Hoạt động thanh toán biên mậu Việt Nam - Trung Quốc, thực trạng và định hướng quản lý trong bối cảnh mới

Nghiên cứu - Trao đổi
Thương mại biên giới giữa Việt Nam và các nước có chung biên giới trong những năm gần đây đã có bước phát triển mạnh mẽ và dần trở thành đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn c...
aa

Thương mại biên giới giữa Việt Nam và các nước có chung biên giới trong những năm gần đây đã có bước phát triển mạnh mẽ và dần trở thành đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn các tỉnh biên giới; trong đó, tuyến biên giới Việt - Trung chiếm khoảng 85% tổng kim ngạch thương mại biên giới.


Với quan hệ láng giềng lâu đời, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại song phương, đặc biệt là các chính sách thúc đẩy thương mại biên giới. Từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc liên tục giữ vị trí đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Kim ngạch thương mại giữa hai nước tăng trưởng mạnh, chiếm khoảng trên 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Kim ngạch thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc tăng trưởng cùng với quy mô hoạt động thương mại song phương, chiếm tỷ lệ từ 9 - 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước.

Một trong những chính sách quan trọng hỗ trợ hoạt động thương mại biên giới được triển khai thực hiện tích cực trong thời gian qua đó là hoạt động thanh toán. Đây là hoạt động không thể thiếu đối với thương mại nói chung và thương mại biên giới nói riêng; chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) luôn chủ động, tích cực trong công tác quản lý hoạt động thanh toán biên mậu nhằm mục đích phù hợp yêu cầu thực tiễn nhưng vẫn đảm bảo đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước.

1. Chính sách quản lý ngoại hối đối với thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc là chính sách cần thiết và hỗ trợ tích cực cho hoạt động thương mại biên giới, phù hợp với chủ trương, định hướng chỉ đạo của Chính phủ

Hoạt động thương mại biên giới giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc được Chính phủ hai nước quan tâm thúc đẩy trong nhiều năm qua, thông qua việc ký kết Hiệp định thương mại vùng biên năm 1998 và được thay thế bởi Hiệp định thương mại biên giới ký ngày 12/9/2016. Trong các hiệp định nói trên, đều có quy định về đồng tiền và phương thức thanh toán trong hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Với yêu cầu phát triển đa dạng của hoạt động thương mại biên giới, ngày 23/01/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới, trong đó có quy định cụ thể về hoạt động thanh toán để hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động thương mại biên giới nói chung và thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng.

Với vai trò là hoạt động hỗ trợ cần thiết cho thương mại biên giới, các chính sách đối với hoạt động thanh toán biên mậu Việt - Trung ra đời rất sớm, song hành cùng các quy định của Đảng, Chính phủ về thương mại biên giới. Ngay từ năm 1993, NHNN và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ký kết Hiệp định thanh toán và hợp tác giữa ngân hàng trung ương hai nước và được sửa đổi, bổ sung năm 2003. Trên cơ sở quy định của Hiệp định thương mại biên giới, hiệp định thanh toán của hai nước, NHNN có Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN ngày 07/6/2004 ban hành Quy chế thanh toán trong mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ tại khu vực biên giới và khu kinh tế cửa khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Phù hợp với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn đầu những năm 2000, các quy định tại Quyết định số 689/2004/QĐ-NHNN chỉ mới nhằm hướng dẫn thanh toán đối với các thương nhân có hoạt động thương mại qua biên giới. Ngày 23/01/2018, Chính phủ ban hành Nghị định 14/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới với nhiều nội dung, trong đó có quy định cụ thể hơn các hình thức thương mại giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, không chỉ bao gồm việc mua bán, trao đổi hàng hóa của thương nhân mà còn bao gồm mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới; mua bán, trao đổi hàng hóa tại chợ biên giới. Tại Nghị định 14, Chính phủ giao trách nhiệm cho NHNN trong việc hướng dẫn triển khai thực hiện về thanh toán trong hoạt động thương mại biên giới.

Đồng thời, sau một thời gian dài thực hiện, với sự phát triển không ngừng của hoạt động thương mại hai nước Việt - Trung cũng như sự phát triển của thương mại biên giới vùng biên, các quy định tại Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN đã phát sinh một số vướng mắc không đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh mới. Vì vậy, ngày 28/8/2018, NHNN đã ban hành Thông tư số 19/2018/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Các quy định trong Thông tư số 19 đáp ứng yêu cầu thực tiễn và tình hình mới, góp phần thúc đẩy thanh toán biên mậu, tạo thuận lợi cho người dân hai nước trong việc giao thương, đồng thời thực hiện tốt hơn việc quản lý nhà nước về ngoại hối, tạo sự đồng bộ với các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối hiện nay.

Là cơ chế đặc thù áp dụng cho hoạt động thương mại biên giới, do đó, quy định về hoạt động thanh toán biên mậu Việt - Trung hiện nay điều chỉnh các hoạt động thanh toán trong hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ qua biên giới của thương nhân; mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới và trong hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ tại chợ biên giới tại khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Đối tượng được thực hiện bao gồm thương nhân, cư dân biên giới hai nước Việt Nam - Trung Quốc có hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Đồng tiền sử dụng trong thanh toán, ngoài đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi, còn được sử dụng đồng tiền của hai nước (VND, CNY). Phương thức thanh toán bao gồm ba hình thức: thanh toán qua ngân hàng; thanh toán phần chênh lệch trong giao dịch bù trừ hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu và phương thức thanh toán bằng tiền mặt. Tuy nhiên, phương thức thanh toán bằng tiền mặt chỉ áp dụng cho một số trường hợp thương nhân Việt Nam có hoạt động xuất khẩu hàng hóa qua cửa khẩu phụ, lối mở gặp khó khăn trong thanh toán qua ngân hàng.

Quy định về hoạt động ủy thác thanh toán bằng đồng Nhân dân tệ giữa các ngân hàng được phép và hoạt động thanh toán bằng đồng nhân dân tệ trong hệ thông ngân hàng được phép có chi nhánh ngân hàng biên giới đã tạo điều kiện cho phép các thương nhân có hoạt động thương mại biên giới có ký kết hợp đồng thanh toán bằng đồng tiền của hai nước được thông qua mạng lưới các ngân hàng thương mại có chi nhánh ở khu vực biên giới Việt - Trung để thực hiện thanh toán bằng Việt Nam đồng, Nhân dân tệ. Với nhu cầu xuất khẩu các mặt hàng nông sản (vải, dưa hấu, nhãn…) của thương nhân Việt Nam sang Trung Quốc ngày càng gia tăng, quy định này tạo hành lang pháp lý cụ thể cho thương nhân Việt Nam, tuy nhiên, cũng kiểm soát chặt chẽ được hoạt động thanh toán bằng đồng tiền của nước có chung biên giới thông qua việc tập trung thanh toán qua hệ thống ngân hàng, hạn chế tình trạng thanh toán bất hợp pháp, nhờ đó kiểm soát nguồn gốc tiền tệ và giúp giảm tình trạng thất thu thuế.

2. Hoạt động thanh toán biên mậu Việt - Trung đã đáp ứng thực tiễn phát triển thương mại vùng biên trong thời gian qua

Trong những năm qua, hoạt động xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc ngày càng sôi động, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng liên tục cùng với quy mô hoạt động thương mại song phương giữa hai nước, chiếm tỷ lệ từ 9 - 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước. Cùng với sự tăng trưởng tích cực của hoạt động thương mại biên giới, quy mô hoạt động thanh toán biên mậu cũng có sự phát triển tích cực. Phương thức, đồng tiền thanh toán đa dạng (qua ngân hàng, bù trừ thanh toán, tiền mặt; bằng đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi, Việt Nam đồng, Nhân dân tệ), phù hợp với các loại hình thương mại của vùng biên như thương nhân hai nước thì chủ yếu thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu, cư dân chủ yếu là hoạt động trao đổi, mua bán nhỏ lẻ với nhau; ngoài ra, còn hoạt động kinh doanh tại các chợ biên giới. Doanh số thanh toán biên mậu Việt - Trung tăng trưởng đều qua các năm, đạt hơn 93 tỷ USD vào năm 2017, trong đó doanh số thanh toán bằng đồng tiền của hai nước đạt khoảng 10% trên tổng doanh số thanh toán biên mậu giữa hai nước.

Góp phần phát triển hoạt động thanh toán thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc không thể thiếu sự đóng góp tích cực của mạng lưới ngân hàng thương mại. Với vai trò chức năng cung ứng dịch vụ thanh toán, trong thời gian qua, mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại tại khu vực biên giới cũng gia tăng và phát triển đáp ứng sự phát triển của thương mại biên giới và nhu cầu thanh toán của các tổ chức, cá nhân. Hiện nay, có 11 ngân hàng thương mại tham gia hoạt động thanh toán biên mậu thông qua các chi nhánh tại khu vực biên giới tiếp giáp Trung Quốc. Các ngân hàng thương mại của Việt Nam đã ký kết thỏa thuận thanh toán biên mậu với khoảng 10 ngân hàng thương mại Trung Quốc như: Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc, Ngân hàng Nông nghiệp Quế Lâm, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Kiến Thiết, Ngân hàng Trung Quốc, Ngân hàng Vịnh Bắc Bộ, Ngân hàng Bưu điện, Hợp tác xã tín dụng nông thôn tỉnh Vân Nam - Trung Quốc… Các ngân hàng thương mại cũng đã tích cực đổi mới, áp dụng công nghệ thanh toán hiện đại, tiên tiến, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Có thể nói, với việc áp dụng các chính sách cho hoạt động thanh toán biên mậu thời gian qua đã góp phần thúc đẩy quan hệ giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các chính sách của Trung ương và địa phương nhằm phát triển thương mại biên giới không những thúc đẩy sản xuất, nâng cao đời sống của người dân vùng biên giới mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh biên giới, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ chế thanh toán biên mậu bằng đồng tiền của hai nước đã tiết kiệm một lượng ngoại tệ mạnh cho đất nước, từ đó giảm áp lực cung - cầu ngoại tệ, góp phần ổn định thị trường ngoại hối. Cơ chế thanh toán biên mậu cũng góp phần hỗ trợ công tác quản lý chống buôn lậu, hạn chế gian lận thương mại và thất thu thuế. Tạo thuận lợi hơn cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động ngoại hối trên địa bàn các tỉnh biên giới; đóng góp tích cực cho sự phát triển của hoạt động thương mại biên giới.

3. Giải pháp phát huy hiệu quả chính sách quản lý ngoại hối đối với hoạt động thanh toán biên mậu Việt - Trung trong bối cảnh hiện nay

Với lợi thế đường biên giới giữa hai nước Việt - Trung khá dài, Chính phủ hai nước đã có chủ trương, định hướng phát triển kinh tế vùng biên giới từ nhiều thập niên qua. Chính phủ Việt Nam cũng xác định phát triển kinh tế biên mậu là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của địa phương các tỉnh biên giới Việt - Trung. Hoạt động thương mại biên giới được Chính phủ giao nhiều bộ, ngành liên quan quản lý theo chức năng, nhiệm vụ. Do đó, với thực trạng phát triển của thương mại biên giới cũng như hoạt động thanh toán biên mậu Việt - Trung hiện nay, cần có những giải pháp đồng bộ, hiệu quả và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành cũng như sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ.

Chính vì vậy, đối với sự phát triển đồng bộ của thương mại biên giới, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành liên quan triển khai các giải pháp, cơ chế chính sách để phát triển thương mại biên giới; tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường; đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp và các lĩnh vực cần ưu tiên phát triển là thế mạnh của địa phương; đồng thời, chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, giao thông, quy hoạch…, đặc biệt là các địa bàn chậm phát triển như Hà Giang, Điện Biên, Lai Châu.

UBND các tỉnh biên giới Việt - Trung tùy tình hình và đặc điểm, ưu thế của từng địa bàn, chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở các huyện, thị trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi phát triển giao thông, lưu thông hàng hóa; nghiên cứu quy hoạch xây dựng và phát triển chợ biên giới để thu hút phát triển các dịch vụ hỗ trợ, góp phần thúc đẩy giao thương. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án trên địa bàn tỉnh. Tăng cường công tác phối hợp giữa các sở, ban, ngành chức năng để kiểm tra, đảm bảo hoạt động thương mại và tiền tệ tại khu vực biên giới tuân thủ đúng các quy định pháp luật; đấu tranh ngăn ngừa các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại; đồng thời, phối hợp với NHNN trên địa bàn thực hiện quản lý tốt thị trường ngoại hối, tiền tệ ở khu vực biên giới.

Trong hoạt động thanh toán, NHNN tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn khuyến khích nghiên cứu và mở rộng các sản phẩm phục vụ thanh toán biên mậu và tài trợ thương mại cho các doanh nghiệp, từ đó gia tăng thị phần cung ứng dịch vụ thanh toán của các ngân hàng trên địa bàn; tăng cường triển khai nghiệp vụ ngân hàng điện tử phục vụ hoạt động thanh toán biên mậu để tăng tính linh hoạt cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước; đảm bảo thực hiện việc thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng nhanh gọn, an toàn, tiết kiệm chi phí.

Ngoài ra, NHNN tăng cường công tác phối hợp với các bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh biên giới thực hiện quản lý, hướng dẫn hoạt động thanh toán trong thương mại biên giới theo chỉ đạo của Chính phủ. Mạng lưới ngân hàng trên địa bàn các tỉnh biên giới không ngừng được mở rộng, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phát triển đa dạng, đáp ứng linh hoạt nhu cầu các doanh nghiệp có hoạt động thương mại biên giới, từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại biên giới, tạo chuyển biến tích cực về đời sống kinh tế - xã hội của các tỉnh biên giới.

Nguyễn Ngọc Cảnh

Nguồn: TCNH số 2+3/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng