Hiệp định RCEP: Vấn đề và triển vọng

Nghiên cứu - Trao đổi
Trong bối cảnh xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên cản trở toàn cầu hóa, việc kết thúc đàm phán Hiệp định đối tác toàn diện khu vực RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership) lần thứ 28 (9/...
aa

Trong bối cảnh xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên cản trở toàn cầu hóa, việc kết thúc đàm phán Hiệp định đối tác toàn diện khu vực RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership) lần thứ 28 (9/2019 tại Đà Nẵng) để triển khai ký kết trong năm 2020 đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của tất cả các nước tham gia RCEP (trừ Ấn Độ). Hiệp định RCEP sẽ góp phần tạo lập cấu trúc thương mại mới trong khu vực, thúc đẩy toàn cầu hóa theo hướng tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại một cách bền vững.

1. Tầm quan trọng của RCEP

RCEP là hiệp định thương mại tự do chất lượng cao kết nối khu vực kinh tế năng động và phát triển nhất hiện nay, bao gồm 10 nước ASEAN và Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), châu Đại Dương (Australia, New Zealand) và Ấn Độ. Mục tiêu của RCEP là phá vỡ các rào cản thương mại, thúc đẩy đầu tư nhằm hỗ trợ các thị trường, các nền kinh tế mới nổi bắt kịp với phần còn lại của thế giới. Hiệp định RCEP quan trọng chủ yếu bởi vì RCEP không bao gồm Mỹ và được hậu thuẫn bởi Bắc Kinh. Các nước thành viên RCEP có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các nền kinh tế Mỹ và châu Âu. Nhiều quốc gia RCEP có dân số trẻ. Vì vậy, RCEP được coi là động lực tăng trưởng mới cho thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, RCEP hội tụ những yếu tố cơ bản sau:



Tham gia RCEP, Việt Nam có cơ hội tăng thêm từ 2-4% GDP năm 2020

Một là, RCEP là FTA duy nhất hội tụ đa dạng, không đồng nhất từ các nền kinh tế lớn nhất thế giới (Trung Quốc và Nhật Bản), các nền kinh tế có thu nhập bình quân đầu người cao (Singapore, New Zealand, Brunei, Australia), các nền kinh tế công nghiệp hóa (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc), các nền kinh tế có thu nhập trung bình với nguồn tài nguyên thiên nhiên rộng lớn (Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philippines, Việt Nam) và các nền kinh tế có thu nhập thấp, kém phát triển (Campuchia, Lào, Myanmar).

Hai là, ASEAN là trung tâm của RCEP. Trong khi các thành viên không thuộc ASEAN của RCEP được kết nối với ASEAN thông qua các FTA ASEAN + 1. Tương lai, RCEP ​​sẽ thay thế tất cả các FTA ASEAN+1. RCEP là triển vọng sáng sủa đối với ASEAN và Trung Quốc. Hiện ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ hai của Trung Quốc. Khi RCEP được ký kết vào năm 2020, ​​thương mại và đầu tư giữa ASEAN - Trung Quốc sẽ tăng nhanh và ảnh hưởng tích cực đến chuỗi giá trị khu vực.

Ba là, RCEP có phạm vi mở rộng hơn. So với các FTA ASEAN + 1, thì RCEP có khả năng tiếp cận lớn hơn nhiều. RCEP loại bỏ thuế quan đối với gần 90% hàng hóa giao dịch; quy tắc xuất xứ có giá trị trong toàn bộ khu vực địa lý RCEP; quy định rõ ràng hơn về thương mại dịch vụ và đầu tư nước ngoài xuyên biên giới; nhiều quy tắc mới về tạo thuận lợi cho thương mại điện tử.

Hiệp định RCEP kết thúc đàm phán tháng 9/2019 và dự định ký kết năm 2020. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), việc ký kết thành công hiệp định RCEP sẽ cung cấp lợi ích thu nhập toàn cầu khoảng 260 tỷ USD1. Khi RCEP được thực thi sẽ tạo ra một thị trường với quy mô khoảng 3,5 tỷ người tiêu dùng và GDP xấp xỉ 49.000 tỷ USD, chiếm khoảng 39% GDP toàn cầu và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hải quan, quy tắc xuất xứ tạo thuận lợi cho thương mại.

Hiệp định RCEP hướng tới mục tiêu hình thành quan hệ đối tác toàn diện giữa khối ASEAN với 6 đối tác (ASEAN + 6). RCEP do ASEAN lãnh đạo và được Trung Quốc hỗ trợ tích cực bởi với Trung Quốc, RCEP có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển những ngành chế tạo đang gặp vấn đề của Trung Quốc. RCEP chủ yếu tập trung vào việc cắt giảm thuế quan và tự do hóa dịch vụ, được bắt đầu sớm hơn trên một số phương diện dựa trên quy tắc hoạt động và không có sự phân biệt đối xử nhằm tạo thuận lợi hóa thương mại trong khuyến khích hợp tác khu vực. Nội dung của 20 chương hiệp định RCEP đã được các nước tham gia đàm phán thống nhất, trừ Ấn Độ.

Do RCEP gồm nhiều đối tác ở các trình độ phát triển khác nhau, thậm chí là mức độ tự do hoá của các thành viên cũng khác nhau nên quá trình đàm phán gặp rất nhiều khó khăn. Mục tiêu kỳ vọng RCEP là nâng cao mức hợp lý về thuế quan, hài hòa về quy tắc xuất xứ, chuẩn hóa ở mức phù hợp về các hàng rào phi thuế quan. Tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại giữa các thành viên.

2. RCEP với Việt Nam

Hiệp định RCEP sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho Việt Nam trên những khía cạnh sau:

Thứ nhất, tiếp cận dễ dàng hơn tới các thị trường đầu tư và xuất khẩu của ASEAN và các đối tác. RCEP là khu vực có quy mô thị trường lớn nhất từ trước đến nay mà Việt Nam đã tham gia. Các doanh nghiệp kỳ vọng RCEP sẽ tạo ra một thị trường “khổng lồ”. Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường với sự đa dạng về nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ. Đặc biệt là được tiếp cận với thị trường mua sắm chính phủ (vốn lâu nay vẫn bị đóng cửa để dành cho doanh nghiệp trong nước).

Cơ hội xuất, nhập khẩu từ RCEP, ưu đãi thuế quan sẽ được cải thiện hơn, quy tắc xuất xứ nội khối được hài hòa, dễ đáp ứng; thống nhất trong các quy trình về hải quan, tạo thuận lợi thương mại; giảm chi phí dưới tác động của mở cửa thị trường dịch vụ sản xuất. Tham gia RCEP, Việt Nam có cơ hội tăng thêm từ 2 - 4% GDP (2020) so với trường hợp không tham gia2. RCEP chiếm 32,5% luồng vốn đầu tư toàn cầu, ký kết RCEP giúp cho các nhà đầu tư được đối xử công bằng, bình đẳng, được bảo hộ an toàn và đẩy đủ.

Thứ hai, mở cơ hội đẩy mạnh xuất - nhập khẩu hàng hóa rẻ hơn (là đầu vào cho sản xuất) và máy móc thiết bị có công nghệ hiện đại phù hợp. Khi RCEP được ký kết và có hiệu lực, nguồn nguyên liệu sản xuất doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu từ các nước trong khối ASEAN + 6 sẽ được xem như là nguồn nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam khi xuất khẩu sản phẩm sang các nước có ký kết hiệp định song phương, đa phương với Việt Nam. Nhập khẩu hàng hóa rẻ hơn như thép của Trung Quốc, sản phẩm nhựa của Hàn Quốc và Nhật Bản. RCEP tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu máy móc thiệt bị hiện đại phù hợp từ Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước ASEAN với mức thuế quan hợp lý.

Thứ ba, tham gia vào mạng lưới chuỗi giá trị và sản xuất khu vực. RCEP thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, qua đó giúp tận dụng cơ hội trong chuỗi giá trị. RCEP bao trùm toàn bộ chuỗi sản xuất một số loại hàng hóa của Việt Nam. Ví dụ, trong lĩnh vực dệt - may, do CPTPP không có Trung Quốc tham gia, nên Việt Nam khó tận dụng ưu đãi thuế quan bởi nguyên liệu dệt - may chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng nhờ Trung Quốc tham gia RCEP. Chính điều này tạo ra sự khác biệt rất lớn giữa RCEP và các hiệp định thương mại tự do khác.

Các thị trường trong khối RCEP hiện bao trùm gần như toàn bộ chuỗi sản xuất của nhiều loại hàng hóa mà Việt Nam có thế mạnh, như sản phẩm điện tử, dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến... Ngành dệt may với chi phí sản xuất thấp, tham gia RCEP giúp các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tiếp cận sâu rộng hơn các thị trường tiêu dùng giàu có Australia, New Zealand và Trung Quốc. Với sự tham gia của các đối tác là nguồn cung nguyên liệu lớn cho Việt Nam (Trung Quốc, Hàn Quốc...), việc hài hòa quy tắc xuất xứ cùng các quy định tạo thuận lợi thương mại trong RCEP sẽ tạo ra những chuỗi giá trị khu vực mới, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt hơn các ưu đãi thuế quan trong RCEP.

Thứ tư, cắt giảm chi phí giao dịch và hưởng môi trường kinh doanh thân thiện hơn. RCEP là thị trường có mức độ phát triển kinh tế mạnh nên nhu cầu rất lớn. Đặc điểm của người tiêu dùng trong RCEP (16 nước) không đòi hỏi quá cao về chất lượng sản phẩm. Thị trường RCEP có nhu cầu lớn với sản phẩm mà Việt Nam có thế mạnh như điện thoại, sản phẩm điện tử, dệt - may, giày - dép... nhờ hài hòa hóa các quy định hiện hành và áp dụng chung trong các FTA khác nhau của ASEAN, ưu đãi thuế quan được cải thiện hơn nữa, quy tắc xuất xứ nội khối được hài hòa, dễ đáp ứng hơn. Bên cạnh đó, các quy trình về hải quan sẽ được thống nhất, tạo thuận lợi thương mại. RCEP có đàm phán mở cửa tốt hơn cho ngành dịch vụ hậu cần logistics, viễn thông...; nền tảng thương mại điện tử tốt hơn, môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, cạnh tranh hơn.

Dù kịch bản RCEP 16 (có Ấn Độ) hay RCEP 15 (không có Ấn Độ) với bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung vẫn tiếp diễn, thì Việt Nam đều được cho là quốc gia hưởng lợi nhiều nhất, với tác động tăng 0,70% GDP (RCEP 16) hoặc 0,66% (RCEP 15) tới năm 20303.

3. Triển vọng của RCEP

Ấn Độ không tham gia RCEP trong khi tăng trưởng của Ấn Độ đòi hỏi động lực xuất khẩu sang các thị trường châu Á, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, bao gồm những lĩnh vực phần mềm mà Ấn Độ có lợi thế. Nếu tham gia RCEP, các doanh nghiệp xuất khẩu Ấn Độ có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, mang lợi ích và hỗ trợ tạo thêm việc làm cho Ấn Độ. Thiếu RCEP, sự hội nhập của Ấn Độ với châu Á sẽ khó được thực hiện. (Bảng 1)

Trên lý thuyết, tự do hóa thương mại đem đến nhiều những tác động tích cực cho nền kinh tế, nhưng thực tế, trong bối cảnh khu vực - đặc biệt là nỗi lo với vị thế áp đảo của Trung Quốc - khiến quyết định của Ấn Độ chưa tham gia RCEP trong tình hình hiện tại là bởi những lý do căn bản sau:

Thứ nhất, Ấn Độ chưa thỏa mãn các yêu cầu trong RCEP. Nhu cầu cốt lõi của Ấn Độ là sớm được cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường cho những ngành thế mạnh không được đáp ứng, duy trì thuế quan đối với một số mặt hàng nông sản nhạy cảm và kéo dài lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng khác, nhưng đề xuất này không được giải quyết thỏa đáng. Thực tế, Ấn Độ đang chịu mức thâm hụt thương mại lớn, khoảng 105 tỷ USD với các nước RCEP, chỉ riêng thâm hụt với Trung Quốc đã lên tới mức 58 tỷ USD (2018)4- chiếm một nửa tổng thâm hụt thương mại của Ấn Độ với các nước RCEP. Do thâm hụt thương mại lớn với Trung Quốc nên Ấn Độ muốn có nhiều biện pháp bảo hộ hơn trong hiệp định RCEP. Thâm hụt sẽ gia tăng nhanh nếu Ấn Độ tham gia vào RCEP mà không đưa ra các cải cách bổ sung để tăng sức cạnh tranh trong nước.

Nếu Ấn Độ quyết định gia nhập, Ấn Độ sẽ phải hủy bỏ thuế quan cho gần 90% các sản phẩm thương mại với ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc; khoảng 74% các sản phẩm với Trung Quốc, Úc và New Zealand, những mức thuế mới chắc chắn sẽ làm thâm hụt thương mại của Ấn Độ tăng thêm.

Thứ hai, tham gia RCEP sẽ đẩy các doanh nghiệp và nông dân Ấn Độ vào cuộc cạnh tranh khốc liệt với “những người khổng lồ” từ các quốc gia khác. Ngành công nghiệp nội địa sẽ bị ảnh hưởng khi hàng giá rẻ Trung Quốc tràn vào. Nông sản Úc, New Zeland sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới nông dân Ấn Độ. Ngành sữa và các sản phẩm từ sữa cũng như lĩnh vực nông nghiệp ở Ấn Độ cũng sẽ bị tác động dưới cơ chế RCEP. Điều này tác động đến các ngành công nghiệp trong nước và làm tổn thương sáng kiến “Made in India” của Chính quyền Modi.

Thứ ba, những lo lắng về tình hình kinh tế trong nước. Kinh tế Ấn Độ đang trải qua khoảng thời gian khó khăn. Tăng trưởng GDP chậm lại trong quý thứ 5 liên tiếp kể từ quý I/ 2018. Khi Ấn Độ đang phải giải chịu nhiều áp lực trong việc giải quyết tình hình kinh tế trong nước thì thỏa thuận thương mại lớn như RCEP, theo Ấn Độ chỉ có lợi cho tầng lớp người giàu, thay vì người nghèo, tác động tiêu cực đến cuộc sống của những người nghèo trong xã hội và hàng triệu người sẽ bị mất việc làm do hàng hóa giá rẻ tràn vào. Nhiều hãng sản xuất Ấn Độ cảnh báo về khả năng hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường Ấn Độ, trong đó, dệt may, sữa và nông nghiệp là ba ngành dễ bị tổn thương nhất.

Vấn đề nội tại cơ bản của nền kinh tế Ấn Độ là quy mô sản xuất hàng hóa nhỏ và thiếu một nền kinh tế hướng vào xuất khẩu đủ sức cạnh tranh. Không giống nhiều nước trong RCEP, Ấn Độ không có lĩnh vực sản xuất đủ sức cạnh tranh vào các thị trường nước ngoài thông qua hiệp định RCEP. Ấn Độ muốn mở rộng phạm vi hiệp định RCEP sang cả lĩnh vực dịch vụ, chứ không chỉ đơn thuần là hàng hóa sản xuất. Bởi lĩnh vực dịch vụ, Ấn Độ là một trong những nước đi đầu khu vực. Lĩnh vực dịch vụ mà Ấn Độ có lợi thế so sánh - cung ứng phần mềm, viễn thông, dịch vụ giáo dục... lại không được tự do hóa. Ấn Độ muốn thay đổi hiệp định theo hướng có lợi hơn cho các doanh nghiệp Ấn Độ.

Thứ tư, mục tiêu của Ấn Độ với chiến lược “hướng Tây”. Ấn Độ muốn tìm thỏa thuận thương mại với Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) - nơi ngành công nghiệp và dịch vụ Ấn Độ có tính cạnh tranh và hưởng lợi lớn trong tiếp cận các thị trường phát triển. Các lĩnh vực như đá quý, dệt may, nông sản đang tạo động lực để Ấn Độ ký thỏa thuận thương mại với EU. Ấn Độ muốn ký Hiệp định tự do mậu dịch không chỉ liên quan đến hàng hóa gia công vốn là ưu thế của Trung Quốc, mà còn phải liên quan đến các ngành dịch vụ bởi Ấn Độ là quốc gia dẫn đầu khu vực trong lĩnh vực dịch vụ.

Mỹ được xem là đối tác quan trọng nhất toàn cầu của Ấn Độ5. Bởi Ấn Độ kỳ vọng, việc hợp tác với Mỹ và EU sẽ mang lại giải pháp trong việc cản trở sự bành trướng của Trung Quốc và giúp Ấn Độ đạt được nhiều cải cách để phát triển nền kinh tế. Bên cạnh mục tiêu rút ngắn thâm hụt thương mại, Ấn Độ mong muốn việc hợp tác với Mỹ và EU sẽ mang lại sự đảm bảo về kinh tế lẫn chính trị, giúp Ấn Độ củng cố vị trí và đủ sức cạnh tranh với các cường quốc khác như Trung Quốc.

Trong bối cảnh khó khăn do chiến tranh thương mại với Mỹ, Trung Quốc muốn tiếp cận sâu hơn vào thị trường Ấn Độ vốn có tiềm năng to lớn và RCEP là cơ hội đặc biệt. Thương mại hai chiều giữa Ấn Độ và Trung Quốc đạt mức 95,5 tỷ USD trong năm 20186. Rút khỏi RCEP, Ấn Độ sẽ chịu nhiều bất lợi bởi lẽ, Ấn Độ hiện nằm ngoài cả hai khối thương mại, vốn được cho là sẽ xác định tương lai của toàn bộ châu Á, đó là RCEP và CPTPP7. Đây là tín hiệu không sáng sủa cho tương lai của Ấn Độ khi quốc gia đang cam kết cải cách kinh tế và thương mại. Rút khỏi RCEP Ấn Độ cũng đánh mất cơ hội tăng cường chiến lược của Ấn Độ với khu vực. Hiện khoảng 20% hàng hóa của Ấn Độ xuất khẩu tới các quốc gia RCEP và 35% hàng hóa nhập khẩu của Ấn Độ từ các quốc gia RCEP.

Ấn Độ không ký được RCEP là đòn giáng mạnh vào những quốc gia ủng hộ thương mại tự do, nhất là đối với Bắc Kinh, bởi Trung Quốc luôn có tham vọng mở rộng quan hệ đối tác khi bị chính quyền Mỹ “kìm hãm” phát triển kinh tế bằng chiến tranh thương mại.

Kết luận, so với CPTPP thì RCEP lớn hơn bởi dân số và nền kinh tế RCEP lớn hơn. Hiệp định RCEP là FTA “toàn diện” hơn vì bao gồm cả các nền kinh tế kém phát triển, thu nhập thấp cũng như thu nhập cao và thu nhập trung bình. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi của khu vực và thế giới (hòa bình và hợp tác, tự do hóa thương mại vẫn là xu thế lớn), RCEP vẫn tồn tại nhiều thách thức, tiềm ẩn nhiều nguy cơ không chỉ do căng thẳng thương mại mà còn bị tác động bởi bất ổn chính trị cũng như mức độ tăng trưởng thấp, không duy trì cao như trước. Tuy nhiên, RCEP đã vượt qua những thách thức và kết thúc đàm phán đánh dấu triển vọng tích cực cho thương mại toàn cầu.

Hiện các vấn đề và lo ngại của Ấn Độ chưa được giải quyết nên Ấn Độ chưa thể tham gia Hiệp định RCEP. Tuy nhiên, Ấn Độ vẫn có sự lựa chọn tham gia sau này ngay cả khi RCEP đã được ký kết. Vì vậy, khả năng Ấn Độ gia nhập RCEP trong tương lai không bị loại trừ bởi tự do hóa thương mại không bao giờ đóng đối với bất kỳ quốc gia nào.

___________

[1] Hạnh Nhi (2019), RCEP - tình hình và tương lai của hiệp định; https://baothuathienhue.vn/rcep-tinh-hinh-va-tuong-lai-cua-hiep-dinh-a79372.html

[2] Cơ hội từ Hiệp định đối tác toàn diện khu vực RCEP; http://baoninhthuan.com.vn/news/74123p1c25/co-hoi-tu-hiep-dinh-doi-tac-toan-dien-khu-vuc.htm

[3] Renuka Mahadevan và Anda Nugruho (2019), Ấn Độ rút khỏi RCEP: Họ nói không với ai và vì sao? World Economy Journal N 8/2019. https://cuoituan.tuoitre.vn/tin/20191118/an-do-rut-khoi-rcep-ho-noi-khong-voi-ai-va-vi-sao/1547945.html

[4] Vì sao Ấn Độ rút khỏi Hiệp định RCEP; https://enternews.vn/vi-sao-an-do-rut-khoi-hiep-dinh-rcep-160827.html

[5] Cẩm Anh 92019), Ấn Độ và chiến lược “hướng Tây”, https://enternews.vn/toan-tinh-cua-an-do-khi-chuyen-huong-sang-phuong-tay-161234.html

[6] Hà Linh (2019), Lý do Ấn Độ nói không với Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, Báo

[7] CPTPP: Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (TPP-11)

Tài liệu tham khảo:

Thảo Nguyên (2019), Nhiều kỳ vọng từ Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), TTXVN ngày 5/11/2019.

Ngọc Quang (2019), RCEP sẽ mở thêm cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài; https://baotintuc.vn/thoi-su/rcep-se-mo-them-co-hoi-cho-doanh-nghiep-viet-nam-va-tang-cuong-thu-hut-dau-tu-nuoc-ngoai-20191104135832874.htm

Mạnh Đức (2019), Tận dụng cơ hội từ RCEP: Mở rộng xuất khẩu, tham gia sâu hơn chuỗi giá trị; http://vneconomy.vn/tan-dung-co-hoi-tu-rcep-mo-rong-xuat-khau-tham-gia-sau-hon-chuoi-gia-tri-20190926113126731.htm

Mie Oba (2019), RCEP Negotiations for the Reshaping of the Liberal Economic Order; Trade and Economic Connectivity in the Age of Uncertainty; https://www.kas.de/documents/288143/6741384/panorama_trade_MieOba_RCEPNegotiations+fortheReshapingoftheLiberalEconomicOrder.pdf/54b8853c-6052-ab61-d82e-e1bcdff1f92e?t=1564644954394

Amitendu Palit (2019), RCEP a positive signal for global trade, China Daily 8 November 2019.

PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình
ThS. Lê Thị Thu Hương


Theo TCNH số 4/2020

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Chính sách tiền tệ đòi hỏi sự linh hoạt và sự kết hợp của nhiều biện pháp khác nhau, tương tự như nghệ thuật chiến tranh được mô tả trong chuyên luận nổi tiếng của Tôn Tử. Các ngân hàng trung ương (NHTW) có thể học được điều gì đó từ một chiến lược gia người Trung Quốc sống cách đây hơn 2.500 năm. Bài viết giới thiệu sáu nguyên tắc chiến lược được vận dụng tư tưởng của Tôn Tử dành cho các NHTW, được đề xuất bởi Giáo sư Kristin Forbes - Trường Quản lý Sloan thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), nhằm qua đó, giúp họ quản lý hiệu quả các khủng hoảng và duy trì sự ổn định kinh tế.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc