành dịch vụ tài chính đã có những chuyển biến to lớn với những đổi mới công nghệ trong thanh toán, tín dụng, bảo hiểm, đầu tư (tư vấn tài chính tự động), ngân hàng số, xác thực sinh trắc học/hỗ trợ back-end (điện toán đám mây và dữ liệu lớn) (OECD, 2020).
aa

Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác động của dân trí tài chính dưới góc độ xem xét cả ba yếu tố: Kiến thức tài chính, thái độ tài chính và hành vi tài chính lên khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số (Digital financial services - DFS) của người trung niên tại Việt Nam. Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu thu thập thông qua phương pháp bảng hỏi trực tiếp và được xử lí thông qua phân tích định lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các nhân tố: Kiến thức tài chính, thái độ tài chính và hành vi tài chính đều có tương quan thuận với khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số của người trung niên tại Việt Nam. Từ đó, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị chính sách với các cơ quan liên quan nhằm nâng cao dân trí tài chính và khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số của người trung niên tại Việt Nam.

Từ khóa: Dân trí tài chính, dịch vụ tài chính số, kinh tế số, trung niên, Việt Nam.

ACCESSIBILITY TO THE DIGITAL FINANCIAL SERVICES OF MIDDLE-AGED PEOPLE IN VIETNAM UNDER FINANCIAL LITERACY APPROACH

Abstract: The study aims to evaluate the impact of financial literacy on the ability of middle-aged people in Vietnam to access to digital financial services (DFS), considering all three factors: Financial knowledge, financial attitude and financial behavior on accessibility to DFS of middle-aged people in Vietnam. We utilise data collected through direct questionnaire surveys and process it through quantitative analysis. The research results indicate that the factors: Financial knowledge, financial attitude, and financial behavior are all positively correlated with the accessibility to DFS of middle-aged people in Vietnam. Based on these findings, the authors make some policy recommendations to relevant agencies to enhance financial literacy and accessibility of middle-aged people to DFS in Vietnam.

Keywords: Financial literacy, DFS, digital economy, middle-aged, Vietnam.

1. Đặt vấn đề

Trong xu hướng số hóa của thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngành dịch vụ tài chính đã có những chuyển biến to lớn với những đổi mới công nghệ trong thanh toán, tín dụng, bảo hiểm, đầu tư (tư vấn tài chính tự động), ngân hàng số, xác thực sinh trắc học/hỗ trợ back-end (điện toán đám mây và dữ liệu lớn) (OECD, 2020). Các dịch vụ tài chính số này mang lại lợi ích cho khách hàng, các tổ chức tài chính và toàn bộ nền kinh tế quốc gia, vì vậy, việc nâng cao khả năng tiếp cận của người tiêu dùng tài chính đối với dịch vụ tài chính số là vô cùng cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Song, dịch vụ tài chính số cũng đặt ra những thách thức không nhỏ trong việc lựa chọn những sản phẩm, dịch vụ phù hợp và đưa ra những quyết định tài chính chính xác. Để làm được điều đó, người tiêu dùng tài chính cần hiểu rõ các sản phẩm, dịch vụ tài chính số trên thị trường bằng cách nâng cao dân trí tài chính của mình. Tuy nhiên, trình độ dân trí tài chính ở Việt Nam lại đang ở mức rất thấp, đặc biệt là so với các quốc gia trong khu vực (Morgan và Trinh, 2019). Trần Thanh Thu và cộng sự (2020) đã chỉ ra rằng, mức quan tâm và dân trí tài chính của người dân Việt Nam thấp hơn so với hầu hết các nước châu Á: Số người có dân trí tài chính chỉ ở mức 24%, nhưng lại có đến 93% người dân Việt Nam lại không có ý định cải thiện điều này.

Người trung niên là nhóm dân số có đóng góp nhiều cho nền kinh tế do họ thường có thu nhập cao hơn, chi tiêu nhiều hơn, tạo ra doanh thu thuế, đóng góp cho các hoạt động xã hội và tạo ra nhu cầu đối với các sản phẩm và dịch vụ nhằm kích thích tăng trưởng việc làm. Về dân trí tài chính, Lursadi và Mitchell (2011) đã chỉ ra rằng, những người trung niên có dân trí tài chính cao hơn người trẻ hay người già. Tuy nhiên, người trung niên thường gặp khó khăn trong việc học và làm quen với công nghệ, từ đó, làm giảm khả năng tiếp cận của họ với dịch vụ tài chính số. Đối với họ, việc nâng cao dân trí tài chính và khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số sẽ giúp họ nhận được những lợi ích mà dịch vụ tài chính số mang lại, đồng thời, bảo vệ bản thân trước những rủi ro trong môi trường tài chính số.

Theo nghiên cứu của Morgan và Trinh (2020), dân trí tài chính có tương quan thuận với khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số của người dân Việt Nam. Vì vậy, việc đo lường mức độ ảnh hưởng của dân trí tài chính đến khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số của người trung niên Việt Nam sẽ góp phần đưa ra được những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao trình độ dân trí tài chính cũng như khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số của người trung niên, tiến đến nâng cao sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc gia.

Để đạt được mục tiêu của bài nghiên cứu này, tại phần 2 của bài viết, nhóm tác giả sẽ giới thiệu cơ sở lí thuyết, tổng quan nghiên cứu về dân trí tài chính và khái quát về khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số. Phần 3, nhóm tác giả sẽ đưa ra phương pháp nghiên cứu, ở đây phương pháp được sử dụng là sự kết hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng để phân tích ảnh hưởng của dân trí tài chính đến khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số. Từ đó, ở phần 4 nhóm tác giả trình bày kết quả nghiên cứu qua phân tích các thống kê mô tả và đưa ra đánh giá tác động của dân trí tài chính đến khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số. Phần 5 là kết luận và hàm ý chính sách được đưa ra dựa trên kết quả phân tích được.

2. Cơ sở lí thuyết và tổng quan nghiên cứu

2.1. Tổng quan về dân trí tài chính


2.1.1. Quan điểm về dân trí tài chính

Dân trí tài chính có những cách định nghĩa khác nhau theo những quan điểm khác nhau (Gerrans và Heaney, 2016; Mabula và Ping, 2018). Với trọng tâm là kiến ​​thức tài chính, OECD (2020) cho rằng: "Một sự kết hợp của nhận thức, kiến ​​thức, kĩ năng, thái độ và hành vi tài chính cần thiết để tạo ra quyết định tài chính có cơ sở và cuối cùng đạt được phúc lợi tài chính cá nhân". Với trọng tâm là sự tự tin khi đưa ra các quyết định tài chính có trách nhiệm, Warmath và Zimmerman (2019) đã định nghĩa “dân trí tài chính là khả năng của một người đưa ra các quyết định tài chính hiệu quả, trong đó “năng lực” đề cập cụ thể đến kiến ​​thức, kĩ năng và sự tự tin vào năng lực bản thân”. Kamiya (2017) nhận xét rằng, định nghĩa ban đầu của dân trí tài chính có nghĩa là “kiến thức tài chính” nhưng định nghĩa mới nhất hiện nay bao gồm hoặc đề cập đến hành vi tài chính của người tiêu dùng, cách họ tương tác với môi trường xã hội và kinh tế. Chúng tôi nhận thấy rằng, khái niệm dân trí tài chính bao gồm một số khía cạnh: Kiến ​​thức tài chính (Kalekye và Memba, 2013; OECD, 2013; Lusardi và Mitchell, 2017; Kuntze và cộng sự 2019, Ward và Linch, 2019); Khả năng đưa ra quyết định tài chính có cơ sở (OECD, 2020); Thái độ đối với việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính (OJK, 2021); Hành vi tài chính (Vieira và cộng sự, 2018).

Do đó, nhóm tác giả cho rằng, dân trí tài chính liên quan nhiều nhất đến khái niệm và kiến thức tài chính, sự hiểu biết những khái niệm và áp dụng chúng trong thế giới thực khi đưa ra quyết định về những lựa chọn khác nhau của các hoạt động tài chính như tiết kiệm và đầu tư. Nhóm tác giả đánh giá dân trí tài chính phụ thuộc vào ba cấu phần cơ bản: Kiến thức tài chính, hành vi tài chính và thái độ tài chính.

2.1.2. Các cấu phần của dân trí tài chính


a) Kiến thức tài chính

Kiến thức tài chính (Financial knowledge - FK) là yếu tố phổ biến nhất trong nhiều định nghĩa, khái niệm về dân trí tài chính. Nhiều nghiên cứu trước đây đã chứng minh tầm quan trọng của kiến thức tài chính, ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ tiếp cận và sử dụng hiệu quả các dịch vụ tài chính. Cụ thể, những người có dân trí tài chính cao hơn có ít khả năng bị lợi dụng hoặc lừa đảo (Andreou và Philip, 2018), ít vay nợ vượt quá khả năng chi trả (Lusardi và Tufano, 2015), lập kế hoạch nghỉ hưu tốt hơn (Maarten van Rooij và cộng sự, 2012), tham gia thường xuyên hơn trên thị trường tài chính (Balloch và cộng sự, 2015) và có lợi nhuận cao hơn trên tài khoản tiết kiệm (Deuflhard và cộng sự, 2018).

b) Thái độ tài chính

Khái niệm về thái độ tài chính (Financial attitude - FA) được định nghĩa là trạng thái tinh thần, quan điểm và thẩm định tài chính. Thái độ tài chính ảnh hưởng đến cách một người quản lí tài chính (Asih và Khafid, 2020), thái độ tài chính định hình cách mọi người tiết kiệm, tích trữ và tiêu tiền (Siswanti và Halida, 2020). Thái độ tài chính hỗ trợ các cá nhân xác định thái độ và hành vi của họ, cả về quản lí tài chính, lập ngân sách tài chính và ra quyết định.

c) Hành vi tài chính

Có nhiều định nghĩa về hành vi tài chính (Financial behavior - FB). Lusardi và cộng sự (2010) cho rằng, hành vi tài chính liên quan đến khả năng của một cá nhân trong việc định hướng tài chính theo kế hoạch với kết quả khả quan. Tezel (2015) mô tả hành vi tài chính là “khả năng nắm bắt tác động của các quyết định tài chính và quyết định chính xác về quản lí tiền mặt, các biện pháp phòng, ngừa và cơ hội cho lập kế hoạch ngân sách”.

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, những người có dân trí tài chính cao có khả năng nhiều hơn tham gia vào các hành vi tài chính, chẳng hạn như như tiền gửi, quỹ tương hỗ và cổ phiếu (Yang và cộng sự, 2022). Ngoài ra, những người có dân trí tài chính cao lập kế hoạch nghỉ hưu thận trọng hơn (Clark và cộng sự, 2017) và đầu tư bền vững (Aydin và cộng sự, 2019). Mặt khác, việc dân trí tài chính thấp có liên quan đến những hạn chế trong hành vi tài chính, chẳng hạn như ít tham gia vào thị trường tài chính (Bucher-Koenen và cộng sự, 2021) và đưa ra các quyết định đầu tư tài chính kém hiệu quả (Lusardi và Mitchell, 2014).

2.2. Khái quát về khả năng sử dụng dịch vụ tài chính số

Theo nghiên cứu của G20/OECD INFE (2017), dịch vụ tài chính số được định nghĩa là những hoạt động tài chính sử dụng công nghệ kĩ thuật số, bao gồm tiền điện tử, dịch vụ tài chính di động, dịch vụ tài chính trực tuyến và ngân hàng số, cho dù là thông qua các tổ chức ngân hàng hay phi ngân hàng. Dịch vụ tài chính số bao gồm các giao dịch tiền tệ cũng như những sản phẩm và dịch vụ tài chính khác bao gồm thanh toán, tín dụng, tiết kiệm, lương hưu, bảo hiểm và cả các dịch vụ phi giao dịch. Từ quan điểm trên, trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về khả năng tiếp cận của người trung niên tại Việt Nam với các dịch vụ tài chính số trong các mảng chính như sau: (i) Thanh toán và chuyển tiền; (ii) Tín dụng; (iii) Tiết kiệm; (iv) Đầu tư; (v) Bảo hiểm và (vi) Thiết lập ngân sách và quản lí tài chính.

Tiếp cận dịch vụ nghĩa là nói đến việc con người tiến tới, nắm bắt được và sử dụng dịch vụ mà mình có nhu cầu, cần thiết cho đời sống của mình một cách hiệu quả nhất, hài lòng nhất. Do đó, khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số là khả năng con người biết đến và sử dụng dịch vụ tài chính số để thỏa mãn nhu cầu, hưởng lợi ích từ điều đó. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số dựa trên hai phương diện: (1) Nhận thức được sự tồn tại của các dịch vụ tài chính số trong các mảng đã đề cập ở phía trên; và (2) Sử dụng các dịch vụ tài chính số đó. Sở dĩ việc đánh giá dựa trên hai phương diện như vậy là vì việc nhận thức sự tồn tại của dịch vụ tài chính số là tiền đề, điều kiện cần cho việc sử dụng dịch vụ tài chính số đó, tuy nhiên, không phải ai có nhận thức về sự tồn tại của dịch vụ tài chính số cũng sẵn sàng sử dụng, bởi vì, điều kiện tài chính, nhu cầu cá nhân, sự hiểu biết về công nghệ và tài chính số, sự hiểu biết về lợi ích mà dịch vụ tài chính số mang lại, mức độ chấp nhận rủi ro khi bắt đầu sử dụng một dịch vụ mới của mỗi người là khác nhau.

2.3. Các nhân tố tác động đến khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số của người trung niên

a) Kiến thức tài chính

Một số nghiên cứu đã phân tích kiến thức tài chính đối với mức độ chấp nhận và sử dụng dịch vụ tài chính số (Königsheim và cộng sự, 2017; Morgan và Trinh, 2019; Shen và cộng sự, 2018). Những phát hiện từ cả Kass-Hanna và cộng sự (2021), Lions và Kass-Hanna (2021) đã nhất quán chỉ ra rằng, kiến thức tài chính và trình độ kĩ thuật số là những yếu tố chính để xây dựng các hành vi tài chính tích cực và an ninh tài chính dài hạn. Mặt khác, việc thiếu kiến thức tài chính kĩ thuật số là mối đe dọa tiềm ẩn đối với nền kinh tế tài chính, bao gồm các cá nhân trong thời đại mới của ngân hàng kĩ thuật số.

b) Thái độ tài chính


Kết quả nghiên cứu của Himawan và Wiyanto (2021) chỉ ra rằng, thái độ tài chính cho thấy tác động tích cực và đáng kể đến sự hài lòng về tài chính, các giải pháp trong việc sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt. Kết quả của một nghiên cứu khác, Putri và Andarini (2022) cho thấy, thái độ tài chính của một người có thể ảnh hưởng đến việc sử dụng Shopee Pay trong quản lí tài chính. Kết quả cho thấy, thái độ tài chính tác động tích cực đến người sử dụng dịch vụ Shopee Pay phục vụ mua trước, trả sau. Foster và Johansyah (2022) cho rằng, thái độ tài chính có tác động tích cực đáng kể đến việc sử dụng tiền điện tử. Như vậy, người có dân trí tài chính và thái độ tài chính có thể khuyến khích họ sử dụng dịch vụ tài chính số như ví kĩ thuật số trong thanh toán.

c) Hành vi tài chính

Một số nghiên cứu đã cố gắng thảo luận về mối quan hệ giữa việc dịch vụ tài chính số và hành vi tài chính. Garrett và cộng sự (2014) phát hiện ra rằng, người tiêu dùng sử dụng thiết bị di động thanh toán có nhiều khả năng mắc nợ chi phí cao, rắc rối với quản lí tài chính, tín dụng xấu, hành vi sử dụng thẻ và dân trí tài chính thấp. Yeo và Fisher (2017) đã điều tra người dùng dịch vụ tài chính trực tuyến bị ảnh hưởng bởi nhận thức kiểm soát hành vi, chủ quan tiêu chuẩn và nhận thức hữu ích.

3. Phương pháp nghiên cứu


Bài nghiên cứu xây dựng bộ thang đo đo lường dân trí tài chính, khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số theo phương pháp định lượng. Trong đó, bộ chỉ số đo lường dân trí tài chính được xây dựng dựa trên bộ câu hỏi của OECD (2015, 2016), nghiên cứu của Rooji và cộng sự (2011), Potrich và cộng sự (2016), Stella và cộng sự (2019), sau đó được hiệu chỉnh cho phù hợp với đối tượng nghiên cứu là người trung niên Việt Nam. Cụ thể, bộ bảng hỏi đầy đủ để đo lường dân trí tài chính gồm bảng hỏi đo lường: Kiến thức tài chính (các hiểu biết, nhận thức về lãi suất, lạm phát, giá trị thời gian của tiền, giá trị thực của tiền, thị trường chứng khoán, các định nghĩa và đánh giá rủi ro…); thái độ tài chính (quan điểm về việc kiểm soát chi tiêu/quản lí tiền, có sẵn sàng hay coi trọng việc đầu tư/tiết kiệm, tuân thủ kế hoạch chi tiêu hay không, thái độ đối với việc trả nợ…); hành vi tài chính (quản lí ngân quỹ, lập kế hoạch chi tiêu/kế hoạch trả nợ/kế hoạch tiết kiệm…). Cụ thể, thang đo kiến thức tài chính bao gồm 10 chi tiết, thang đo thái độ tài chính bao gồm 08 chi tiết và thang đo hành vi tài chính bao gồm 08 chi tiết, công cụ khảo sát được xây dựng dựa trên các chi tiết đo lường khái niệm trong mô hình.

Quá trình phát phiếu khảo sát được thực hiện chủ yếu bằng hình thức online để tiết kiệm thời gian, chi phí, tăng mức độ tiếp cận đến người trung niên, đồng thời cũng rất phù hợp với sự cách biệt về khoảng cách địa lí giữa người thực hiện và đối tượng nghiên cứu. Sau khi kết thúc, tác giả thu thập được 1.117 phiếu trả lời, trải qua quá trình chọn lọc, làm sạch dữ liệu bằng cách loại bỏ những phiếu trả lời không hợp lệ (phiếu chọn duy nhất một cột; hoặc đánh vào câu hỏi bẫy hoặc không phù hợp về các câu hỏi trong phần trả lời). Tổng số phiếu đạt chuẩn để đưa vào các bước phân tích tiếp theo là 1.022 phiếu (chiếm tỉ lệ khoảng 91,5%).

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Kết quả thống kê mô tả mẫu nghiên cứu

Nhóm tác giả đã thực hiện khảo sát trên 1.022 người trung niên trên phạm vi cả nước và thu được kết quả như trong Hình 1.


Hình 1: Kết quả thống kê mô tả mẫu nghiên cứu

Nguồn: Thu thập của nhóm tác giả


Về giới tính của mẫu nghiên cứu không có sự chênh lệch quá cao và tỉ lệ nữ giới tham gia vào khảo sát nhiều hơn nam giới với tỉ lệ tương ứng 56% và 44%. Điều này cũng cho thấy nữ giới có mức độ quan tâm nhất định đối với các vấn đề tài chính.

Về khu vực sinh sống, nhóm tác giả nhận thấy rằng, trong khảo sát số lượng người được hỏi sinh sống ở thành thị lại chiếm đến 77%, gấp ba lần so với nông thôn. Kết quả này có thể lí giải là do việc tiến hành khảo sát chủ yếu là dùng phiếu điện tử nên số người ở thành thị có khả năng tiếp cận sẽ cao hơn so với nông thôn, ngoài ra, những người sống ở thành thị sẽ thường tiếp cận và gần gũi với các vấn đề liên quan đến tài chính hơn so với những người ở nông thôn.

Về tình trạng hôn nhân, do đối tượng của mẫu nghiên cứu là người trung niên nên hai tình trạng hôn nhân phổ biến: Đã kết hôn và có con (69%), đã kết hôn và chưa có con (14%), tiếp theo sau là những người trung niên chưa kết hôn với tỉ lệ 12% và đã li hôn với tỉ lệ 5%.

Về trình độ học vấn, đa số những người tham gia khảo sát đều có trình độ đại học/cao đẳng. Từ đó, có thể đảm bảo rằng, phần đông người được khảo sát đủ chín chắn và có trình độ để đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số một cách khách quan, hạn chế bị ảnh hưởng bởi những yếu tố chủ quan nhất thời.

Về thu nhập, nhóm có thu nhập từ 20 - 30 triệu đồng/tháng có tỉ trọng cao nhất là 35% trong tổng số đối tượng được khảo sát. Đây là mức thu nhập ổn định so với điều kiện và mức sống của nhiều hộ gia đình, phổ biến do năng lực và chuyên môn trong công việc của họ tích lũy tăng dần theo thời gian nên mức thu nhập này là hợp lí.

4.2. Kết quả thống kê mô tả khả năng sử dụng dịch vụ tài chính số (Hình 2)

Hình 2: Kết quả thống kê mô tả khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số

Nguồn: Thu thập của nhóm tác giả


Đối với thống kê về việc người trung niên tại Việt Nam có hoặc không biết đến sản phẩm, dịch vụ tài chính số: Tỉ lệ người trung niên Việt Nam biết tới dịch vụ thanh toán trực tuyến chiếm số lượng áp đảo (95%) bởi dưới sự tác động của đại dịch Covid-19, Chính phủ đã có những biện pháp đẩy mạnh tuyên truyền việc thanh toán trực tuyến và các dịch vụ tài chính số khác tại Việt Nam. Tuy nhiên, với các dịch vụ như tín dụng, đầu tư, bảo hiểm và đặc biệt là thiết lập và quản lí ngân sách chiếm tỉ trọng khá thấp do đây không phải những dịch vụ hiện hữu quá nhiều trong cuộc sống.

Đối với thống kê việc người trung niên tại Việt Nam đã biết đến dịch vụ tài chính số nhưng có hoặc không sử dụng dịch vụ tài chính số đó: Tỉ trọng người sử dụng dịch vụ thanh toán trực tuyến rất cao (92%) cho thấy dịch vụ này đang rất được nhiều người trọng dụng trong cuộc sống hằng ngày. Bởi vì, để thỏa mãn được các nhu cầu của mình, người sử dụng bắt buộc phải thực hiện thanh toán để mua sắm hoặc sử dụng dịch vụ. Đối với các dịch vụ khác như tiết kiệm trực tuyến, tín dụng trực tuyến, bảo hiểm trực tuyến, đầu tư trực tuyến, thiết lập và quản lí ngân sách... đây không phải là những nhu cầu bắt buộc cần có trong cuộc sống, nên khi người trung niên biết tới các dịch vụ này thì số lượng người lựa chọn sử dụng không thể chiếm được tỉ trọng áp đảo như thanh toán trực tuyến.

4.3. Đánh giá độ tin cậy của các thang đo

Sau khi thực hiện các bước phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) nhằm kiểm định độ tin cậy của các thang đo và loại bỏ những biến quan sát có hệ số tải không đạt tiêu chuẩn, nhóm tác giả thu được các nhóm nhân tố với các biến quan sát như trong Bảng 1, 2.

Bảng 1: Tổng hợp các nhóm nhân tố

Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả


Bảng 2: Kết quả phân tích độ tin cậy và giá trị hội tụ

Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả

Các nhân tố đều có hệ số tin cậy tổng hợp đạt yêu cầu (CR > 0,5). Các biến quan sát đồng hướng đo một nhân tố tiềm ẩn và đại diện duy nhất cho một nhân tố tiềm ẩn đó.

Các hệ số AVE đều cao hơn 0,5 cho thấy, các nhân tố đạt yêu cầu về độ hội tụ. Khi phân tích đối với 06 nhân tố trên, các giá trị MSV đều nhỏ hơn giá trị AVE tương ứng cho thấy các nhân tố đạt giá trị phân biệt.

4.4. Đánh giá tác động của dân trí tài chính đến khả năng sử dụng dịch vụ tài chính số (Hình 3, Bảng 3)

Hình 3: Mô hình cấu trúc tuyến tính SEM

Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả


Bảng 3: Hệ số mô hình cấu trúc

Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả

Theo kết quả phân tích SEM (Structural Equation Modeling), tất cả các cấu phần của dân trí tài chính đều có hệ số P-value < 0,05, cho thấy, với độ tin cậy 95%, các cấu phần này đều có tác động đến khả năng tiếp cận cả 02 nhóm dịch vụ tài chính số (trong đó, nhóm TC_1 bao gồm khả năng tiếp cận các dịch vụ thanh toán, tiết kiệm và tín dụng; nhóm TC_2 bao gồm khả năng tiếp cận các dịch vụ bảo hiểm, đầu tư, thiết lập ngân sách và quản lí tài chính).

Về cấu phần kiến thức tài chính


Hệ số hồi quy chuẩn hóa của FK_CB đặt trong tương quan với TC_1 là 0,266. Điều này cho thấy, bất kì sự gia tăng nào trong kiến thức tài chính sẽ dẫn đến sự gia tăng trong khả năng tiếp cận dịch vụ thanh toán, tiết kiệm và tín dụng. Tương tự, hệ số hồi quy chuẩn hóa giữa FK_CB đối với TC_2 là 0,157. Qua đó, nhóm tác giả đưa ra nhận định, kiến thức tài chính cơ bản có quan hệ cùng chiều với khả năng tiếp cận các dịch vụ bảo hiểm, đầu tư và quản lí tài chính. FK_NC đặt trong tương quan với TC_1 và TC_2 đều có hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,259 cho thấy, kiến thức tài chính nâng cao có tương quan thuận với khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số.

Mối quan hệ thuận chiều giữa kiến thức tài chính và khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số của người trung niên có thể lí giải là do, khi nâng cao kiến thức tài chính của người trung niên, họ sẽ hình thành sự chủ động tìm hiểu về các dịch vụ tài chính, từ đó, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số. Mang trách nhiệm của người quản lí tài chính, họ cần trang bị kiến thức về các sản phẩm và dịch vụ tài chính để đảm bảo an ninh tài chính trong xu hướng số hóa và bối cảnh phát triển nhanh chóng của dịch vụ tài chính số. Có kiến thức tài chính tốt sẽ làm tăng mức độ sẵn sàng và tự tin của đối tượng trung niên để chấp nhận và sử dụng dịch vụ tài chính số.

Về cấu phần thái độ tài chính

Mức độ ảnh hưởng của FA đối với TC_1 là 0,012, nghĩa là bất kì sự gia tăng nào trong thái độ tài chính cũng sẽ dẫn đến sự gia tăng trong khả năng tiếp cận dịch vụ thanh toán, tiết kiệm và tín dụng. FA cũng có quan hệ cùng chiều với TC_2 với hệ số hồi quy chuẩn hoá là 0,140. Có thể thấy rằng, nếu thái độ tài chính của người trung niên trở nên tốt hơn thì họ sẽ hình thành sự tự nhận thức về các dịch vụ tài chính, từ đó, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số.

Khi một người có thái độ tài chính tốt sẽ dẫn đến những hành vi tài chính phù hợp và đúng đắn, từ đó, các cơ hội tài chính sẽ được mở rộng và đến gần hơn khả năng tiếp cận với các dịch vụ tài chính số.

Thái độ tài chính có ảnh hưởng đến cách ai đó điều chỉnh hành vi tài chính của mình, từ đó, tạo nên sự ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số. Đặc biệt là đối tượng người trung niên, hầu hết đều đã trang bị cho mình một kiến thức tài chính nhất định và từ kiến thức đó hình thành nên thái độ đối với tài chính, dần dần họ chủ động tham gia vào các dịch vụ tài chính và từ đó, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính số.

Về cấu phần hành vi tài chính

FB có hệ số hồi quy chuẩn hóa bằng 0,175 trong mối tương quan với TC_1 cho thấy, đây là một mối quan hệ thuận chiều, cụ thể khi FB tăng 1 đơn vị sẽ làm TC_1 tăng lên 0,175 đơn vị. Từ đó, có thể nhận định rằng, hành vi tài chính là một nhân tố thúc đẩy tăng khả năng tiếp cận dịch vụ thanh toán, tiết kiệm, tín dụng. Trong mối quan hệ với TC_2, hệ số hồi quy chuẩn hóa của FB là 0,145, cho thấy hành vi tài chính có tác động tích cực lên khả năng tiếp cận dịch vụ bảo hiểm, đầu tư, thiết lập ngân sách và quản lí tài chính. Khi FB tăng thêm 1 đơn vị sẽ làm TC_2 tăng 0,145 đơn vị.

Đi cùng với sự lớn mạnh của hệ thống tài chính, sự phát triển của công nghệ, hành vi tài chính ngày càng được hoàn thiện, sự nhạy cảm của người trung niên với những thay đổi của nền kinh tế cũng tăng lên, từ đó, phản ứng nhanh hơn với sự thay đổi của các dịch vụ tài chính số. Do đó, khi hành vi tài chính của người trung niên ngày càng tốt hơn thì họ càng có nhiều cơ hội để tiếp cận các dịch vụ tài chính số đa dạng cũng như sâu, rộng hơn.

5. Kết luận và hàm ý chính sách


Hiện nay, vấn đề về dân trí tài chính vẫn còn khá mới mẻ đối với người dân Việt Nam, đặc biệt là đối với người trung niên, những kiến thức mới đã khó tiếp cận, thêm nữa, khả năng học hỏi của họ cũng hạn chế hơn rất nhiều so với thế hệ trẻ nên việc đưa ra định hướng nhằm nâng cao dân trí tài chính gặp nhiều khó khăn. Đối với nền kinh tế đang phát triển cũng như sự lớn mạnh về công nghệ đã sản sinh ra nhiều dịch vụ tài chính số trên thị trường. Việc hạn chế về dân trí tài chính ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính số của người trung niên Việt Nam hiện nay. Dựa vào thực trạng như trên, nhóm tác giả nhận định cần có các giải pháp nâng cao dân trí tài chính song song với việc phổ cập các dịch vụ tài chính số trực tiếp đến người tiêu dùng, cho họ có trải nghiệm thực tế. Việc được thực hành sẽ có tác dụng hơn rất nhiều lần so với việc chỉ được học qua lí thuyết hay nghe tuyên truyền.

Các chương trình để nâng cao dân trí tài chính song song với trải nghiệm thực tế cần có sự linh hoạt, phải theo dõi và thay đổi kịp thời để phù hợp với khả năng tiếp thu của từng đối tượng. Thông tin từ các chương trình nâng cao dân trí tài chính nên lấy từ những nguồn chính thống, dễ nhận biết để mọi người đều có thể nắm bắt và tìm kiếm dễ dàng. Việc đơn giản hóa cách truyền đạt và chuẩn hóa khung lí thuyết sẽ giúp người trung niên dễ dàng tiếp thu các kiến thức này tốt hơn.

Nhà nước và chính quyền địa phương nên tạo điều kiện để những dịch vụ tài chính số được triển khai rộng rãi trên địa bàn của mình. Bên cạnh đó là những chính sách để khuyến khích người trung niên có trình độ học vấn chưa cao có thể tích cực củng cố và nâng cao dân trí tài chính. Ngoài ra, những chính sách nhằm hỗ trợ người trung niên có thể dễ dàng sở hữu các thiết bị điện tử, kích thích khả năng tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ tài chính số, qua đó cũng gián tiếp nâng cao mức sống cho người dân, phát triển kinh tế địa phương.

Tài liệu tham khảo:

1. Andreou & Philip (2018) ‘Financial knowledge among university students and implications for personal debt and fraudulent investments’, Cyprus Economic Policy Review, Vol. 12, No. 2, pages 3-23.

2. Asih & Khafid (2020), ‘Pengaruh Financial Knowledge, Financial Attitude dan Income terhadap Personal Financial Management Behavior melalui Locus Of Control sebagai Variabel Intervening’, Economic Education Analisis Journal Terakreditasi SINTA 5, EEAJ 9 (3).

3. Bucher - Koenen Tabea, Rob J. Alessie, Annamaria Lusardi & Maarten van Rooij (2021), ‘Fearless Woman: Financial Literacy and Stock Market Participation’, NBER Working Paper, No. 28723.

4. Clark, R., Lusadi A., Mitchel O. L., (2017), ‘Employee Financial Literacy and Retirement Plan Behavior: A Case Study’, Nber working paper series, No. 21461.

5. Foster & Johansyah (2022), ‘Analysis of the Effect of Financial Literacy, Practicality, and Consumer Lifestyle on the Use of Chip-Based Electronic Money Using SEM’, Sustainability 2022, 14(1), page 32; https://doi.org/10.3390/su14010032

6. Garrett Jamie Linn, Robert Rodermund, NaRita Anderson, Sara Berkowitz, Cliff A. Robb (2014), ‘Adoption of Mobile Payment Technology by Consumers’, Family and Consumer Sciences Research Journal, 42(2), pages 358-368.

7. Himawan & Wiyanto (2021), ‘Pengaruh financial literacy dan financial attitude terhadap financial satisfaction’, Jurnal Manajerial dan Kewirausahaan, 3(2), pages 417-425.

8. Kalekye & Memba (2013), ‘The Role of Financial Literacy on the Profitability of Women Owned Enterprises in Kitui Town, Kitui County, Kenya’, International Journal of Science and Research (IJSR).

9. Lursadi & Mitchell (2011), ‘Financial literacy around the world: An overview’, NBER Working Paper No. 17107.

10. OECD (2013), Improving Financial Education Effectiveness through Behavioural Economics: OECD Key Findings and Way Forward.

11. OECD (2017), G20/OECD INFE Report on ensuring financial education and consumer protection for all in the digital age.

12. OECD (2020), ‘Financial Consumer Protection Policy Approaches in the Digital Age: Protecting consumers’ assets, data and privacy’, https://www.oecd.org/finance/Financial-Consumer-Protection-Policy-Approaches-in-the-Digital-Age.pdf

13. Peter J. Morgan & Long Q. Trinh (2019), ‘Determinants and Impacts of Financial Literacy in Cambodia and Vietnam’, Journal of Risk and Financial Management. ADBI Working Paper Series, No.754 June 2017.

14. Putri & Andarini (2022), ‘Pengaruh self control dan financial attitude terhadap financial management behavior pengguna layanan buy now pay later’, JEAM, 21(1), pages 60 -74.

15. Siswanti & Halida (2020), ‘Financial knowledge, financial attitude, and financial management behavior: self–control as mediating’, The International Journal of Accounting and Business Society, 28(1), pages

105 - 124.

16. Trần Thanh Thu, Đào Hồng Nhung (2020), ‘Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hóa ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam’, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, 221, trang

71 - 84.

17. Warmath, D., & Zimmerman, D. (2019). ‘Financial literacy as more than knowledge: The development of a formative scale through the lens of Bloom’s domains of knowledge’. Journal of Consumer Affairs, 53(4), pages 1602 - 1629.

18. Yeo & Fisher (2017), ‘Mobile Financial Technology and Consumers’ Financial Capability in the United States’, Journal of Education & Social Policy, ISSN 2375-0782.


TS. Khúc Thế Anh, Huỳnh Anh Thư (Viện Ngân hàng Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)

ThS., NCS. Trần Tuấn Vinh (Khoa Kế hoạch Phát triển, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng -  Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng - Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Thẻ tín dụng ngày càng phổ biến khiến các ngân hàng thương mại đối mặt với rủi ro nợ xấu và kiểm soát chi tiêu. Bài viết phân tích kinh nghiệm quốc tế để rút ra bài học giúp NHTM Việt Nam xây dựng chính sách tín dụng an toàn và ứng dụng công nghệ kiểm soát rủi ro hiệu quả.
Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Tín dụng xanh là một trong những trụ cột quan trọng của hệ thống tài chính xanh. Thời gian qua, Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đang thúc đẩy phát triển tín dụng xanh. Tuy được ghi nhận có sự tăng trưởng đều qua các năm nhưng số lượng lĩnh vực đầu tư xanh cũng như tỉ trọng còn hạn chế. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan, cần có nghiên cứu chuyên sâu về phát triển tín dụng xanh tại Việt Nam.
Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Mục đích của nghiên cứu là cung cấp cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 78 doanh nghiệp trong giai đoạn 2019 - 2023. Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính trên phần mềm Stata 17, kết quả cho thấy các yếu tố như kiểm soát nội bộ, khả năng sinh lời, vốn trí tuệ, đòn bẩy tài chính và chất lượng kiểm toán độc lập có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp này, từ đó nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị cụ thể giúp các doanh nghiệp nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý thông tin tài chính, đồng thời, cung cấp góc nhìn hữu ích dành cho các nhà đầu tư, giúp họ có cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Phân tích báo cáo tài chính cung cấp thông tin rõ ràng về tình hình tài chính, vốn và công nợ của doanh nghiệp, giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định điều hành và đầu tư chính xác. Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các chỉ số tài chính của nhóm doanh nghiệp có nguy cơ phá sản và nhóm doanh nghiệp không có nguy cơ phá sản. Các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản thường có chỉ số tài chính không ổn định (quá cao hoặc quá thấp) so với các doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Những năm gần đây, với sự chuyển đổi số mạnh mẽ và sự phát triển không ngừng của các công nghệ tiên tiến, việc đo lường mức độ chấp nhận và sử dụng công nghệ mới của người dùng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sự sẵn sàng áp dụng công nghệ của một cá nhân sẽ phản ánh khuynh hướng chấp nhận công nghệ của họ trong các hoạt động thường ngày. Để đánh giá chính xác xu hướng này, Chỉ số sẵn sàng công nghệ đã trở thành một công cụ hữu ích, giúp đo lường tâm lý, thái độ và hành vi của người dùng đối với các ứng dụng công nghệ. Từ đó, doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về mức độ sẵn sàng áp dụng công nghệ của các đối tượng mục tiêu, cũng như dự báo xu hướng phát triển của thị trường.
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Để đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng, nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng kết hợp với định tính. Quy trình nghiên cứu được thực hiện theo các bước: Thống kê mô tả, đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy tuyến tính bội và kiểm định giả thuyết. Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc gửi phiếu khảo sát dưới hình thức online đến sinh viên các trường đại học.
Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp phải nhiều bất cập do những hạn chế về pháp lý, thủ tục hành chính phức tạp, thời hạn sử dụng đất ngắn và thiếu sự minh bạch trong quản lý đất đai. Các rào cản này không chỉ làm giảm sức hút của môi trường đầu tư Việt Nam mà còn cản trở sự phát triển bền vững của các dự án FDI. Để nâng cao hiệu quả quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp...
Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng mang lại nhiều lợi ích vượt trội, góp phần hiện đại hóa hoạt động, nâng cao trải nghiệm khách hàng và bảo đảm an toàn giao dịch. Các công nghệ sinh trắc học phổ biến như nhận diện khuôn mặt, quét vân tay, mống mắt hay xác thực giọng nói... không chỉ cải thiện quy trình vận hành mà còn gia tăng mức độ tin cậy trong các giao dịch tài chính.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc