Hiệp định RCEP: Vấn đề và triển vọng

Nghiên cứu - Trao đổi
Trong bối cảnh xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên cản trở toàn cầu hóa, việc kết thúc đàm phán Hiệp định đối tác toàn diện khu vực RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership) lần thứ 28 (9/...
aa

Trong bối cảnh xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên cản trở toàn cầu hóa, việc kết thúc đàm phán Hiệp định đối tác toàn diện khu vực RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership) lần thứ 28 (9/2019 tại Đà Nẵng) để triển khai ký kết trong năm 2020 đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của tất cả các nước tham gia RCEP (trừ Ấn Độ). Hiệp định RCEP sẽ góp phần tạo lập cấu trúc thương mại mới trong khu vực, thúc đẩy toàn cầu hóa theo hướng tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại một cách bền vững.

1. Tầm quan trọng của RCEP

RCEP là hiệp định thương mại tự do chất lượng cao kết nối khu vực kinh tế năng động và phát triển nhất hiện nay, bao gồm 10 nước ASEAN và Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), châu Đại Dương (Australia, New Zealand) và Ấn Độ. Mục tiêu của RCEP là phá vỡ các rào cản thương mại, thúc đẩy đầu tư nhằm hỗ trợ các thị trường, các nền kinh tế mới nổi bắt kịp với phần còn lại của thế giới. Hiệp định RCEP quan trọng chủ yếu bởi vì RCEP không bao gồm Mỹ và được hậu thuẫn bởi Bắc Kinh. Các nước thành viên RCEP có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các nền kinh tế Mỹ và châu Âu. Nhiều quốc gia RCEP có dân số trẻ. Vì vậy, RCEP được coi là động lực tăng trưởng mới cho thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, RCEP hội tụ những yếu tố cơ bản sau:



Tham gia RCEP, Việt Nam có cơ hội tăng thêm từ 2-4% GDP năm 2020

Một là, RCEP là FTA duy nhất hội tụ đa dạng, không đồng nhất từ các nền kinh tế lớn nhất thế giới (Trung Quốc và Nhật Bản), các nền kinh tế có thu nhập bình quân đầu người cao (Singapore, New Zealand, Brunei, Australia), các nền kinh tế công nghiệp hóa (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc), các nền kinh tế có thu nhập trung bình với nguồn tài nguyên thiên nhiên rộng lớn (Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philippines, Việt Nam) và các nền kinh tế có thu nhập thấp, kém phát triển (Campuchia, Lào, Myanmar).

Hai là, ASEAN là trung tâm của RCEP. Trong khi các thành viên không thuộc ASEAN của RCEP được kết nối với ASEAN thông qua các FTA ASEAN + 1. Tương lai, RCEP ​​sẽ thay thế tất cả các FTA ASEAN+1. RCEP là triển vọng sáng sủa đối với ASEAN và Trung Quốc. Hiện ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ hai của Trung Quốc. Khi RCEP được ký kết vào năm 2020, ​​thương mại và đầu tư giữa ASEAN - Trung Quốc sẽ tăng nhanh và ảnh hưởng tích cực đến chuỗi giá trị khu vực.

Ba là, RCEP có phạm vi mở rộng hơn. So với các FTA ASEAN + 1, thì RCEP có khả năng tiếp cận lớn hơn nhiều. RCEP loại bỏ thuế quan đối với gần 90% hàng hóa giao dịch; quy tắc xuất xứ có giá trị trong toàn bộ khu vực địa lý RCEP; quy định rõ ràng hơn về thương mại dịch vụ và đầu tư nước ngoài xuyên biên giới; nhiều quy tắc mới về tạo thuận lợi cho thương mại điện tử.

Hiệp định RCEP kết thúc đàm phán tháng 9/2019 và dự định ký kết năm 2020. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), việc ký kết thành công hiệp định RCEP sẽ cung cấp lợi ích thu nhập toàn cầu khoảng 260 tỷ USD1. Khi RCEP được thực thi sẽ tạo ra một thị trường với quy mô khoảng 3,5 tỷ người tiêu dùng và GDP xấp xỉ 49.000 tỷ USD, chiếm khoảng 39% GDP toàn cầu và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hải quan, quy tắc xuất xứ tạo thuận lợi cho thương mại.

Hiệp định RCEP hướng tới mục tiêu hình thành quan hệ đối tác toàn diện giữa khối ASEAN với 6 đối tác (ASEAN + 6). RCEP do ASEAN lãnh đạo và được Trung Quốc hỗ trợ tích cực bởi với Trung Quốc, RCEP có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển những ngành chế tạo đang gặp vấn đề của Trung Quốc. RCEP chủ yếu tập trung vào việc cắt giảm thuế quan và tự do hóa dịch vụ, được bắt đầu sớm hơn trên một số phương diện dựa trên quy tắc hoạt động và không có sự phân biệt đối xử nhằm tạo thuận lợi hóa thương mại trong khuyến khích hợp tác khu vực. Nội dung của 20 chương hiệp định RCEP đã được các nước tham gia đàm phán thống nhất, trừ Ấn Độ.

Do RCEP gồm nhiều đối tác ở các trình độ phát triển khác nhau, thậm chí là mức độ tự do hoá của các thành viên cũng khác nhau nên quá trình đàm phán gặp rất nhiều khó khăn. Mục tiêu kỳ vọng RCEP là nâng cao mức hợp lý về thuế quan, hài hòa về quy tắc xuất xứ, chuẩn hóa ở mức phù hợp về các hàng rào phi thuế quan. Tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại giữa các thành viên.

2. RCEP với Việt Nam

Hiệp định RCEP sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho Việt Nam trên những khía cạnh sau:

Thứ nhất, tiếp cận dễ dàng hơn tới các thị trường đầu tư và xuất khẩu của ASEAN và các đối tác. RCEP là khu vực có quy mô thị trường lớn nhất từ trước đến nay mà Việt Nam đã tham gia. Các doanh nghiệp kỳ vọng RCEP sẽ tạo ra một thị trường “khổng lồ”. Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường với sự đa dạng về nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ. Đặc biệt là được tiếp cận với thị trường mua sắm chính phủ (vốn lâu nay vẫn bị đóng cửa để dành cho doanh nghiệp trong nước).

Cơ hội xuất, nhập khẩu từ RCEP, ưu đãi thuế quan sẽ được cải thiện hơn, quy tắc xuất xứ nội khối được hài hòa, dễ đáp ứng; thống nhất trong các quy trình về hải quan, tạo thuận lợi thương mại; giảm chi phí dưới tác động của mở cửa thị trường dịch vụ sản xuất. Tham gia RCEP, Việt Nam có cơ hội tăng thêm từ 2 - 4% GDP (2020) so với trường hợp không tham gia2. RCEP chiếm 32,5% luồng vốn đầu tư toàn cầu, ký kết RCEP giúp cho các nhà đầu tư được đối xử công bằng, bình đẳng, được bảo hộ an toàn và đẩy đủ.

Thứ hai, mở cơ hội đẩy mạnh xuất - nhập khẩu hàng hóa rẻ hơn (là đầu vào cho sản xuất) và máy móc thiết bị có công nghệ hiện đại phù hợp. Khi RCEP được ký kết và có hiệu lực, nguồn nguyên liệu sản xuất doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu từ các nước trong khối ASEAN + 6 sẽ được xem như là nguồn nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam khi xuất khẩu sản phẩm sang các nước có ký kết hiệp định song phương, đa phương với Việt Nam. Nhập khẩu hàng hóa rẻ hơn như thép của Trung Quốc, sản phẩm nhựa của Hàn Quốc và Nhật Bản. RCEP tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu máy móc thiệt bị hiện đại phù hợp từ Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước ASEAN với mức thuế quan hợp lý.

Thứ ba, tham gia vào mạng lưới chuỗi giá trị và sản xuất khu vực. RCEP thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, qua đó giúp tận dụng cơ hội trong chuỗi giá trị. RCEP bao trùm toàn bộ chuỗi sản xuất một số loại hàng hóa của Việt Nam. Ví dụ, trong lĩnh vực dệt - may, do CPTPP không có Trung Quốc tham gia, nên Việt Nam khó tận dụng ưu đãi thuế quan bởi nguyên liệu dệt - may chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng nhờ Trung Quốc tham gia RCEP. Chính điều này tạo ra sự khác biệt rất lớn giữa RCEP và các hiệp định thương mại tự do khác.

Các thị trường trong khối RCEP hiện bao trùm gần như toàn bộ chuỗi sản xuất của nhiều loại hàng hóa mà Việt Nam có thế mạnh, như sản phẩm điện tử, dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến... Ngành dệt may với chi phí sản xuất thấp, tham gia RCEP giúp các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tiếp cận sâu rộng hơn các thị trường tiêu dùng giàu có Australia, New Zealand và Trung Quốc. Với sự tham gia của các đối tác là nguồn cung nguyên liệu lớn cho Việt Nam (Trung Quốc, Hàn Quốc...), việc hài hòa quy tắc xuất xứ cùng các quy định tạo thuận lợi thương mại trong RCEP sẽ tạo ra những chuỗi giá trị khu vực mới, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt hơn các ưu đãi thuế quan trong RCEP.

Thứ tư, cắt giảm chi phí giao dịch và hưởng môi trường kinh doanh thân thiện hơn. RCEP là thị trường có mức độ phát triển kinh tế mạnh nên nhu cầu rất lớn. Đặc điểm của người tiêu dùng trong RCEP (16 nước) không đòi hỏi quá cao về chất lượng sản phẩm. Thị trường RCEP có nhu cầu lớn với sản phẩm mà Việt Nam có thế mạnh như điện thoại, sản phẩm điện tử, dệt - may, giày - dép... nhờ hài hòa hóa các quy định hiện hành và áp dụng chung trong các FTA khác nhau của ASEAN, ưu đãi thuế quan được cải thiện hơn nữa, quy tắc xuất xứ nội khối được hài hòa, dễ đáp ứng hơn. Bên cạnh đó, các quy trình về hải quan sẽ được thống nhất, tạo thuận lợi thương mại. RCEP có đàm phán mở cửa tốt hơn cho ngành dịch vụ hậu cần logistics, viễn thông...; nền tảng thương mại điện tử tốt hơn, môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, cạnh tranh hơn.

Dù kịch bản RCEP 16 (có Ấn Độ) hay RCEP 15 (không có Ấn Độ) với bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung vẫn tiếp diễn, thì Việt Nam đều được cho là quốc gia hưởng lợi nhiều nhất, với tác động tăng 0,70% GDP (RCEP 16) hoặc 0,66% (RCEP 15) tới năm 20303.

3. Triển vọng của RCEP

Ấn Độ không tham gia RCEP trong khi tăng trưởng của Ấn Độ đòi hỏi động lực xuất khẩu sang các thị trường châu Á, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, bao gồm những lĩnh vực phần mềm mà Ấn Độ có lợi thế. Nếu tham gia RCEP, các doanh nghiệp xuất khẩu Ấn Độ có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, mang lợi ích và hỗ trợ tạo thêm việc làm cho Ấn Độ. Thiếu RCEP, sự hội nhập của Ấn Độ với châu Á sẽ khó được thực hiện. (Bảng 1)

Trên lý thuyết, tự do hóa thương mại đem đến nhiều những tác động tích cực cho nền kinh tế, nhưng thực tế, trong bối cảnh khu vực - đặc biệt là nỗi lo với vị thế áp đảo của Trung Quốc - khiến quyết định của Ấn Độ chưa tham gia RCEP trong tình hình hiện tại là bởi những lý do căn bản sau:

Thứ nhất, Ấn Độ chưa thỏa mãn các yêu cầu trong RCEP. Nhu cầu cốt lõi của Ấn Độ là sớm được cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường cho những ngành thế mạnh không được đáp ứng, duy trì thuế quan đối với một số mặt hàng nông sản nhạy cảm và kéo dài lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng khác, nhưng đề xuất này không được giải quyết thỏa đáng. Thực tế, Ấn Độ đang chịu mức thâm hụt thương mại lớn, khoảng 105 tỷ USD với các nước RCEP, chỉ riêng thâm hụt với Trung Quốc đã lên tới mức 58 tỷ USD (2018)4- chiếm một nửa tổng thâm hụt thương mại của Ấn Độ với các nước RCEP. Do thâm hụt thương mại lớn với Trung Quốc nên Ấn Độ muốn có nhiều biện pháp bảo hộ hơn trong hiệp định RCEP. Thâm hụt sẽ gia tăng nhanh nếu Ấn Độ tham gia vào RCEP mà không đưa ra các cải cách bổ sung để tăng sức cạnh tranh trong nước.

Nếu Ấn Độ quyết định gia nhập, Ấn Độ sẽ phải hủy bỏ thuế quan cho gần 90% các sản phẩm thương mại với ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc; khoảng 74% các sản phẩm với Trung Quốc, Úc và New Zealand, những mức thuế mới chắc chắn sẽ làm thâm hụt thương mại của Ấn Độ tăng thêm.

Thứ hai, tham gia RCEP sẽ đẩy các doanh nghiệp và nông dân Ấn Độ vào cuộc cạnh tranh khốc liệt với “những người khổng lồ” từ các quốc gia khác. Ngành công nghiệp nội địa sẽ bị ảnh hưởng khi hàng giá rẻ Trung Quốc tràn vào. Nông sản Úc, New Zeland sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới nông dân Ấn Độ. Ngành sữa và các sản phẩm từ sữa cũng như lĩnh vực nông nghiệp ở Ấn Độ cũng sẽ bị tác động dưới cơ chế RCEP. Điều này tác động đến các ngành công nghiệp trong nước và làm tổn thương sáng kiến “Made in India” của Chính quyền Modi.

Thứ ba, những lo lắng về tình hình kinh tế trong nước. Kinh tế Ấn Độ đang trải qua khoảng thời gian khó khăn. Tăng trưởng GDP chậm lại trong quý thứ 5 liên tiếp kể từ quý I/ 2018. Khi Ấn Độ đang phải giải chịu nhiều áp lực trong việc giải quyết tình hình kinh tế trong nước thì thỏa thuận thương mại lớn như RCEP, theo Ấn Độ chỉ có lợi cho tầng lớp người giàu, thay vì người nghèo, tác động tiêu cực đến cuộc sống của những người nghèo trong xã hội và hàng triệu người sẽ bị mất việc làm do hàng hóa giá rẻ tràn vào. Nhiều hãng sản xuất Ấn Độ cảnh báo về khả năng hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường Ấn Độ, trong đó, dệt may, sữa và nông nghiệp là ba ngành dễ bị tổn thương nhất.

Vấn đề nội tại cơ bản của nền kinh tế Ấn Độ là quy mô sản xuất hàng hóa nhỏ và thiếu một nền kinh tế hướng vào xuất khẩu đủ sức cạnh tranh. Không giống nhiều nước trong RCEP, Ấn Độ không có lĩnh vực sản xuất đủ sức cạnh tranh vào các thị trường nước ngoài thông qua hiệp định RCEP. Ấn Độ muốn mở rộng phạm vi hiệp định RCEP sang cả lĩnh vực dịch vụ, chứ không chỉ đơn thuần là hàng hóa sản xuất. Bởi lĩnh vực dịch vụ, Ấn Độ là một trong những nước đi đầu khu vực. Lĩnh vực dịch vụ mà Ấn Độ có lợi thế so sánh - cung ứng phần mềm, viễn thông, dịch vụ giáo dục... lại không được tự do hóa. Ấn Độ muốn thay đổi hiệp định theo hướng có lợi hơn cho các doanh nghiệp Ấn Độ.

Thứ tư, mục tiêu của Ấn Độ với chiến lược “hướng Tây”. Ấn Độ muốn tìm thỏa thuận thương mại với Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) - nơi ngành công nghiệp và dịch vụ Ấn Độ có tính cạnh tranh và hưởng lợi lớn trong tiếp cận các thị trường phát triển. Các lĩnh vực như đá quý, dệt may, nông sản đang tạo động lực để Ấn Độ ký thỏa thuận thương mại với EU. Ấn Độ muốn ký Hiệp định tự do mậu dịch không chỉ liên quan đến hàng hóa gia công vốn là ưu thế của Trung Quốc, mà còn phải liên quan đến các ngành dịch vụ bởi Ấn Độ là quốc gia dẫn đầu khu vực trong lĩnh vực dịch vụ.

Mỹ được xem là đối tác quan trọng nhất toàn cầu của Ấn Độ5. Bởi Ấn Độ kỳ vọng, việc hợp tác với Mỹ và EU sẽ mang lại giải pháp trong việc cản trở sự bành trướng của Trung Quốc và giúp Ấn Độ đạt được nhiều cải cách để phát triển nền kinh tế. Bên cạnh mục tiêu rút ngắn thâm hụt thương mại, Ấn Độ mong muốn việc hợp tác với Mỹ và EU sẽ mang lại sự đảm bảo về kinh tế lẫn chính trị, giúp Ấn Độ củng cố vị trí và đủ sức cạnh tranh với các cường quốc khác như Trung Quốc.

Trong bối cảnh khó khăn do chiến tranh thương mại với Mỹ, Trung Quốc muốn tiếp cận sâu hơn vào thị trường Ấn Độ vốn có tiềm năng to lớn và RCEP là cơ hội đặc biệt. Thương mại hai chiều giữa Ấn Độ và Trung Quốc đạt mức 95,5 tỷ USD trong năm 20186. Rút khỏi RCEP, Ấn Độ sẽ chịu nhiều bất lợi bởi lẽ, Ấn Độ hiện nằm ngoài cả hai khối thương mại, vốn được cho là sẽ xác định tương lai của toàn bộ châu Á, đó là RCEP và CPTPP7. Đây là tín hiệu không sáng sủa cho tương lai của Ấn Độ khi quốc gia đang cam kết cải cách kinh tế và thương mại. Rút khỏi RCEP Ấn Độ cũng đánh mất cơ hội tăng cường chiến lược của Ấn Độ với khu vực. Hiện khoảng 20% hàng hóa của Ấn Độ xuất khẩu tới các quốc gia RCEP và 35% hàng hóa nhập khẩu của Ấn Độ từ các quốc gia RCEP.

Ấn Độ không ký được RCEP là đòn giáng mạnh vào những quốc gia ủng hộ thương mại tự do, nhất là đối với Bắc Kinh, bởi Trung Quốc luôn có tham vọng mở rộng quan hệ đối tác khi bị chính quyền Mỹ “kìm hãm” phát triển kinh tế bằng chiến tranh thương mại.

Kết luận, so với CPTPP thì RCEP lớn hơn bởi dân số và nền kinh tế RCEP lớn hơn. Hiệp định RCEP là FTA “toàn diện” hơn vì bao gồm cả các nền kinh tế kém phát triển, thu nhập thấp cũng như thu nhập cao và thu nhập trung bình. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi của khu vực và thế giới (hòa bình và hợp tác, tự do hóa thương mại vẫn là xu thế lớn), RCEP vẫn tồn tại nhiều thách thức, tiềm ẩn nhiều nguy cơ không chỉ do căng thẳng thương mại mà còn bị tác động bởi bất ổn chính trị cũng như mức độ tăng trưởng thấp, không duy trì cao như trước. Tuy nhiên, RCEP đã vượt qua những thách thức và kết thúc đàm phán đánh dấu triển vọng tích cực cho thương mại toàn cầu.

Hiện các vấn đề và lo ngại của Ấn Độ chưa được giải quyết nên Ấn Độ chưa thể tham gia Hiệp định RCEP. Tuy nhiên, Ấn Độ vẫn có sự lựa chọn tham gia sau này ngay cả khi RCEP đã được ký kết. Vì vậy, khả năng Ấn Độ gia nhập RCEP trong tương lai không bị loại trừ bởi tự do hóa thương mại không bao giờ đóng đối với bất kỳ quốc gia nào.

___________

[1] Hạnh Nhi (2019), RCEP - tình hình và tương lai của hiệp định; https://baothuathienhue.vn/rcep-tinh-hinh-va-tuong-lai-cua-hiep-dinh-a79372.html

[2] Cơ hội từ Hiệp định đối tác toàn diện khu vực RCEP; http://baoninhthuan.com.vn/news/74123p1c25/co-hoi-tu-hiep-dinh-doi-tac-toan-dien-khu-vuc.htm

[3] Renuka Mahadevan và Anda Nugruho (2019), Ấn Độ rút khỏi RCEP: Họ nói không với ai và vì sao? World Economy Journal N 8/2019. https://cuoituan.tuoitre.vn/tin/20191118/an-do-rut-khoi-rcep-ho-noi-khong-voi-ai-va-vi-sao/1547945.html

[4] Vì sao Ấn Độ rút khỏi Hiệp định RCEP; https://enternews.vn/vi-sao-an-do-rut-khoi-hiep-dinh-rcep-160827.html

[5] Cẩm Anh 92019), Ấn Độ và chiến lược “hướng Tây”, https://enternews.vn/toan-tinh-cua-an-do-khi-chuyen-huong-sang-phuong-tay-161234.html

[6] Hà Linh (2019), Lý do Ấn Độ nói không với Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, Báo

[7] CPTPP: Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (TPP-11)

Tài liệu tham khảo:

Thảo Nguyên (2019), Nhiều kỳ vọng từ Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), TTXVN ngày 5/11/2019.

Ngọc Quang (2019), RCEP sẽ mở thêm cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài; https://baotintuc.vn/thoi-su/rcep-se-mo-them-co-hoi-cho-doanh-nghiep-viet-nam-va-tang-cuong-thu-hut-dau-tu-nuoc-ngoai-20191104135832874.htm

Mạnh Đức (2019), Tận dụng cơ hội từ RCEP: Mở rộng xuất khẩu, tham gia sâu hơn chuỗi giá trị; http://vneconomy.vn/tan-dung-co-hoi-tu-rcep-mo-rong-xuat-khau-tham-gia-sau-hon-chuoi-gia-tri-20190926113126731.htm

Mie Oba (2019), RCEP Negotiations for the Reshaping of the Liberal Economic Order; Trade and Economic Connectivity in the Age of Uncertainty; https://www.kas.de/documents/288143/6741384/panorama_trade_MieOba_RCEPNegotiations+fortheReshapingoftheLiberalEconomicOrder.pdf/54b8853c-6052-ab61-d82e-e1bcdff1f92e?t=1564644954394

Amitendu Palit (2019), RCEP a positive signal for global trade, China Daily 8 November 2019.

PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình
ThS. Lê Thị Thu Hương


Theo TCNH số 4/2020

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng