Hành lang pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhìn từ thực tiễn

Chính sách
Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 đã được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2020 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 (LDN 2020). Văn bản luật này có khá nhiều quy định về ngư...
aa

Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 đã được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2020 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 (LDN 2020). Văn bản luật này có khá nhiều quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cả trên phương diện chỉ định lẫn trên phương diện quyền và nghĩa vụ của chức danh này. Bài viết tập trung phân tích các ưu điểm và hạn chế của các quy định này dưới góc nhìn từ thực tiễn, đồng thời đánh giá một số tác động tới hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng.

1. Khái niệm và thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật

Khoản 1 Điều 137 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015 (BLDS) nêu rõ rằng người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: (i) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; (ii) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; và (iii) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Người đại diện theo pháp luật có quyền nhân danh doanh nghiệp thực hiện hai chức năng là xác lập và thực hiện giao dịch dân sự của doanh nghiệp trong phạm vi đại diện được nêu trong điều lệ của pháp nhân hay theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 134 BLDS và khoản 1 Điều 141 BLDS) và trong trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo các căn cứ trên thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của doanh nghiệp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 141 BLDS).

Khoản 1 Điều 12 LDN 2020 quy định “người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.

Từ định nghĩa này có thể thấy:

- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhất thiết phải là một cá nhân;

- Người đại diện theo pháp luật đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch của doanh nghiệp;

- Người đại diện theo pháp luật là người đại diện cho doanh nghiệp trong tố tụng tại Tòa án và trước Trọng tài.

Bất cập của định nghĩa nêu trên là chỉ nhắc đến việc thực hiện giao dịch nhân danh doanh nghiệp mà vô tình lại bỏ quên chức năng xác lập giao dịch nhân danh doanh nghiệp - vốn là một trong các quyền hạn then chốt của chế định người đại diện theo pháp luật. Dù biết định nghĩa này quy định mở là người đại diện theo pháp luật được thực hiện “các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”, tức là được thực hiện quyền xác lập giao dịch nêu trong BLDS, song việc không nêu một cách cụ thể quyền hạn này trong văn bản luật chuyên ngành này cũng là một điều đáng tiếc.

2. Chỉ định người đại diện theo pháp luật

Theo quy định tại khoản 1 Điều 137 BLDS, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân1 bao gồm:

- Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;

- Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;

- Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

Khoản 2 Điều 12 LDN 2020 nêu rõ “điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”. Khoản 7 Điều 12 LDN 2020 cũng quy định mở theo hướng “Tòa án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác có quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, người đại diện theo pháp luật được chỉ định trong điều lệ của công ty (thường dưới dạng chức danh quản lý nào của công ty sẽ giữ vai trò là người đại diện theo pháp luật thay vì chỉ định định danh một cá nhân cụ thể2), theo quy định của pháp luật3 hoặc do Tòa án, cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác chỉ định theo quy định của pháp luật4.

Khoản 5 và khoản 6 Điều 12 LDN 2020 cũng ngầm định thẩm quyền cử/thay thế người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên, Hội đồng thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên và Hội đồng quản trị của công ty cổ phần. Cần lưu ý thêm rằng, họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch, số giấy tờ pháp lý của cá nhân là người đại diện theo pháp luật của công ty là một nội dung bắt buộc trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (khoản 3 Điều 28 LDN 2020).

3. Chế độ nhiều người đại diện theo pháp luật

Pháp luật của nhiều nước như Anh, Pháp hay Thụy Sĩ công nhận việc công ty có thể có nhiều người đại diện. Khoản 2 Điều 12 LDN 2020 mở ra khả năng đối với công ty TNHH và công ty cổ phần được có nhiều người đại diện theo pháp luật với điều kiện điều lệ công ty phải quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật đó.

Giải pháp này có thể giúp việc xác lập và thực hiện giao dịch nhanh chóng và thuận tiện hơn, hạn chế việc phải ủy quyền, qua đó nắm bắt, tận dụng được các cơ hội kinh doanh. Điều này thực sự có ý nghĩa đối với các công ty có quy mô lớn hay có nhiều hoạt động kinh doanh. Quy định này sẽ giúp tránh trường hợp người đại diện duy nhất của doanh nghiệp bất hợp tác, không thực hiện các yêu cầu của thành viên/cổ đông trong quá trình quản lý điều hành doanh nghiệp trong nội bộ cũng như giao dịch với bên ngoài công ty5. Giải pháp này cũng giúp khắc phục khó khăn trong tố tụng khi người đại diện theo pháp luật bỏ trốn mà các thành viên hay cổ đông cố tình không làm thủ tục cử người đại diện theo pháp luật vì lợi ích của công ty.

Trong thực tế, việc phân chia thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật có thể theo lĩnh vực hay khu vực hoạt động của công ty, quy mô, giá trị hay tính chất của giao dịch, hợp đồng...

Khoản 3 Điều 54 LDN 2020 quy định Công ty TNHH hai thành viên trở lên “phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật của công ty”. Như vậy, nếu công ty có hơn một người đại diện theo pháp luật thì ít nhất một người đại diện theo pháp luật phải là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty; còn nếu điều lệ công ty không quy định khác thì Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty.

Trong trường hợp công ty TNHH một thành viên, khoản 3 Điều 79 LDN 2020 đặt ra nguyên tắc tương tự: “công ty phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty”.

Đối với công ty cổ phần, khoản 2 Điều 137 LDN 2020 quy định về người đại diện theo pháp luật mặc định của công ty như sau: “trường hợp công ty chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp Điều lệ chưa có quy định thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp công ty có hơn một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty”. Như vậy, nếu công ty chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người này nhất thiết phải là Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty theo quy định tại điều lệ; còn trong trường hợp điều lệ không có quy định thì Chủ tịch Hội đồng quản trị đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty. Nếu công ty có hai người đại diện theo pháp luật thì hai người đó chỉ có thể là Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty.

Trong trường hợp một trong số những người đại diện xác lập hay thực hiện giao dịch vượt quá hay không thuộc phạm vi đại diện của mình thì sẽ dẫn tới hệ quả pháp lý nào? Khoản 2 Điều 12 LDN 2020 quy định: “nếu công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì Điều lệ công ty quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rõ trong Điều lệ công ty thì mỗi người đại diện theo pháp luật của công ty đều là đại diện đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba; tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Như vậy, khi ký hợp đồng tín dụng hay hợp đồng bảo đảm với doanh nghiệp, tổ chức tín dụng phải nghiên cứu kỹ điều lệ của doanh nghiệp để xác định liệu người đại diện theo pháp luật mà doanh nghiệp đề xuất, hay người được người đại diện theo pháp luật này ủy quyền có thẩm quyền ký hợp đồng nhân danh doanh nghiệp hay không. Và chỉ trong trường hợp điều lệ không phân chia rõ thẩm quyền của từng người đại diện theo pháp luật thì bất cứ người đại diện theo pháp luật nào hay người được người này ủy quyền ký hợp đồng với tổ chức tín dụng mới ràng buộc doanh nghiệp. Quy định này có mục đích bảo vệ các bên thứ ba ngay tình khi tham gia giao dịch với doanh nghiệp, tuy rằng cơ chế này chỉ áp dụng trong trường hợp điều lệ công ty không phân định rõ thẩm quyền của từng người đại diện theo pháp luật. Nói cách khác, cách tiếp cận của người làm luật còn khá dè dặt.

Về điểm này, pháp luật của Anh đi xa hơn khi quy định vì lợi ích của mọi bên thứ ba giao dịch với một công ty một cách ngay tình, quyền hạn của các giám đốc (người đại diện) được nhân danh công ty (hoặc ủy quyền lại cho người khác hành động nhân danh công ty) được coi như không chịu bất cứ giới hạn nào theo các văn bản nội bộ (nghị quyết của công ty hay của bất cứ nhóm cổ đông nào, hoặc bất cứ thỏa thuận nào giữa các thành viên của công ty hay của bất cứ nhóm cổ đông nào)6. Theo đó, một bên giao dịch với công ty không có nghĩa vụ phải tìm hiểu việc giới hạn thẩm quyền của người đại diện và được coi là hành động ngay tình trừ khi công ty có thể chứng minh được điều ngược lại và cũng không bị xem là không ngay tình chỉ vì biết rằng một giao dịch cụ thể vượt quá thẩm quyền của người đại diện theo quy định của các văn bản nội bộ của công ty7.

Thực ra, đối với công ty hợp danh, LDN 2020 (khoản 1 Điều 184) đã có cách tiếp cận tương tự khi quy định “các thành viên hợp danh là người đại diện theo pháp luật của công ty và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó”. Thiết nghĩ, cách tiếp cận này cần được mở rộng áp dụng cả cho công ty TNHH và công ty cổ phần vì sẽ công bằng hơn cho các bên thứ ba và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trên phương diện thực tế, việc tìm thông tin về quyền hạn người đại diện theo pháp luật có thể mất nhiều thời gian và khó khăn8. Thực vậy, do thông tin về danh tính người đại diện theo pháp luật là một nội dung bắt buộc trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (khoản 3 Điều 28 LDN 2020) và doanh nghiệp sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp phải thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp thông tin này, nên khi xác lập hợp đồng với doanh nghiệp, tổ chức tín dụng có thể tìm thông tin về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp9 (khoản 1 Điều 32 LDN 2020) hoặc trực tiếp tại cơ quan đăng ký kinh doanh (trong trường hợp này phải nộp phí) (Điều 33 LDN 2020). Tuy nhiên, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chỉ được nêu trong điều lệ mà điều lệ không phải là một nội dung đăng ký doanh nghiệp phải được công bố đối với mọi loại hình công ty. Đối với công ty cổ phần, điểm a khoản 2 Điều 176 LDN 2020 quy định điều lệ của công ty phải được công bố trên trang thông tin điện tử của công ty. Tương tự, doanh nghiệp Nhà nước phải công bố điều lệ trên trang thông tin điện tử của công ty và của cơ quan đại diện chủ sở hữu (điểm a khoản 1 và khoản 4 Điều 109 và Điều 73 LDN 2020). Tuy nhiên, do (i) không phải doanh nghiệp nào cũng có trang thông tin điện tử, (ii) các điều luật này không quy định rõ nghĩa vụ của doanh nghiệp phải công bố điều lệ cập nhật nhất và (iii) doanh nghiệp có thể viện ra lỗi kỹ thuật về mạng để trốn tránh nghĩa vụ này, cho nên việc tìm kiếm thông tin về điều lệ trên trang thông tin điện tử có thể sẽ không thực sự khả thi trong một số trường hợp.

Để có được các thông tin này, tổ chức tín dụng cần phải (i) yêu cầu doanh nghiệp cung cấp bản sao cập nhật nhất của điều lệ hoặc (ii) nếu nghi ngờ hay do doanh nghiệp không hợp tác, liên hệ với cơ quan đăng ký kinh doanh để xin các thông tin này do điều lệ thuộc hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Cần lưu ý là cơ quan đăng ký kinh doanh không có nghĩa vụ phải cung cấp các thông tin này. Chính vì vậy, nên nêu rõ mục đích sử dụng thông tin yêu cầu cung cấp thông tin về doanh nghiệp và có thể kèm theo bằng chứng về mục đích này.

Cần lưu ý, LDN 2020 không cấm việc người đại diện theo pháp luật của công ty có thể ủy quyền cho một cá nhân khác thực hiện các quyền hạn của mình (chẳng hạn như ký kết hợp đồng) dưới hình thức ủy quyền chung hay ủy quyền theo vụ việc. Thông thường điều lệ của công ty sẽ quy định rõ về chế độ ủy quyền lại này. Nếu điều lệ không quy định rõ, bên được ủy quyền có thể là một người không thuộc nhân sự của công ty.

4. Tính thường trực của chức danh người đại diện theo pháp luật

Theo quy định tại khoản 3 Điều 12 LDN 2020, “doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Khi chỉ còn lại một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền”. Quy định này dường như ngầm định rằng, trong trường hợp công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật thì khi một trong số họ xuất cảnh khỏi lãnh thổ Việt Nam thì đương nhiên (những) người còn lại sẽ thực hiện các thẩm quyền của người này10. Theo quy định tại khoản 4 Điều 12 LDN 2020, trường hợp hết thời hạn ủy quyền mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác thì thực hiện theo quy định sau đây:

- Người được ủy quyền tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm việc tại doanh nghiệp;

- Người được ủy quyền tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh cho đến khi người đại diện theo pháp luật của công ty trở lại làm việc tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị quyết định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Như vậy, trong trường hợp này ủy quyền được tự động gia hạn theo quy định của pháp luật, tức là theo quy định của LDN 202011.

Đối với công ty TNHH có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty chết, mất tích, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, trốn khỏi nơi cư trú, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì thành viên còn lại12 đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty (khoản 6 Điều 12 LDN 2020).

Trừ trường hợp nêu trên, đối với doanh nghiệp chỉ còn một người đại diện theo pháp luật và người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc chết, mất tích, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty (khoản 5 Điều 12 LDN 2020).

5. Hậu quả của việc vi phạm bổn phận chung

Khoản 1 Điều 72 LDN 2020 nêu rõ quyền của thành viên và của công ty TNHH được khởi kiện trách nhiệm dân sự của người đại diện theo pháp luật trong các trường hợp vi phạm quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý vốn được nêu một cách khá rộng, chẳng hạn như khi thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao một cách không cẩn trọng hay trái với quy định của pháp luật13 hay của điều lệ. Đối với công ty cổ phần, Điều 166 LDN 2020 quy định có thể khởi kiện trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc để yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công ty hoặc người khác mà không đề cập rõ việc khởi kiện người đại diện theo pháp luật. Tuy vậy, do Điều 13 LDN 2020 đặt ra nguyên tắc chung là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ của mình nên có thể áp dụng quy định này để khởi kiện người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần trong trường hợp có thêm người đại diện theo pháp luật không phải là Chủ tịch Hội đồng quản trị hay Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc.

Khi công ty gây thiệt hại cho một bên thứ ba thì về nguyên tắc phải bồi thường cho bên này dù là trách nhiệm trong hay ngoài hợp đồng. Như vậy, nếu người đại diện theo pháp luật vi phạm một hay nhiều nghĩa vụ chung của mình mà pháp luật đã quy định và gây thiệt hại cho bên thứ ba thì sau khi công ty đã bồi thường cho bên thứ ba này thì có thể khởi kiện yêu cầu người đại diện theo pháp luật hoàn trả số tiền bồi thường đã trả cho bên thứ ba này theo khoản 2 Điều 13 và khoản 2 Điều 12 LDN 2020. Thêm vào đó, khi áp dụng các quy định này, ngay cả trong trường hợp công ty bị xử phạt vi phạm hành chính (chẳng hạn do vi phạm pháp luật cạnh tranh, pháp luật quảng cáo...) do lỗi của người đại diện theo pháp luật thì cũng có thể khởi kiện trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật.

Việc truy cứu trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật nói riêng và của người quản lý doanh nghiệp nói chung xuất phát từ nguyên tắc quyền hạn đi liền với trách nhiệm. Đây cũng là xu hướng chung của các nền luật tiên tiến cho dù LDN 2020 dường như vẫn chỉ dừng lại ở việc trách nhiệm dân sự mà chưa mở rộng ra các chế tài khác mà công ty có thể sử dụng để tăng cường hơn nữa trách nhiệm của người quản lý.

Từ những phân tích ở trên có thể thấy, LDN 2020 về cơ bản đã quy định được các khía cạnh khác nhau của chế định người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, cách tiếp cận của văn bản luật này còn khá dè dặt và có những hạn chế nhất định. Các tổ chức tín dụng cần thận trọng tìm hiểu về người có thẩm quyền ký hợp đồng để hạn chế nguy cơ hợp đồng có thể bị tuyên vô hiệu.

1 Doanh nghiệp là một loại pháp nhân thương mại (khoản 2 Điều 75 BLDS).

2 Điều này giúp tránh trường hợp phải sửa đổi điều lệ khi cá nhân đó không làm việc hay thôi giữ chức danh quản lý cần có để làm người đại diện theo pháp luật theo quy định của pháp luật.

3 Chẳng hạn, chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật mặc định của doanh nghiệp (khoản 3 Điều 190 LDN 2020).

4 Chẳng hạn, khoản 2 Điều 47 của Luật Phá sản số 51/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2014 trao quyền cho Tòa án được thay đổi người đại diện theo pháp luật theo đề nghị của hội nghị chủ nợ hoặc quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong trường hợp xét thấy người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không có khả năng điều hành, doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm các hoạt động bị cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản.

5 Hoàng Thanh Tuấn, “Luật Doanh nghiệp năm 2014 - Tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp trong toàn bộ quá trình thành lập, hoạt động”, , truy cập ngày 10/4/2015.

6 Điều 40 Luật Công ty 2006 (Companies Act 2006).

7 Xem thêm Tim Sewell, Companies vol. 10(1) - Directors and other officers, shareholders, shares and share capital (Lexis Nexis, 2017), para.76.

8 Chẳng hạn, tổ chức tín dụng thường phải tìm kiếm các thông tin này trước khi cấp tín dụng hay trong quá trình khởi kiện liên quan đến khoản tín dụng đã cấp.

9 Tại địa chỉ: https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/Pages/Trangchu.aspx.

10 Để tránh rủi ro vô hiệu vì lý do thẩm quyền ký hợp đồng, trong trường hợp này tổ chức tín dụng vẫn nên yêu cầu doanh nghiệp cung cấp ủy quyền của người đại diện theo pháp luật đã xuất cảnh khỏi Việt Nam cho người đại diện theo pháp luật đang cư trú tại Việt Nam nếu thẩm quyền ký hợp đồng thuộc về người đại diện theo pháp luật đã xuất cảnh khỏi Việt Nam.

11 Theo quy định tại khoản 1 Điều 140 BLDS, “thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật”.

12 Thành viên còn lại được hiểu là một cá nhân vì như phân tích ở trên theo khoản 1 Điều 12 LDN 2020, người đại diện theo pháp luật phải là cá nhân. Ở đây, cách viết của điều luật này chưa thực sự rõ ràng.

13 Điều 13 LDN 2020: “Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp:

1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm sau đây:

a) Thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;

b) Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh, tài sản khác của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;

c) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về doanh nghiệp mà mình, người có liên quan của mình làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp theo quy định của Luật này.

2. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối với thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm trách nhiệm quy định tại khoản 1 Điều này”.


TS. Bùi Đức Giang

Giảng viên thỉnh giảng Đại học Luật Hà Nội

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, tài sản bảo đảm được hiểu là tài sản do bên vay cung cấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Việc yêu cầu tài sản bảo đảm không chỉ là một biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1560/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng