Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam góp ý một số điểm chưa phù hợp trong dự thảo Nghị định quy định về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy

Kinh tế - xã hội
Luật Giao dịch điện tử số 20/2023/QH15 đã được Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 22/6/2023 và được Chủ tịch nước công bố tại Lệnh số 07/2023/L-CTN ngày 03/7/2024. Ngày 18/7/2023, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 857/QĐ-TTg ban hành Danh mục và phân công cơ quản chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 5.
aa

Luật Giao dịch điện tử số 20/2023/QH15 đã được Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 22/6/2023 và được Chủ tịch nước công bố tại Lệnh số 07/2023/L-CTN ngày 03/7/2024. Ngày 18/7/2023, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 857/QĐ-TTg ban hành Danh mục và phân công cơ quản chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 5.

Theo đó, Bộ Thông tin và Truyền thông được giao chủ trì xây dựng Nghị định quy định về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy. Dự thảo Nghị định đã được Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng, đăng tải trên Trang thông tin điện tử Chính phủ và của Bộ Thông tin và Truyền thông từ ngày 08/02/2024 để lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân theo quy định, đồng thời cũng đã có văn bản gửi lấy ý kiến các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức liên quan.

Hiện nay, gần 80% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản ngân hàng và nhiều ngân hàng đã có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số (Ảnh minh họa, nguồn: Internet)


Tham gia góp ý vào nội dung dự thảo Nghị định quy định về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy, trên cơ sở ý kiến phản ánh của các ngân hàng, thời gian qua, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã liên tục có các văn bản góp ý với Bộ Thông tin và Truyền thông gồm: Công văn số 243/HHNH-PLNV ngày 10/5/2024, Công văn số 251/HHNH-PLNV ngày 15/5/2024, Công văn số 289/HHNH-PLNV ngày 03/6/2024. Mới đây, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tiếp tục có Công văn số 332/HHNH-PLNV góp ý đối với dự thảo Nghị định, đồng thời giữ nguyên quan điểm 3 lần góp ý trước.

Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, dự thảo Nghị định còn một số điểm chưa phù hợp với quy định của Luật Giao dịch điện tử năm 2023. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng như làm tăng chi phí cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện giao dịch điện tử với các TCTD, thể hiện trên một số điểm sau:

Thứ nhất, khách hàng (doanh nghiệp và cá nhân) phải thanh toán các khoản phí để được cấp, duy trì hiệu lực của chữ ký số với số tiền vô cùng lớn.

Ngay khi Luật Giao dịch điện tử năm 2023 và dự thảo Nghị định có hiệu lực, người dân và doanh nghiệp giao dịch với ngân hàng trên môi trường điện tử phải mua chữ ký số của các tổ chức cung cấp chữ ký số công cộng và áp dụng vào các giao dịch trực tuyến với ngân hàng sẽ dẫn đến việc tốn kém chi phí cho toàn thể người dân và doanh nghiệp (các chi phí này người dân và doanh nghiệp phải chi trả, ngân hàng không thể và không bao giờ chi trả chi phí này). Theo ước tính, một ngân hàng có thể phải chi phí lên đến hàng ngàn tỉ đồng hằng năm (và sẽ thu lại từ người dân và doanh nghiệp). Khi thực hiện, người dân và doanh nghiệp sẽ không đồng thuận do trước khi Nghị định có hiệu lực thì họ không phải mất chi phí, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp và thu nhập của người dân còn gặp nhiều khó khăn như lúc này.

Hiện nay, có khoảng gần 80% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản ngân hàng và nhiều ngân hàng đã có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số. Nếu theo quy định của dự thảo Nghị định, thì các loại nghiệp vụ chủ yếu của TCTD như nhận tiền tiết kiệm, nhận tiền gửi, cấp tín dụng, giao dịch ngoại tệ… đều yêu cầu có chữ ký điện tử khi giao kết giao dịch.

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, theo báo cáo của một trong bốn ngân hàng thương mại (NHTM) có vốn Nhà nước thì đến thời điểm gửi Công văn số 332/HHNH-PLNV, số lượng khách hàng giao dịch trên kênh số của NHTM có vốn Nhà nước này ước tính khoảng 12 triệu khách hàng, với số lượng giao dịch 6,5 - 7 triệu giao dịch/ngày (cả năm khoảng 2,3 tỉ giao dịch, bình quân 500 giao dịch/giây). Như vậy, khi dự thảo Nghị định có hiệu lực, với mức chi phí khảo sát qua các dịch vụ chứng thực chữ ký số (Certificate authority - CA) trên thị trường từ 550.000 - 1.800.000 VND/năm thì hằng năm khách hàng của ngân hàng này phải chi trả dịch vụ CA Provider lên đến từ 6.600 - 21.600 tỉ đồng, chưa kể các chi phí khác phát sinh liên quan đến đầu tư hạ tầng, phát triển, vận hành hệ thống nội bộ cho ngân hàng và trang cấp chứng thư số cho cán bộ trong nội bộ.

Còn theo báo cáo của một NHTM cổ phần quy mô lớn, đến thời điểm gửi Công văn số 332/HHNH-PLNV, Ngân hàng này ước tính có khoảng 10,2 triệu khách hàng, lượng giao dịch trung bình phát sinh khoảng 750 triệu giao dịch tài chính/năm, tương đương trung bình khoảng 500 giao dịch/giây (số lượng giao dịch mà hệ thống có thể phải xử lý trong một giây cũng là số lượng giao dịch tối thiểu mà các công ty CA phải có khả năng xử lý). Chi phí dự kiến phát sinh trong trường hợp toàn bộ các giao dịch trên phải sử dụng chữ ký số: (i) Nếu mua chữ ký số theo năm: 800.000 đồng/năm (đơn giá trung bình của các nhà cung cấp CA/ Mobile CA), tổng mức chi phí để trang bị chữ ký số cho 10,2 triệu khách hàng là khoảng 8.160 tỉ đồng. (ii) Nếu mua chữ ký số theo giao dịch: 2.500 đồng/lần ký (đơn giá trung bình ký theo lần từ các nhà cung cấp Mobile CA), tổng mức chi phí để trang bị chữ ký số 1.875 tỉ đồng. (iii) Chi phí sửa đổi các hệ thống để có thể tích hợp việc sử dụng chữ ký số cũng như lưu trữ các giao dịch đã thực hiện: Chưa có con số chính xác nhưng dự kiến sẽ trên 10 triệu USD.

Đây là mức chi phí vô cùng lớn, nếu tính cả hệ thống các TCTD thì hằng năm chi phí này sẽ lên đến bao nhiêu? Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.

Thứ hai, không đáp ứng tính kịp thời trong việc cung cấp chứng từ, chứng cứ chứng minh khi phát sinh khiếu nại, tranh chấp với khách hàng.

Cụ thể, các hoạt động khiếu nại, tranh chấp và tố tụng, xử lý thu hồi nợ trong quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng hằng năm rất lớn. Song khi cần xuất trình các chứng cứ chứng minh về thao tác của khách hàng, hiệu lực chữ ký số, chứng thư số hoặc các thông tin liên quan đến quá trình giao kết hợp đồng, văn kiện… ngân hàng sẽ phải đề nghị bằng văn bản gửi bên thứ 3 (bên cung cấp chữ ký số). Như vậy, vừa không đảm bảo tính kịp thời, phát sinh thêm thủ tục không đáng có bởi hệ thống công nghệ của các ngân hàng được đầu tư với số tiền vô cùng lớn để đáp ứng đủ tiêu chuẩn quốc tế nếu được tạo lập chữ ký điện tử chuyên dùng cho khách hàng của mình.

Hệ thống bảo mật, xác thực của các bên cung cấp chữ ký số (với vốn điều lệ khoảng 30 tỉ đồng trở lên) cũng chưa có các đánh giá được mức độ tương thích với hệ thống bảo mật, xác thực giao dịch, xác thực khách hàng của từng ngân hàng. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng cùng một giao dịch khách hàng có thể phải xác thực một số lần, giảm rất nhiều trải nghiệm của khách hàng, tăng thời gian giao dịch và gây cản trở việc thúc đẩy chuyển đổi số.

Thứ ba, hoạt động giao dịch của ngân hàng phụ thuộc hoàn toàn vào một hoặc một vài tổ chức thứ ba về cung cấp chữ ký số công cộng gây rủi ro rất lớn cho ngành Ngân hàng.

Theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), các TCTD khi giao kết giao dịch với khách hàng trên môi trường điện tử phải sử dụng chữ ký điện tử, chữ ký số theo quy định của NHNN và của Luật Giao dịch điện tử bởi các giao dịch tài chính - ngân hàng là các giao dịch đặc thù, đòi hỏi sự chính xác cao và đảm bảo giá trị, bảo mật về mặt chứng từ, chứng cứ chứng minh khi phát sinh tranh chấp, tố tụng... Tuy nhiên, theo dự thảo Nghị định thì toàn bộ giao dịch của các TCTD trên môi trường điện tử hoàn toàn phụ thuộc vào một hoặc một số đơn vị cung cấp chữ ký số công cộng. Vấn đề đặt ra là liệu các tổ chức này có đảm bảo độ bảo mật, sức tải của hệ thống cấp và ký số... có đảm bảo thông suốt an toàn với số lượng giao dịch vô cùng lớn, hàng tỉ, chục tỉ giao dịch/năm (trung bình 500 giao dịch/giây)? Ai sẽ chịu trách nhiệm về hậu quả này khi các giao dịch bị chậm trễ hoặc ngừng trệ? Điều này ảnh hưởng tới mọi mặt cuộc sống của người dân và doanh nghiệp cũng như chính TCTD.

Bên cạnh đó, hiện nay trên thị trường mới có một số tổ chức được cấp phép về cung cấp chữ ký số an toàn (khoảng trên 10 CA Providers được cấp phép cung cấp chữ ký số an toàn qua hình thức remote signing). Như vậy, cũng đồng nghĩa với việc khả năng cao một tổ chức cung cấp chữ ký số công cộng sẽ quá tải, tiềm ẩn rủi ro hệ thống, kéo theo các hệ lụy trong quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ.

Thứ tư, tính ứng dụng của quy định về chữ ký điện tử chuyên dùng không khả thi về mặt thực tiễn nếu phạm vi sử dụng bị hạn chế.

Các mô hình chữ ký số tiên tiến trên thế giới mà Bộ Thông tin và Truyền thông đã giới thiệu với các doanh nghiệp, TCTD trước đây tại các lần lấy ý kiến góp ý đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023 và Nghị định hướng dẫn, phần lớn các giao dịch với ngân hàng đều áp dụng với chữ ký số và đều là các chữ ký số được cấp phát bởi chính TCTD, áp dụng cho khách hàng của mình, cũng chính là mô hình chữ ký điện tử chuyên dùng đảm bảo an toàn đã được chính thống đưa vào Luật Giao dịch điện tử tại Việt Nam. Các chữ ký điện tử được áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng, đều là các chữ ký được miễn phí hoặc có mức phí tượng trưng rất thấp để hỗ trợ người dùng.

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam khẳng định hoàn toàn đồng tình và ủng hộ hướng tới một xã hội văn minh, mỗi người dân nên có 1 chữ ký số sử dụng cho các giao dịch công ích cũng như kinh doanh, song cần phải xem xét trong bối cảnh thực tiễn từ cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ, mức thích ứng dần của người dân, không làm xáo trộn hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như làm tăng chi phí đột biến cho người dân và doanh nghiệp…

Luật Giao dịch điện tử đã mở ra hướng tạo điều kiện cho người dân được quyền lựa chọn các hình thức trong đó có chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn, khi người dân có mức thu nhập cao hơn, nhận thức và thấy rằng cần thiết phải có 1 chữ ký số cho riêng mình thì tự họ sẽ lựa chọn và quyết định, các quy định dưới luật không nên áp đặt để tăng chi phí cho người dân và doanh nghiệp. Vì vậy, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tiếp tục kiến nghị Bộ Thông tin và Truyền thông điều chỉnh Điều 9 dự thảo Nghị định như sau:

“Điều 9: Chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn
…….,

2. Chữ ký điện tử chuyên dùng đảm bảo an toàn do cơ quan, tổ chức tạo lập, sử dụng riêng cho hoạt động của cơ quan tổ chức đó phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao gồm:

a) Tổ chức cá nhân sử dụng chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn trong hoạt động nội bộ của cơ quan, tổ chức tạo lập;

b) Tổ chức, cá nhân sử dụng chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn trong các hoạt động chuyên ngành hoặc lĩnh vực có cùng tính chất hoạt động hoặc mục đích công việc và được liên kết với nhau thông qua điều lệ hoạt động hoặc văn bản qui định về cơ cấu tổ chức, hình thức liên kết hoạt động chung;

c) Tổ chức, cá nhân khác sử dụng chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn trong giao dịch với chính cơ quan, tổ chức tạo lập chữ ký điện tử.”


Trên cơ sở những đóng góp các tổ chức, cá nhân, trong đó có các ngân hàng, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam mong muốn Bộ Thông tin và Truyền thông xem xét, nghiên cứu, đánh giá đầy đủ, tác động chính sách đến đời sống kinh tế sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân, cũng như hệ quả có thể xảy ra khi dự thảo Nghị định có hiệu lực thi hành.

Hoàng Nguyên


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Trên cơ sở bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước có thể tác động đến triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng như mục tiêu hướng tới đảm bảo Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045, bài viết đã xây dựng kịch bản tăng trưởng căn cứ vào Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ cũng như các định hướng, kế hoạch, chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2030 nhằm hướng tới Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045.
6 tỉ đồng hỗ trợ an sinh xã hội tại Hà Tĩnh

6 tỉ đồng hỗ trợ an sinh xã hội tại Hà Tĩnh

Ngày 26/7, tại tỉnh Hà Tĩnh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tổ chức chương trình trao tặng an sinh xã hội với tổng kinh phí 6 tỉ đồng. Đây là một trong những hoạt động trọng điểm, thiết thực nhân kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2025), thể hiện truyền thống “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” của toàn ngành Ngân hàng.
Tổng Bí thư Tô Lâm dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại Điện Biên

Tổng Bí thư Tô Lâm dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại Điện Biên

Kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2025), sáng 27/7, tại Điện Biên, Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác của Trung ương đã đến dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại Đền thờ Liệt sĩ tại chiến trường Điện Biên Phủ và Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia A1.
Ngân hàng Nhà nước trao tặng 7 tỉ đồng hỗ trợ an sinh xã hội tại Quảng Trị

Ngân hàng Nhà nước trao tặng 7 tỉ đồng hỗ trợ an sinh xã hội tại Quảng Trị

Ngày 26/7, tại tỉnh Quảng Trị, nhân dịp kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2025), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tổ chức chương trình trao tặng an sinh xã hội với tổng số tiền 7 tỉ đồng.
Ngày 27/7: Một ngày để biết ơn – một đời để tiếp bước

Ngày 27/7: Một ngày để biết ơn – một đời để tiếp bước

Ngày 27/7 – Ngày Thương binh Liệt sĩ – là dịp để cả dân tộc Việt Nam cùng cúi đầu tưởng nhớ những người đã ngã xuống và bày tỏ lòng tri ân sâu sắc với những người đã hiến dâng máu xương cho Tổ quốc.
Tri ân sâu sắc người có công: Mệnh lệnh từ trái tim, trách nhiệm của toàn xã hội

Tri ân sâu sắc người có công: Mệnh lệnh từ trái tim, trách nhiệm của toàn xã hội

Cuộc gặp mặt 250 người có công, nhân chứng lịch sử tiêu biểu tại Hà Nội sáng 24/7 là sự kiện thấm đẫm nghĩa tình, thể hiện sâu sắc đạo lý "Uống nước nhớ nguồn". Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, công tác đền ơn đáp nghĩa không chỉ là chính sách lớn của Đảng, Nhà nước mà còn là mệnh lệnh từ trái tim, trách nhiệm chính trị, đạo lý của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Tổng quan kinh tế thế giới nửa đầu năm 2025

Tổng quan kinh tế thế giới nửa đầu năm 2025

Năm 2025 là năm bản lề cho quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu sau nhiều năm biến động, đồng thời cũng là giai đoạn thử thách năng lực ứng phó chính sách và phối hợp đa phương của các quốc gia. Việc duy trì ổn định vĩ mô, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tăng cường hợp tác quốc tế sẽ là chìa khóa để định hình một nền kinh tế toàn cầu năng động, bền vững và linh hoạt hơn trong tương lai.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng