Hệ thống ngân hàng tỉnh Quảng Trị - 73 năm trưởng thành cùng quê hương

Hoạt động ngân hàng
Trên cơ sở chủ trương, chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 02/1951) đề ra, ngày 6/5/1951, tại Hang Bòng thuộc xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với các nhiệm vụ chủ yếu là: Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý Kho bạc Nhà nước, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
aa

Trên cơ sở chủ trương, chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 02/1951) đề ra, ngày 6/5/1951, tại Hang Bòng thuộc xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với các nhiệm vụ chủ yếu là: Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý Kho bạc Nhà nước, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử, là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta.

Vào đầu tháng 7/1951, tại Khe Cau - chiến khu Ba Lòng, Ngân hàng Quốc gia Chi nhánh tỉnh Quảng Trị được thành lập và chính thức đi vào hoạt động. Trong những ngày cuộc chiến tranh giữ nước bước sang giai đoạn cầm cự, giữa chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa với trăm ngàn gian khó, Ngân hàng Quảng Trị đã cùng với hệ thống ngân hàng trong cả nước góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng, tiến hành khôi phục và phát triển kinh tế, làm căn cứ vững mạnh cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Riêng tỉnh Quảng Trị bị chia cắt làm đôi, sông Bến Hải, cầu Hiền Lương là nơi giới tuyến tạm thời giữa hai miền Nam - Bắc. Vĩnh Linh - mảnh đất đầu giới tuyến với trách nhiệm lớn lao là tiền đồn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương trực tiếp của Cách mạng miền Nam, của Trị Thiên ruột thịt, cuộc chiến đấu lại bước sang một hình thức mới. Hoạt động ngân hàng cũng được chuyển hướng thích hợp, trọng tâm là củng cố hệ thống tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi kinh tế; phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam.

Trong những năm chống Mỹ cứu nước, Quảng Trị là địa đầu phía Nam của miền Bắc - nơi chịu nhiều gian khổ nhất. Ngân hàng đã góp phần tạo lập cơ sở hậu cần cho cuộc kháng chiến của tỉnh Quảng Trị, chống nạn thiếu đói, phục vụ dân sinh, xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp để đáp ứng yêu cầu của lực lượng vũ trang đấu tranh với địch. Bám sát đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong từng thời kỳ, hoạt động của hệ thống ngân hàng tỉnh Quảng Trị trong vùng giới tuyến và các vùng mới được giải phóng đã góp phần đắc lực trong cuộc đấu tranh với địch nhằm bảo vệ hậu phương, bảo vệ nhân dân, phá ách kìm kẹp của địch, mở rộng trận địa lưu hành tiền của ta, thu hút lực lượng và vật chất trong vùng địch kiểm soát nhằm cung ứng cho nhu cầu kháng chiến và dân sinh.

Trong hoàn cảnh khó khăn về kinh tế và trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt với những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đại bộ phận cán bộ ngân hàng đã ra sức rèn luyện cả về hồng, về chuyên, năng động sáng tạo trên mọi lĩnh vực hoạt động, từ hậu phương đến tiền tuyến kể cả hoạt động tiền tệ trong lòng địch, góp phần vào thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Các thế hệ cán bộ ngân hàng đã giữ gìn được phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ cách mạng trên mặt trận tiền tệ, cần kiệm, liêm chính, trung kiên, bất khuất, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, đảm bảo cho hoạt động tiền tệ, ngân hàng được thông suốt ngay cả trong chiến tranh khốc liệt cũng như những năm tháng khó khăn của nền kinh tế.

Chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên. Ngày 01/7/1976, cuộc hội ngộ ban đầu của cán bộ nhân viên ngân hàng ba tỉnh tại Thừa Thiên - Huế diễn ra hết sức cảm động, mỗi cán bộ ngân hàng ý thức rõ trách nhiệm của mình trước tình hình mới, với nhiệm vụ và tình cảm thiêng liêng là phục vụ một vùng quê “Bình Trị Thiên khói lửa” đã từng chung gian khổ, vui buồn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, thời gian này hình thành bảy ngân hàng cấp huyện trực thuộc Ngân hàng tỉnh Bình Trị Thiên. Đầu năm 1977, các huyện được sáp nhập và hệ thống ngân hàng trên địa bàn được hình thành và sắp xếp lại, gồm: Ngân hàng Triệu Hải, Ngân hàng Bến Hải, Ngân hàng thị xã Đông Hà và Ngân hàng Hướng Hóa. Hoạt động ngân hàng đã có mặt khắp nơi từ đồng bằng, thị xã đến miền núi, góp phần tạo ra bộ mặt mới của Quảng Trị, xóa dần mọi vết tích của chiến tranh và nền kinh tế phụ thuộc.

Tuy nhiên, vào những năm cuối của thập kỷ 1980, hoạt động ngân hàng còn mang nặng tính bao cấp, nguồn vốn hạn hẹp, công tác huy động vốn không được nhận thức đúng, các công cụ tiền tệ làm đòn bẩy cho tăng trưởng tín dụng và kinh tế, vốn cho vay phân tán, công tác thanh toán không dùng tiền mặt bị thu hẹp, lạm phát phi mã, dẫn đến khủng hoảng kinh tế.

Tháng 7/1989, cùng sự kiện tái lập lại tỉnh Quảng Trị, hệ thống ngân hàng Bình Trị Thiên cũng được chia tách, lập lại theo địa danh mới, hệ thống ngân hàng tỉnh Quảng Trị được tái lập lại.

Tháng 10/1990, với sự ra đời của hai pháp lệnh ngân hàng đánh dấu bước đổi mới căn bản và toàn diện hoạt động ngân hàng. Hệ thống ngân hàng tỉnh Quảng Trị tiếp tục thực hiện tiến trình đổi mới mô hình, hoàn thiện tổ chức bộ máy của các ngân hàng trên địa bàn, trong đó, phân định rõ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động tiền tệ - tín dụng - ngân hàng trên địa bàn; sắp xếp lại các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn. Các TCTD đã không ngừng đổi mới và phục vụ tốt khách hàng. Đổi mới hoạt động của các TCTD gắn liền với kinh tế thị trường, với phương châm “đi vay để cho vay” và tiếp cận với đa thành phần kinh tế, từng bước xóa bỏ bao cấp trong hoạt động tín dụng, thực hiện cơ chế lãi suất dương tạo tiền đề cần thiết để khai thác mọi nguồn vốn nhằm mở rộng đầu tư đối với mọi thành phần kinh tế, đầu tư thực hiện các chương trình đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, trong từng ngành, thực hiện tốt các chương trình kinh tế của tỉnh Quảng Trị như: Trồng cây công nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản… tạo bước chuyển dịch kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tiếp nối truyền thống các thế hệ đi trước, NHNN Chi nhánh tỉnh Quảng Trị luôn nỗ lực, không ngừng được hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Việc điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ngày càng có hiệu quả. Hệ thống các dịch vụ ngân hàng đa dạng và có chất lượng hơn. Số lượng TCTD trên địa bàn ngày càng tăng, dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và hiện đại.

Trong những năm qua, chính sách tiền tệ đã được điều hành linh hoạt, hiệu quả, NHNN Chi nhánh tỉnh Quảng Trị đã phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành liên quan để chung tay, góp sức, chia sẻ và đồng hành cùng nền kinh tế khắc phục khó khăn, đạt được các mục tiêu vĩ mô đặt ra của tỉnh và được dư luận xã hội đánh giá cao. Một số kết quả chính có thể kể đến như: Chỉ đạo các TCTD thực hiện nghiêm các quy định của NHNN về lãi suất tiền gửi, niêm yết công khai lãi suất tiền gửi tại các địa điểm nhận tiền gửi theo quy định của NHNN, thực hiện việc bán bảo hiểm, trái phiếu doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật.

Tăng cường giám sát việc thực hiện chủ trương hạ lãi suất nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân theo chỉ đạo của Thống đốc NHNN đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) trên địa bàn.

Các TCTD trên địa bàn tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất huy động theo quy định của NHNN, qua đó giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất, kinh doanh.

NHNN luôn theo dõi sát thị trường để yêu cầu chấp hành tỉ giá linh hoạt, phù hợp. Các NHTM trên địa bàn thực hiện nghiêm túc các quy định về niêm yết tỉ giá; công tác quản lý ngoại hối được triển khai thực hiện nghiêm túc. NHNN Chi nhánh tỉnh Quảng Trị chỉ đạo các TCTD triển khai nghiêm túc chỉ đạo của NHNN; công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng được triển khai thực hiện đúng quy định.

Nguồn vốn ngân hàng đã góp phần hình thành và đưa vào hoạt động ba khu công nghiệp, 15 cụm công nghiệp, 7.770 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, có nhiều cơ sở quy mô lớn, giải quyết việc làm cho hàng nghìn người lao động. Trong đó, có nhiều công trình, dự án lớn như: Dự án đầu tư mở rộng Quốc lộ 1A; Nhà máy thủy điện Quảng Trị; các nhà máy thủy điện Khe Nghi, Khe Giông, Mai Linh…; Dự án Nhà máy điện gió Hướng Linh 1, 2; Dự án đầu tư Trung tâm dịch vụ du lịch Cửa Việt; Dự án Nhà máy gỗ ván MDF-VRG Quảng Trị 1, 2; các dự án dệt may, đánh bắt hải sản, trồng tiêu, cao su, cà phê và nhiều sản phẩm nông nghiệp khác; công trình đường tránh lũ Hải Lăng, Triệu Phong, Vĩnh Linh, Gio Linh…

Hệ thống ngân hàng trên địa bàn đã huy động và cho vay một khối lượng vốn lớn, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Bên cạnh lĩnh vực kinh tế nhà nước, đã cho vay hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân phát triển, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giải quyết các vấn đề xã hội. Hiện tại, hệ thống ngân hàng tỉnh Quảng Trị tiếp tục đồng hành sát sao cùng với các dự án lớn, trọng điểm của tỉnh nhà đơn cử như: NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) cam kết cung cấp tài chính hơn 4.700 tỉ đồng cho dự án Cảng hàng không Quảng Trị, NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) Chi nhánh Quảng Trị ký hợp đồng tín dụng tài trợ 450 tỉ đồng để đầu tư dự án Khu công nghiệp Quảng Trị; các dự án trọng điểm khác như Khu bến cảng Mỹ Thủy, Đường bộ cao tốc Cam Lộ - Lao Bảo, Quốc lộ 15D từ cảng biển Mỹ Thủy đến Cửa khẩu quốc tế La Lay, Đường ven biển kết nối Hành lang kinh tế Đông - Tây gắn với đường tránh phía Đông thành phố Đông Hà, Khu kinh tế thương mại xuyên biên giới chung Lao Bảo - Đensavan và các dự án năng lượng có quy mô lớn tại Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị đều được các ngân hàng tiếp cận, sẵn sàng hỗ trợ tín dụng khi có đầy đủ điều kiện.

Công tác chuyển đổi số và thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển mạnh. Việc thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, hiệu quả, hỗ trợ nền kinh tế phát triển, góp phần kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Công tác thanh tra, giám sát được tăng cường, nhờ vậy, hoạt động của các TCTD trên địa bàn đảm bảo an toàn, hiệu quả. Hiện nay, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã trang bị tổng số 115 ATM (trong đó có 11 CDM), 782 POS, có hơn 23.000 QRCode được đặt tại các cửa hàng bán lẻ, nhà hàng, khách sạn, các cơ sở y tế, bệnh viện, trường học... tạo thuận lợi cho người dân dễ dàng tiếp cận các phương tiện thanh toán và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.


Người dân đến giao dịch tại Điểm giao dịch của NHCSXH xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Nguồn ảnh: Tú Linh - Báo Quảng Trị


Đối với việc hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo, chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác thực sự đi vào cuộc sống từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, nhất là từ sau khi có Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW. Sau 20 năm thực hiện, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn không ngừng tăng trưởng, huy động được các nguồn lực tài chính đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác. Tổng nguồn vốn đạt 3.725,8 tỉ đồng, tăng 3.558,8 tỉ đồng so với khi mới thành lập. Nguồn vốn huy động tại địa phương đạt 856,9 tỉ đồng (chiếm 23% tổng nguồn vốn), trong đó ngân sách địa phương chuyển sang NHCSXH cho vay đạt 156,7 tỉ đồng (chiếm 4,2%) và huy động tiền gửi của tổ chức, cá nhân đạt 700,2 tỉ đồng (chiếm 18,8%).

Các chương trình tín dụng được mở rộng, từ 02 chương trình tín dụng ban đầu, đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 17 chương trình được triển khai và thực hiện. Tăng trưởng tín dụng không ngừng được tăng lên qua các năm, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 19,78%/năm.

Nguồn vốn tín dụng chính sách đã tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách có nhu cầu, đủ điều kiện được tiếp cận với đồng vốn tín dụng chính sách một cách thuận lợi, kịp thời, góp phần giúp cho hơn 66,5 nghìn lượt hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút tạo việc làm cho gần 33 nghìn lao động; giúp cho gần 87 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để trang trải chi phí học tập, mua máy tính, thiết bị học tập trực tuyến, không có học sinh, sinh viên nào phải nghỉ học vì khó khăn về tài chính; hỗ trợ xây mới và cải tạo hơn 219 nghìn công trình nước sạch vệ sinh môi trường ở nông thôn; hỗ trợ xây dựng, sửa chữa 6.302 căn nhà cho hộ nghèo, 757 căn nhà ở xã hội, 771 lượt lao động được doanh nghiệp vay vốn để trả lương do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.

Phương thức ủy thác cho bốn tổ chức chính trị - xã hội đã phát huy được những mặt mạnh của tổ chức hội, đó là sự gần gũi, sinh hoạt cộng đồng với người vay nên hiểu và dễ dàng nắm bắt mọi hoạt động của người vay, qua đó kịp thời tư vấn, giám sát người vay; sự phối hợp giữa Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) và đơn vị nhận ủy thác ngày càng chặt chẽ và đi vào ổn định, mang lại những lợi ích thiết thực cho hoạt động của các hội, đoàn thể, giúp cho đồng vốn tín dụng chính sách đến đúng các đối tượng thụ hưởng và phát huy hiệu quả cao nhất.

Mạng lưới hoạt động của NHCSXH Chi nhánh tỉnh Quảng Trị luôn được củng cố và ngày càng ổn định, hiệu quả với 125 điểm giao dịch/125 xã, phường, thị trấn, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khi tham gia vay vốn tại NHCSXH; chất lượng hoạt động của các điểm giao dịch, chất lượng tín dụng chính sách ngày được nâng lên, hạn chế nợ bị rủi ro do nguyên nhân khách quan phát sinh, không có nợ xâm tiêu, chiếm dụng vốn; không có các hiện tượng tiêu cực, sách nhiễu nhân dân; đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn, trả nợ, trả lãi và nắm bắt thông tin, chính sách của các đối tượng thụ hưởng theo quy định. 100% tổ tiết kiệm và vay vốn hoạt động xếp loại tốt và khá, góp phần tích cực trong việc chuyển tải nguồn vốn tín dụng ưu đãi đến với các đối tượng thụ hưởng kịp thời, thuận lợi đảm bảo công khai, dân chủ, tạo ra hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội.

Tính đến ngày 30/4/2024, dư nợ của NHCSXH Chi nhánh Quảng Trị đạt 4.895 tỉ đồng, tăng hơn 31 lần so với ban đầu, với hơn 84 nghìn hộ còn dư nợ. Quy mô dư nợ tại các phòng giao dịch NHCSXH cấp huyện trên địa bàn đang ngày càng được nâng cao và không còn đơn vị có dư nợ dưới 200 tỉ đồng.

Nguồn vốn tín dụng chính sách thực hiện trên địa bàn đã ngày càng đi vào cuộc sống, qua đó góp phần đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; thể hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác giảm nghèo bền vững, tạo điều kiện phát triển kinh tế, đẩy lùi “tín dụng đen” ở địa phương.

Bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công tác an sinh xã hội, đền ơn đáp nghĩa được chú trọng, hằng năm hệ thống ngân hàng tỉnh Quảng Trị thường xuyên đóng góp bình quân hơn 30 tỉ đồng cho các hoạt động này, làm động lực cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Ngành.

Nhiệm vụ hiện đại hóa NHNN chi nhánh tỉnh Quảng Trị và phát triển hệ thống các TCTD là nhiệm vụ hết sức nặng nề và có tính toàn diện, đòi hỏi sự lãnh đạo chặt chẽ của Cấp ủy, Ban Lãnh đạo cũng như nỗ lực và sự sáng tạo của từng cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động trong hệ thống ngân hàng tỉnh Quảng Trị với tinh thần phát huy hơn nữa truyền thống 73 năm vẻ vang của Ngành, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên phía trước. Từng cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động hệ thống ngân hàng tỉnh Quảng Trị phải luôn phát huy trí tuệ, bản lĩnh và phẩm chất cách mạng của mình trên nhiệm vụ công tác tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; đoàn kết một lòng thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được giao.

Tự hào với truyền thống vẻ vang 73 năm xây dựng và phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng tỉnh Quảng Trị nói riêng, thế hệ cán bộ ngân hàng hôm nay nguyện phấn đấu hết mình để đưa hệ thống ngân hàng trên địa bàn ngày càng phát triển bền vững, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Nguyễn Xuân Hòa
NHNN Chi nhánh tỉnh Quảng Trị

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Xem thêm
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc