Hoạt động truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Hoạt động ngân hàng
Truyền thông chính sách là công cụ góp phần thực hiện các mục tiêu điều hành chính sách, nhất là các chính sách mới, thay đổi thói quen, bảo vệ người tiêu dùng, nâng cao niềm tin công chúng với việc điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số.
aa

Truyền thông chính sách là công cụ góp phần thực hiện các mục tiêu điều hành chính sách, nhất là các chính sách mới, thay đổi thói quen, bảo vệ người tiêu dùng, nâng cao niềm tin công chúng với việc điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số. Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số (Digital transformation) góp mặt trong tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống nói chung và ngân hàng nói riêng. Tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, tài chính - ngân hàng được xác định là lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan hàng ngày tới người dân, thay đổi nhận thức nhanh nhất, mang lại hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí cần ưu tiên chuyển đổi số trước. Trong bối cảnh đó, hoạt động truyền thông của ngành Ngân hàng cần có sự đổi mới về nội dung và hình thức truyền thông để đạt hiệu quả truyền thông chính sách, góp phần phục vụ chuyển đổi số trên nguyên tắc tiết kiệm chi phí, giảm thiểu rủi ro đối với người dân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tài chính, ngân hàng.


Bà Lê Thị Thúy Sen, Vụ trưởng Vụ Truyền thông, NHNN giải đáp câu hỏi của chương trình "Tiền khéo , tiền khôn" phát sóng trên VTV​

1. Nội dung truyền thông: Vấn đề người dân, doanh nghiệp quan tâm

“Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ký ban hành vào ngày 11/5/2021 nhằm cụ thể hóa và triển khai các Nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, xác định rõ định hướng, kế hoạch triển khai của ngành Ngân hàng trong xu thế chuyển đổi số.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) là đơn vị cung ứng dịch vụ phục vụ người dân, doanh nghiệp, phục vụ khách hàng. Bởi vậy, kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng được xây dựng và tiếp cận theo hướng đặt người dân, khách hàng ở vị trí trung tâm. Mục tiêu lớn nhất của chuyển đổi số ngành Ngân hàng là phục vụ tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp bằng việc nâng cao chất lượng cung ứng sản phẩm, dịch vụ, gia tăng trải nghiệm và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Hoạt động truyền thông của Ngành cần bám sát nguyên tắc đặt người dân và doanh nghiệp ở vị trí trung tâm trong việc cung cấp thông tin.

Là một trong số các lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi số trước theo Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, lĩnh vực ngân hàng cần hướng tới việc cung cấp dịch vụ ngân hàng số theo hướng phát triển đa dạng các kênh phân phối, đổi mới sáng tạo, tự động hóa quy trình, thúc đẩy hợp tác với các công ty công nghệ tài chính (Fintech) và trung gian thanh toán trong việc xây dựng hệ sinh thái dịch vụ tài chính - ngân hàng để thúc đẩy phổ cập tài chính quốc gia, đưa dịch vụ tài chính - ngân hàng đến gần hơn những đối tượng vùng sâu, vùng xa chưa có khả năng tiếp cận hoặc chưa được ngân hàng phục vụ dựa vào sự đổi mới sáng tạo của công nghệ như thanh toán di động, cho vay ngang hàng. Bên cạnh đó, Quyết định số 749/QĐ-TTg cũng đặt ra yêu cầu ngành Ngân hàng cần hỗ trợ khả năng tiếp cận vốn vay nhờ các giải pháp chấm điểm tín dụng với kho dữ liệu khách hàng và mô hình chấm điểm đáng tin cậy.

Hiện nay, nhằm gia tăng tiện ích cho người dân, doanh nghiệp khi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, các ngân hàng đều ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ mới trong hoạt động và cung ứng dịch vụ thay thế cho những mô hình truyền thống. 95% các ngân hàng đã, đang xây dựng chiến lược, thực hiện triển khai chuyển đổi số, trong đó, 88% các ngân hàng đều có kế hoạch số hóa toàn bộ sản phẩm, dịch vụ từ kênh giao tiếp khách hàng đến quản trị nghiệp vụ nội bộ.

Một số ngân hàng đã thực hiện số hóa hoàn toàn các nghiệp vụ như gửi tiết kiệm online, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ngân hàng trực tuyến, ví điện tử, mở tài khoản và nhận biết khách hàng bằng phương thức điện tử eKYC, Mobile Banking, Internet Banking, chuyển tiền trực tuyến... Theo đó, khách hàng có thể thao tác 100% thông qua các kênh điện tử, truy cập và thực hiện 24/7.

Với hoạt động cho vay, nhờ ứng dụng các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML) và dữ liệu lớn (Big Data)..., việc đánh giá, phân loại khách hàng, quyết định giải ngân được đơn giản hóa thủ tục và rút ngắn thời gian giải ngân, cho vay.

Hiện nay, cơ sở hạ tầng, hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking) và công nghệ được các ngân hàng chú trọng đầu tư, nâng cấp nhằm đảm bảo hoạt động ổn định, an toàn dữ liệu, giảm thiểu rủi ro hệ thống cũng như đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ trên nền tảng số. Hạ tầng thanh toán, thông tin tín dụng ngành Ngân hàng hoạt động thông suốt, an toàn đảm bảo sự kết nối liên thông giữa các TCTD.

Trong bối cảnh đó, hoạt động truyền thông cung cấp thông tin đến công chúng để thay đổi nhận thức và nâng cao khả năng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ứng dụng công nghệ hiện đại, mang đến những tiện ích và trải nghiệm mới cho khách hàng.

Trước hết, truyền thông phải giúp công chúng hiểu được về mục tiêu của việc chuyển đổi số ngành Ngân hàng, các chủ trương, định hướng chính sách của Chính phủ, ngành Ngân hàng về thúc đẩy chuyển đổi số, các sản phẩm, dịch vụ chuyển đổi số của ngành Ngân hàng, việc chuyển đổi số ngành Ngân hàng với nguyên tắc lợi ích, tiện ích người dân, doanh nghiệp được đặt ở vị trí trung tâm... Bên cạnh đó, bản thân hoạt động truyền thông cũng phải chuyển đổi số để có thể nhanh chóng hội nhập với xu thế này.

Nội dung truyền thông được xây dựng trên cơ sở những vấn đề người dân và doanh nghiệp quan tâm, trong đó đặc biệt tập trung vào những chính sách, quy trình, kỹ năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ vay vốn, gửi tiết kiệm, thanh toán.

Ví dụ đối với dịch vụ vay vốn, ngành Ngân hàng tập trung truyền thông về các chủ trương, định hướng tín dụng trong tình hình hiện nay, tín dụng lĩnh vực ưu tiên, tín dụng hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, tín dụng chính sách... Đồng thời, NHNN chỉ đạo các TCTD tăng cường truyền thông về các sản phẩm cho vay, các chương trình tín dụng minh bạch lãi suất, quy trình, thủ tục tiếp cận vốn... Các TCTD còn tập trung truyền thông về ứng dụng chuyển đổi số trong việc cho vay vốn như các quy trình thủ tục vay trực tuyến, giải ngân...

Hoặc đối với lĩnh vực tiết kiệm, ngành Ngân hàng tập trung truyền thông về các quy định của NHNN về gửi tiết kiệm, đặc biệt là trách nhiệm của các tổ chức nhận tiền gửi như bắt buộc phải cung cấp biện pháp thông báo biến động số dư tiền gửi đến khách hàng, cấm nhận tiền gửi của khách hàng ngoài các địa điểm và phương thức hợp pháp, quy định về tính lãi suất... Hoặc tăng cường truyền thông về những nội dung cần lưu ý khách hàng để hạn chế rủi ro khi gửi tiết kiệm như không nên nhờ người khác gửi tiết kiệm hộ, cho người khác mượn sổ tiết kiệm, ký khống giấy tờ ngân hàng... Trong bối cảnh chuyển đổi số, nhiều TCTD đã ứng dụng các hình thức gửi tiết kiệm trực tuyến, các TCTD cần truyền thông hướng dẫn quy trình, cách gửi tiết kiệm đảm bảo an toàn và đúng quy định...

Đối với lĩnh vực thanh toán, chuyển đổi số ngành Ngân hàng thể hiện rõ nét nhất trong lĩnh vực thanh toán. Đây là lĩnh vực người dân và doanh nghiệp rất quan tâm. Truyền thông xác định trách nhiệm góp phần thay đổi thói quen, hành vi của người sử dụng dịch vụ ngân hàng để góp phần thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. Nội dung truyền thông tập trung vào một số vấn đề như lợi ích của thanh toán không dùng tiền mặt, cách sử dụng Internet Banking, Mobile Banking, thanh toán bằng QR Code, thanh toán các dịch vụ công qua ngân hàng, các ngân hàng miễn phí dịch vụ thanh toán qua ngân hàng như thế nào, những lưu ý cần tránh khi thực hiện thanh toán trực tuyến như không cho người khác mật khẩu, mã OTP, không nên bấm vào đường link lạ...

Đối với các chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19: Ngành Ngân hàng chú trọng truyền thông về chủ trương, chính sách hỗ trợ như chính sách hoãn, giãn nợ, miễn giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ; các quy trình, thủ tục để tiếp cận chính sách... Hoặc hiện nay, ngành Ngân hàng đẩy mạnh truyền thông về gói hỗ trợ 2% lãi suất, trong đó làm rõ bản chất nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, thời gian hỗ trợ từ ngày 01/01/2022, đối tượng, phạm vi, quy trình hỗ trợ ra sao để người dân và doanh nghiệp nắm bắt chính sách.


Các thông tin tài chính - ngân hàng được truyền tải sinh động, hấp dẫn qua chương trình "Tay hòm chìa khóa"

2. Hình thức truyền thông: Đơn giản - dễ nhớ - dễ hiểu - dễ áp dụng

Nguyên tắc truyền thông của ngành Ngân hàng với trọng tâm là những nội dung người dân và doanh nghiệp quan tâm. Trên cơ sở đó, các hình thức truyền thông được lựa chọn phải mang tính chất phổ cập, đơn giản hóa tối đa các thuật ngữ chuyên môn thành ngôn ngữ thông thường, dễ hiểu của cuộc sống, hạn chế sử dụng thuật ngữ chuyên môn sâu. Thực tế, lĩnh vực ngân hàng có những thuật ngữ mang tính chuyên môn như lãi suất qua đêm, “room” tín dụng, tỷ lệ CASA, tỷ giá trung tâm, thị trường vốn cấp 1, thị trường vốn cấp 2... Tùy từng bối cảnh, ngôn ngữ chuyên môn cần được sử dụng phù hợp. Khi truyền thông mang tính phổ cập đến công chúng, ngành Ngân hàng sẽ lựa chọn hình thức thể hiện ngôn ngữ phù hợp với đa số công chúng.

Đồng thời, trong bối cảnh chuyển đổi số và xu hướng tiếp cận thông tin hiện nay, ngành Ngân hàng đã lựa chọn các hình thức truyền thông thu hút nhiều công chúng và hấp dẫn, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ áp dụng. Ví dụ, ngành Ngân hàng đã phối hợp với các cơ quan truyền thông liên quan thực hiện những chương trình truyền thông với hình thức phong phú, sáng tạo và dễ tiếp cận thông tin, trực quan sinh động như chương trình “Tiền khéo, tiền khôn”, “Tay hòm chìa khóa”, “Đồng tiền thông thái” trên VTV hoặc những chuyên mục hỏi đáp chính sách trên các báo và phối hợp với các cơ sở đào tạo tổ chức các cuộc thi về kiến thức về tài chính và sử dụng dịch vụ ngân hàng như chương trình cho trẻ em hoặc học sinh phổ thông, sinh viên như “Những đứa trẻ thông thái” hay “Hiểu đúng về tiền”...

3. Truyền thông: Cần dựa trên cơ sở dữ liệu, khảo sát, đánh giá

Bên cạnh việc bám sát các chủ trương, định hướng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ liên quan đến lĩnh vực ngân hàng và các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong từng giai đoạn, hoạt động truyền thông của ngành Ngân hàng cần dựa trên cơ sở khảo sát, đánh giá các vấn đề công chúng quan tâm. Trong bối cảnh chuyển đổi số của Ngành, để đưa ra các chương trình truyền thông với nội dung và hình thức phù hợp, cần dựa trên căn cứ dữ liệu khảo sát. Việc khảo sát được thực hiện để xác định truyền thông đúng và trúng với từng nhóm công chúng mục tiêu và nội dung, hình thức, các phương tiện truyền thông phù hợp với từng giai đoạn, từng nhóm công chúng cụ thể.

Thời gian qua, Vụ Truyền thông, NHNN đã phối hợp với Học viện Ngân hàng tiến hành khảo sát về hoạt động truyền thông trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng và giáo dục tài chính. Nội dung khảo sát về các vấn đề liên quan đến hoạt động điều hành chính sách tiền tệ và dịch vụ ngân hàng như tỷ giá, lãi suất, tín dụng, thanh toán... Kết quả khảo sát hơn 4.600 mẫu cho thấy, kênh thông tin về tiền tệ ngân hàng được tiếp cận nhiều nhất là Internet và mạng xã hội, tiếp đến là kênh truyền hình. Ngoài ra, có hơn 2.200 người được khảo sát gợi ý các chương trình truyền thông ngành Ngân hàng thời gian tới nên tập trung vào các phương thức như: Truyền thông qua mạng xã hội, truyền hình trực tuyến, radio, kết hợp các chương trình giải trí, tổ chức gameshow tại các trường học... Nội dung người được khảo sát quan tâm nhất là lãi suất, các sản phẩm cho vay của các ngân hàng, hướng dẫn và lưu ý các hình thức thanh toán trực tuyến. Cùng với việc đánh giá hiệu quả các chương trình truyền thông theo phương thức độ phủ thông tin trước - trong - sau khi thực hiện các chương trình truyền thông, NHNN sẽ có giải pháp truyền thông phù hợp với mục tiêu đặt ra.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá kết quả khảo sát kết hợp đánh giá hiệu quả, hạn chế, tồn tại của những chương trình, hình thức truyền thông, trong thời gian tới, NHNN sẽ xây dựng kế hoạch truyền thông cụ thể trong bối cảnh chuyển đổi số. Trong đó, bên cạnh duy trì các hình thức truyền thông đã và đang làm hiện nay, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục có sự đổi mới về hình thức và nội dung truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ. Theo đó, ngành Ngân hàng sẽ đẩy mạnh truyền thông trên các nền tảng công nghệ số, mạng xã hội, đa dạng hóa cách truyền thông để thông tin cần truyền tải đến với người dân và doanh nghiệp thuận lợi nhất.

Đồng thời, góp phần thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán dịch vụ công qua ngân hàng và tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân nhất là đồng bào vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, NHNN tiếp tục nghiên cứu và đổi mới các hình thức truyền thông phù hợp hơn nữa. Trước mắt, NHNN ứng dụng chuyển đổi số hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng thông qua đổi mới Cổng thông tin điện tử NHNN - kênh thông tin chính thống của NHNN, kịp thời cung cấp thông tin cho công chúng về chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, quyết định điều hành của NHNN và tình hình hoạt động ngân hàng. Đồng thời, NHNN sẽ ứng dụng công nghệ hiện đại để kết nối truyền thông từ NHNN Trung ương đến Chi nhánh NHNN trên toàn quốc để thông tin được kết nối kịp thời và thông suốt, cung cấp kịp thời các vấn đề dư luận quan tâm.

Đối với các chương trình truyền thông giáo dục tài chính, NHNN truyền thông không chỉ thông qua các chương trình truyền hình mà còn được lan tỏa rộng rãi trên mạng xã hội, đăng tải trên Youtube và tương tác với công chúng trên các trang Fanpage của chương trình để gia tăng hiệu quả...

Bên cạnh đó, NHNN sẽ có giải pháp đào tạo nguồn nhân lực về truyền thông đáp ứng yêu cầu về kiến thức, công nghệ để thực hiện truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số.

Để đạt được hiệu quả truyền thông trong môi trường chuyển đổi số của ngành Ngân hàng, hoạt động truyền thông còn rất nhiều việc phải làm. NHNN tiếp tục thực hiện nghiên cứu xu hướng truyền thông hiện đại, khảo sát đánh giá truyền thông theo nhóm công chúng, nội dung, hình thức truyền thông gắn với mục tiêu truyền thông trong từng thời kỳ và kinh nghiệm của ngân hàng trung ương các nước trên thế giới. Nguyên tắc truyền thông nhất quán đảm bảo cung cấp được những thông tin người dân, doanh nghiệp quan tâm và thực hiện được mục tiêu truyền thông chính sách, nhất là các chính sách mới để góp phần hỗ trợ điều hành chính sách, tạo cộng đồng có thói quen tài chính tốt, củng cố và duy trì niềm tin công chúng với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

ThS. Lê Thị Thúy Sen

Vụ trưởng Vụ Truyền thông, NHNN


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong thời gian qua, việc triển khai tín dụng xanh ở Việt Nam, dù đã có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Để tín dụng xanh thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh; tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng về công tác thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) - mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là dịp ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường và khát vọng vươn lên của dân tộc, mà còn là thời điểm nhìn lại chặng đường phát triển của các ngành, lĩnh vực then chốt, trong đó có ngành Ngân hàng.
Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Xem thêm
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô