Hoàn thiện chính sách đại lý ngân hàng: Hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn thanh toán

Công nghệ & ngân hàng số
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã hoàn thiện Dự thảo Nghị định quy định về thanh toán không dùng tiền mặt thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Dự thảo Ngh...
aa

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã hoàn thiện Dự thảo Nghị định quy định về thanh toán không dùng tiền mặt thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định) trong bối cảnh Chính phủ đẩy mạnh chuyển đổi số và khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt. Một trong những chính sách được chờ đợi nhất tại Dự thảo Nghị định là chính sách về đại lý thanh toán (hay còn gọi là đại lý ngân hàng).



Chính sách này sẽ cho phép ngân hàng ủy thác cho các bên thứ ba thực hiện một số dịch vụ cơ bản như mở tài khoản, nạp - rút tiền mặt, chuyển tiền, thu hộ - chi hộ với hạn mức nhỏ.

Dự thảo Nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt có quy định chính sách về đại lý thanh toán, nhằm thực hiện các giải pháp đề ra tại Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Quyết định số 1726/QĐ-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.

Hướng tới phổ cập tài chính

Theo NHNN, các quy định về đại lý thanh toán là nhằm phổ cập tài chính đến người dân, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, nông thôn để góp phần tăng cường khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của người dân, đem lại những tiện ích trong thanh toán cho người dân như được tiếp cận dịch vụ thanh toán với chi phí thấp hơn (do không mất thời gian đi lại), có thời gian phục vụ dài hơn (không phụ thuộc giờ hành chính), không phải chờ đợi như ở chi nhánh ngân hàng...

Thực tế, ngay khi xây dựng nội dung Dự thảo Nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt, Ban soạn thảo đã nhận thức rất rõ nhu cầu pháp lý đối với hoạt động đại lý thanh toán. Theo đó, NHNN cho biết, đến thời điểm hiện nay, các văn bản pháp lý chưa có quy định về việc các ngân hàng có thể giao đại lý cho các ngân hàng khác hoặc các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD) để thực hiện một phần công đoạn, quy trình của dịch vụ thanh toán.

Trên thế giới, tại các quốc gia như Malaysia, Kenya, Ấn Độ..., mô hình ngân hàng đại lý mang lại rất nhiều tiện ích cho các bên liên quan. Hoạt động của các đại lý có thể hỗ trợ các ngân hàng thương mại (NHTM) cung ứng các dịch vụ như: nhận tiền mặt, hỗ trợ khách hàng rút tiền mặt, chuyển khoản; nhận các khoản thanh toán nợ, thanh toán hóa đơn, tham gia vào một phần thu thập thông tin khách hàng phục vụ triển khai các sản phẩm dịch vụ tài chính.

Theo số liệu của Vụ Thanh toán - NHNN, mặc dù thời gian qua, ở Việt Nam, pháp lý về hoạt động đại lý thanh toán chưa được luật hóa, tuy nhiên NHNN cũng đã cho phép thí điểm 3 mô hình ngân hàng đại lý. Đó là các mô hình thí điểm giữa Vietcombank với Công ty cổ phần Dịch vụ Di động Trực tuyến (M_Sevice) - đơn vị chủ sở hữu ví điện tử MoMo; mô hình phối hợp giữa MB với Viettel và mô hình phối hợp giữa PG Bank phối hợp với Petrolimex. Những mô hình này đã mang lại kết quả rất tích cực, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho thị trường Việt Nam.

Nếu được triển khai, hoạt động đại lý thanh toán trong thời điểm hiện nay sẽ giúp các NHTM tăng cường tiếp cận, gia tăng lượng khách hàng mà không cần phải mở rộng mạng lưới chi nhánh/phòng giao dịch. Các ngân hàng cũng sẽ cung ứng được các dịch vụ tài chính cơ bản cho khách hàng tại vùng sâu, vùng xa với chi phí thấp đồng thời giảm đáng kể thời gian đi lại của khách hàng.

Hiện nay, các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc cung cấp dịch vụ tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa do số lượng khách hàng và giao dịch thấp trong khi chi phí mở chi nhánh, phòng giao dịch khá cao, thủ tục phức tạp, dẫn đến hoạt động kém hiệu quả. Nếu cho phép giao đại lý cho các bên thứ ba, các ngân hàng sẽ có cơ hội rất lớn để mở rộng thị trường và phục vụ nhiều khách hàng hơn. Thông qua hệ thống đại lý, các ngân hàng cũng có thể bán chéo sản phẩm, hỗ trợ dịch vụ của các đối tác khác như ví điện tử, phân phối bảo hiểm qua ngân hàng... Việc mở rộng hoạt động này cũng tạo tác động hai chiều, một là phát hành thẻ, hai là các điểm tiếp nhận thẻ, trong đó, các trung tâm, cửa hàng mua bán lớn cũng có thể trở thành “chân rết” của hệ thống ngân hàng để chấp nhận thanh toán không dùng tiền mặt. Khi đó, đại lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự bao trùm của ngân hàng, trên cơ sở đó cũng mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, thúc đẩy tài chính toàn diện.

Chính vì vậy, để cụ thể hóa những quy định pháp lý cho mô hình đại lý thanh toán, NHNN đã đưa vào Dự thảo Nghị định các điều khoản rất cụ thể về nguyên tắc thực hiện mô hình đại lý thanh toán, nghiệp vụ đại lý thanh toán, hợp đồng và trách nhiệm của các bên khi triển khai mở rộng các mô hình này. Theo Ban soạn thảo, việc bổ sung các quy định về đại lý thanh toán trong Dự thảo Nghị định đã được tham khảo, căn cứ vào những văn bản pháp lý cụ thể, như Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Điều 106, Điều 107 Luật Các TCTD.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia tài chính, quy định về đại lý thanh toán nếu được triển khai cần thận trọng và có biện pháp để đảm bảo an toàn cho hoạt động thanh toán cũng như quyền lợi hợp pháp của khách hàng, xa hơn là đảm bảo an ninh tiền tệ quốc gia. Bởi các dịch vụ của ngân hàng đều mang tính chất nhạy cảm và yêu cầu bảo mật cao. Nếu các ngân hàng ủy quyền cho một bên thứ ba như một tổ chức tài chính, một quỹ hoặc một công ty nào đó ở vùng xa xôi để thực hiện các chức năng thay ngân hàng, sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trừ khi các hoạt động này không kết nối, thâm nhập vào hệ thống nội bộ mới không gây phá vỡ hệ thống bảo mật của ngân hàng. Còn nếu được thực hiện dưới danh nghĩa ngân hàng, truy cập vào hệ thống nội bộ thì hệ thống bảo mật sẽ khó được bảo toàn. Thực tế, hệ thống bảo mật ngân hàng tại Việt Nam cũng chưa đồng đều ở mức cao, trong khi quyền lợi của khách hàng cần phải được bảo đảm.

Hơn nữa, bên thứ ba làm đại lý cho ngân hàng thường không được đào tạo một cách bài bản, đầy đủ về các hoạt động, nghiệp vụ ngân hàng, bao gồm cả mở thẻ, tiếp nhận thẻ. Từ đó dễ xảy ra những rủi ro nhất định và ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.

Ngoài ra, theo các NHTM, Dự thảo Nghị định lại không cho phép các cá nhân kinh doanh, hộ gia đình hoạt động đại lý. Việc này sẽ khiến cho các ngân hàng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đại lý phù hợp để cung cấp dịch vụ tại khu vực vùng sâu, vùng xa như định hướng chính sách. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng còn băn khoăn về giới hạn cứng 80% số đại lý phải hoạt động tại địa bàn cấp huyện.

Dự thảo Nghị định cũng đưa ra quy định là mỗi ngân hàng có số lượng đại lý là tổ chức khác không vượt quá số lượng chi nhánh hiện có. Theo đánh giá của các chuyên gia, quy định này sẽ khiến những ngân hàng nhỏ gặp nhiều khó khăn khi mở đại lý, trong khi chính họ mới là đối tượng có nhu cầu mở đại lý hơn các ngân hàng lớn có nhiều hệ thống chi nhánh. Theo đề xuất của NHNN, các ngân hàng nhỏ có thể giao đại lý cho các ngân hàng lớn có nhiều chi nhánh, phòng giao dịch để mở rộng phạm vi hoạt động. Tuy nhiên, điều này trên thực tế rất khó thực hiện vì sự cạnh tranh, nhận diện thương hiệu...

Đảm bảo an toàn và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho người dân

Nếu chính sách trên đi vào thực hiện, NHNN cần quy định chặt chẽ những dịch vụ có thể được ủy quyền cho bên thứ ba. Đại lý được ủy quyền phải có trụ sở, vốn điều lệ tối thiểu và tuân thủ các quy định pháp luật về tiền tệ, ngân hàng, không có bất cứ sai phạm nào liên quan đến vấn đề tài chính, tiền tệ. Để đảm bảo an toàn, bảo mật, các thông tin cá nhân giao dịch phải được bảo mật tuyệt đối và ngân hàng phải bảo lãnh cho những đại lý này, trong trường hợp gây thiệt hại cho khách hàng hoặc xảy ra tranh chấp.

Việc ủy quyền cho bên thứ ba là đại lý cần được khuyến khích thực hiện tại các địa phương ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, những nơi không có hoặc ít sự hiện diện của chi nhánh, phòng giao dịch, cơ sở của ngân hàng. Tuy nhiên, không nên cứng nhắc quy định một tỷ lệ cố định số lượng đại lý này phải hoạt động trên địa bàn nông thôn (đặc biệt đối với các đại lý là doanh nghiệp phi ngân hàng - không phải TCTD) mà cần căn cứ trên thực tế khả năng triển khai cũng như những yêu cầu về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, quản trị điều hành, tuân thủ luật pháp… của các NHTM và tổ chức được ủy thác làm đại lý. Trường hợp cần thiết, khi thực tế phát sinh nhu cầu, NHNN có thể đưa ra một khoảng thời gian thí điểm, sau đó, đánh giá, cân nhắc mở rộng các đối tượng như cá nhân kinh doanh, hộ kinh doanh được tham gia hoạt động đại lý, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa; bên cạnh đó, xem xét cho các ngân hàng nhỏ mở rộng số lượng đại lý là tổ chức khác tại các khu vực vùng sâu, vùng xa khi đáp ứng các yêu cầu về an ninh, an toàn và tuân thủ pháp luật, đảm bảo mục tiêu thúc đẩy tài chính toàn diện.

Về áp dụng mức phí, các đại lý áp dụng không được cao hơn so với phí của NHTM đưa ra, đảm bảo tất cả các đại lý đó thực hiện trong phạm vi chi phí, biểu phí mà NHTM quy định. Đồng thời, một mặt bằng phí cần được thiết lập, đảm bảo công bằng và đồng bộ; không để tình trạng mỗi nơi một giá sẽ gây nhiều bất cập, hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính - ngân hàng của người dân vùng nông thôn xa xôi. Thậm chí, để khuyến khích người dân vùng sâu, vùng xa sử dụng dịch vụ ngân hàng, đẩy mạnh thanh toán không tiền mặt, NHTM cần thực hiện các chính sách miễn, giảm phí, ưu đãi nhằm thu hút khách hàng. Về phía các đại lý, tỷ lệ hoa hồng sẽ tùy theo mức độ hợp tác, do hai bên thỏa thuận đảm bảo phù hợp, đúng quy định để tránh gây thiệt hại cho người dân.

Các ngân hàng cần nghiên cứu, phân tích và có chiến lược bài bản đối với hoạt động đại lý ủy quyền để có các cơ chế hoạt động phù hợp, song song với việc mở lớp bồi dưỡng, đào tạo chuyên nghiệp cho nhân viên các đơn vị được ủy thác làm đại lý, hay những yêu cầu ở mức tối thiểu cho một bên đại lý. Cùng với đó, khi ủy quyền đại lý cho các tổ chức, phía ngân hàng cần đảm bảo và có cơ chế thanh tra, giám sát nhằm đảm bảo các đại lý này hoạt động an toàn về mặt tài chính, cũng như thực hiện đúng các quy định pháp luật trong việc mở thẻ tín dụng, cho vay, hay thanh toán...

Các quy định tại Dự thảo Nghị định liên quan đến hoạt động đại lý thanh toán cho thấy sự thận trọng của cơ quan quản lý. Bởi lẽ, hoạt động đại lý thanh toán liên quan đến tiền, tài sản, hệ thống công nghệ thông tin, an toàn, an ninh tiền mặt… cho nên việc đảm bảo an toàn, an ninh hoạt động thanh toán phải được chú trọng nhằm tránh ảnh hưởng đến hệ thống tài chính, an ninh tiền tệ, chủ quyền quốc gia. Hiện nay, NHNN đang tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan để nghiên cứu thêm nhằm xây dựng chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ ngân hàng trên nguyên tắc triển khai thận trọng, chặt chẽ, hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn theo chỉ đạo của Chính phủ.

Tài liệu tham khảo:

1. Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt.

2. Cổng thông tin điện tử NHNN: sbv.gov.vn


Trần Linh Chi (NHNN)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò, cơ hội và rủi ro của trí tuệ nhân tạo trong đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua tiếp cận định tính và tổng hợp lý luận từ các học thuyết ra quyết định, bài viết khẳng định rằng trí tuệ nhân tạo mang lại hiệu quả vượt trội trong nâng cao độ chính xác phân loại tín dụng, tối ưu hóa quy trình và mở rộng tài chính bao trùm. Tuy nhiên, đi kèm là những thách thức đáng kể về vấn đề pháp lý, rủi ro đạo đức và khả năng triển khai thực tế trong môi trường ngân hàng còn phân hóa về năng lực số.
Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin là một xu hướng mới đầy tiềm năng của thế giới trong lĩnh vực tiền tệ số, hứa hẹn định hình lại phương thức thanh toán và chuyển giao giá trị trong kỷ nguyên số...
Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn  tài chính - ngân hàng

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn tài chính - ngân hàng

Bảo mật khả dụng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, giúp cân bằng giữa an toàn và trải nghiệm người dùng. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng bảo mật Fintech tại Việt Nam, xác định những thách thức chính ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Fintech. Bài viết đề xuất bộ nguyên tắc bảo mật khả dụng gồm năm tiêu chí: Minh bạch, xác thực linh hoạt, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng dụng AI và tối ưu trải nghiệm người dùng. Các nguyên tắc này giúp xây dựng một hệ thống bảo mật an toàn nhưng vẫn bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp với hành vi người dùng Việt Nam. Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp Fintech cần áp dụng nguyên tắc này vào sản phẩm, dịch vụ; ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để nâng cao tiêu chuẩn bảo mật, còn cơ quan quản lý cần ban hành các quy định phù hợp về bảo mật khả dụng trong Fintech.
Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), là một trong “Bộ tứ chiến lược” hướng đến mang lại sản phẩm tiện tích cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế số, giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Nghị quyết 57, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là động lực, chủ thể cho sự phát triển.
Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Bài toán cấp tín dụng là một trong những vấn đề trọng yếu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính hoặc các nền tảng cho vay ngang hàng. Mục tiêu của bài toán này là đánh giá rủi ro tín dụng của từng khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra quyết định liệu có nên cấp tín dụng hay không, nếu có thì với điều kiện như thế nào. Trong thực tế, việc đưa ra quyết định cấp tín dụng không chỉ đơn thuần là lựa chọn giữa “cấp” hay “không cấp”, mà là một quá trình ra quyết định phức tạp, cần cân bằng giữa rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận kỳ vọng. Một quyết định sai lầm, ví dụ như cấp tín dụng cho khách hàng có khả năng vỡ nợ, có thể dẫn đến tổn thất tài chính nghiêm trọng. Ngược lại, từ chối một khách hàng có khả năng hoàn trả tốt cũng là bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng