Hạch toán quyền rút vốn đặc biệt: Khuôn khổ, các yếu tố chính và một số biện pháp giải quyết vướng mắc hiện nay

Nghiên cứu - Trao đổi
Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) là tài sản dự trữ quốc tế được Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund - IMF) tạo ra nhằm bổ sung dự trữ chính thức của các quốc gia thành viên...
aa

Tóm tắt: Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) là tài sản dự trữ quốc tế được Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund - IMF) tạo ra nhằm bổ sung dự trữ chính thức của các quốc gia thành viên. Mặc dù SDR không phải là một loại tiền tệ, nhưng được sử dụng để đại diện cho quyền yêu cầu đổi lấy loại ngoại tệ mạnh khi sử dụng trong trao đổi của các thành viên IMF cũng như trong các giao dịch quốc tế giữa các chính phủ và tổ chức quốc tế. Việc hạch toán SDR rất quan trọng, đặc biệt là đối với các ngân hàng trung ương và tổ chức nắm giữ SDR vì sự ảnh hưởng đến báo cáo tài chính và việc quản lý dự trữ ngoại hối. Bài viết này sẽ thảo luận về khuôn khổ hạch toán chung cho SDR, cách ghi nhận và đo lường cùng với các yếu tố chính mà ngân hàng trung ương nắm giữ SDR cần cân nhắc.

Từ khóa: SDR, IMF, quản lý dự trữ ngoại hối.

Việc hạch toán SDR rất quan trọng, đặc biệt là đối với các ngân hàng trung ương và tổ chức nắm giữ SDR
vì sự ảnh hưởng đến báo cáo tài chính và việc quản lý dự trữ ngoại hối

THE ACCOUNTING OF SPECIAL DRAWING RIGHT: FRAMEWORK, KEY ELEMENTS
AND SOME SOLUTIONS TO RESOLVE CURRENT PROBLEMS


Special drawing right (SDR) are an international reserve asset created by International Monetary Fund (IMF) to supply official reserves to member countries. Although SDR are not a currency, they represent the right to exchange for hard foreign currency of IMF members in international transactions among governments and international organizations. The SDR accounting is important, especially for central banks and institutions holding SDR, as it impacts financial statements and the management of international reserves. This article discusses the SDR general accounting framework, the recognition and measurement and key elements for entities that central banks hold SDR.

Key words: SDR, IMF, management of international reserves.

Để làm rõ các nội dung trong hạch toán SDR, tác giả nhận thấy cần tìm hiểu các nội dung chung về IMF, SDR cũng như nguyên tắc ghi nhận SDR theo chuẩn mực kế toán quốc tế và thói quen kế toán của các ngân hàng trung ương khác.

1. Thông tin chung về IMF


IMF được thành lập vào năm 1944 sau Hội nghị Bretton Woods nhằm xây dựng một hệ thống kinh tế và tài chính toàn cầu mới sau Thế chiến II, cùng với sự ra đời của Ngân hàng Thế giới (WB) và hệ thống tỷ giá hối đoái. IMF có trụ sở tại Washington D.C., Hoa Kỳ và hiện có 190 quốc gia thành viên. Mục tiêu chính của IMF là thúc đẩy ổn định tài chính toàn cầu, duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế, đồng thời khuyến khích hợp tác tiền tệ quốc tế giữa các quốc gia thành viên. IMF cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường thương mại quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo toàn cầu. Các hoạt động chính của IMF bao gồm cung cấp hỗ trợ tài chính ngắn và dài hạn cho các quốc gia thành viên để đối phó với khủng hoảng tài chính; giám sát kinh tế, đưa ra các khuyến nghị chính sách cùng với việc hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo để nâng cao năng lực quản lý kinh tế và tài chính của các quốc gia. Nguồn vốn của IMF được hình thành từ sự đóng góp của các quốc gia thành viên dựa trên hạn ngạch.

2. Thông tin chung về SDR

SDR được IMF tạo ra vào năm 1969 nhằm bổ sung dự trữ quốc tế cho các quốc gia thành viên, do hệ thống Bretton Woods dựa trên vàng và đồng USD không còn đáp ứng đủ nhu cầu dự trữ toàn cầu. SDR không phải là tiền tệ thông thường, mà là một đơn vị kế toán cho các giao dịch của IMF và là tài sản dự trữ quốc tế ổn định. Giá trị của SDR được xác định dựa trên rổ năm đồng tiền hàng đầu thế giới, bao gồm USD, EUR, CNY, JPY và GBP. IMF phân bổ SDR cho các quốc gia thành viên theo hạn ngạch, dựa trên quy mô kinh tế của từng quốc gia, giúp tăng cường khả năng dự trữ quốc tế mà không làm tăng gánh nặng nợ công. Các quốc gia có thể sử dụng SDR để trao đổi lấy ngoại tệ mạnh hoặc thanh toán các nghĩa vụ tài chính cho IMF. IMF giám sát việc sử dụng SDR và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật nhằm đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả. SDR đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung dự trữ quốc tế, hỗ trợ ổn định tài chính toàn cầu và thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia thành viên, giúp chia sẻ rủi ro, giảm thiểu tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế toàn cầu. Chức năng chính của SDR bao gồm làm tài sản dự trữ quốc tế, điều chỉnh vị thế thanh toán của các quốc gia và cho phép trao đổi giữa các thành viên IMF để bổ sung dự trữ ngoại hối.

Hình 1: IMF mô tả cách sử dụng SDR

Nguồn: IMF


3. Nguyên tắc hạch toán SDR trong báo cáo tài chính

Trong báo cáo tài chính, SDR có thể được ghi nhận là tài sản hoặc khoản nợ tùy thuộc vào tình hình tài chính của quốc gia hoặc tổ chức liên quan. Khi SDR được giữ như một phần của dự trữ ngoại hối, SDR được ghi nhận là tài sản trên bảng cân đối kế toán. Ngược lại, nếu quốc gia sử dụng SDR để vay hoặc nhận nguồn lực từ IMF hay các quốc gia khác, SDR sẽ được ghi nhận là một khoản nợ, phản ánh nghĩa vụ hoàn trả.

Theo Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), SDR được ghi nhận là tài sản hợp lý do đáp ứng tiêu chí ghi nhận. SDR là nguồn lực mà quốc gia kiểm soát từ một sự kiện phát sinh trong quá khứ khi IMF thực hiện phân bổ. SDR mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai thông qua các giao dịch quốc tế khi có thể sử dụng để đổi lấy ngoại tệ mạnh. Với tính thanh khoản cao và khả năng chuyển đổi thành ngoại tệ, kết hợp với giá trị SDR được công bố bởi IMF, SDR có thể được đo lường theo giá trị hợp lý.

Ngoài ra, SDR có thể được ghi nhận là một khoản nợ phải trả trên báo cáo tài chính khi quốc gia có nghĩa vụ hoàn trả số SDR đã sử dụng trong tương lai. Trường hợp một quốc gia thành viên IMF sử dụng SDR để rút ngoại tệ hoặc thanh toán nhiều hơn số SDR có trong tài khoản, quốc gia đó có nghĩa vụ phải hoàn trả cho IMF hoặc quốc gia thành viên khác cho vay. Theo IFRS, nợ phải trả là một nghĩa vụ hiện tại phát sinh từ các sự kiện trong quá khứ và sẽ dẫn đến việc sử dụng nguồn lực kinh tế trong tương lai. SDR đáp ứng được định nghĩa về nợ phải trả vì việc sử dụng SDR trong trường hợp này tạo ra nghĩa vụ tài chính đối với quốc gia đó.

Hình 2: FED hạch toán SDR là một loại tài sản trong báo cáo tài chính

Nguồn: Báo cáo tài chính của Fed


Hình 3: Ngân hàng Trung ương Nam Phi chú thích SDR như là một khoản nợ
thuyết minh báo cáo tài chính

Nguồn: Báo cáo tài chính của Ngân hàng Trung ương Nam Phi


4. Các nội dung liên quan đến hạch toán SDR tại NHNN

Việc hạch toán các nghiệp vụ liên quan SDR tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tuân thủ theo quy định và hướng dẫn của NHNN. Hệ thống tài khoản hạch toán tuân thủ theo Thông tư số 19/2015/TT-NHNN ngày 22/10/2015 của Thống đốc NHNN.

4.1. Hạch toán góp vốn vào IMF

Thực hiện góp vốn tại IMF trước khi Quyết định 07/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ tài chính của NHNN có hiệu lực: NHNN thực hiện góp vốn sau khi nhận được tiền chuyển khoản từ Bộ Tài chính hoặc phát hành hối phiếu nhận nợ. Khi nhận hối phiếu nhận nợ từ Bộ Tài chính, NHNN (Sở Giao dịch) ghi Có vào tài khoản chứng khoán mà IMF mở tại Sở Giao dịch NHNN, không thực hiện theo dõi số liệu trên Bảng cân đối. Khi Bộ Tài chính phát hành hối phiếu nhận nợ, Bộ Tài chính là đơn vị trả nợ hối phiếu khi IMF yêu cầu, việc hạch toán hối phiếu nhận nợ vào tài khoản ngoại bảng TK 904 để theo dõi.

Sau khi Quyết định số 07/2013/QĐ-TTg có hiệu lực, NHNN sử dụng chênh lệch thu chi để góp vốn. Sở Giao dịch NHNN thực hiện hạch toán khoản tiền chuyển cho IMF trong năm như ghi nhận một khoản tạm ứng trong năm qua tài khoản thích hợp. Cuối năm, Sở Giao dịch sẽ tất toán khoản tạm ứng và gửi bảng kê đến Vụ Tài chính - Kế toán NHNN (Vụ TCKT) để ghi nhận khoản góp vốn. Sau khi nhận được bảng kê, Vụ TCKT hạch toán ghi giảm chênh lệch thu chi và tăng "Vốn khác" tại thời điểm cuối năm tài chính.

4.2. Hạch toán khoản phân bổ SDR

Việc hạch toán các khoản phân bổ SDR từ IMF vào Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước được thực hiện qua hai bước: (1) Nhập SDR vào Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước; (2) Thanh toán với Nhà nước số được phân bổ. Khi nhận được SDR phân bổ, NHNN thực hiện nhập số liệu này vào Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước, ghi tăng tài sản và quỹ tương ứng. Theo đó, kế toán ghi nhận việc tăng Tài khoản 105001 - Tài sản quyền rút vốn đặc biệt tại IMF và Tài khoản 42400101 - Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước. Bút toán này giúp ghi nhận sự gia tăng số lượng SDR do NHNN quản lý và thể hiện lượng SDR có thể sử dụng được.

4.3. Hạch toán khoản phí đóng cho IMF bằng SDR

Việc hạch toán khoản phí phải đóng cho IMF bằng SDR được thực hiện qua 2 bút toán, một bút toán thể hiện ngoại tệ, một bút toán thể hiện bằng tiền đồng. Đối với bút toán thể hiện bằng ngoại tệ, kế toán ghi giảm Tài khoản 42400101 - Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước và Tài khoản 105001 - Tài sản quyền rút vốn đặc biệt tại IMF. Sau đó, để thể hiện việc chuyển tiền bằng tiền đồng, kế toán ghi giảm Tài khoản 599 - chênh lệch thu chi và Tài khoản 42400102 - mua bán và thanh toán ngoại hối thuộc Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước.

4.4. Hạch toán mua/bán SDR

Việc hạch toán các khoản bán SDR để lấy ngoại tệ được thể hiện qua 3 bút toán, gồm một bút toán xác nhận thay đổi lượng ngoại tệ và hai bút toán xác nhận thay đổi quỹ. Với bút toán thể hiện ngoại tệ, kế toán ghi tăng Tài khoản 105002/105003 - tiền gửi tại quốc tế/ngân hàng nước ngoài (với tiểu khoản là ngoại tệ mua) và ghi giảm tài khoản 105001 - tài sản SDR tại IMF. Với 2 bút toán thay đổi số liệu Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước, kế toán ghi nhận sự thay đổi trong tiểu khoản của Quỹ với việc tăng ngoại tệ đã mua và giảm SDR đã bán. Việc dùng ngoại tệ để mua SDR là các bút toán ngược lại bút toán bán nêu trên.

5. Vướng mắc các nghiệp vụ liên quan tới SDR và một số gợi ý xử lý

Việc hạch toán các nghiệp vụ liên quan đến SDR hiện đang gặp một số vướng mắc do chưa có quy định cụ thể về cơ chế góp vốn tại các tổ chức quốc tế như IMF, WB,… Qua rà soát, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc góp vốn vào tổ chức quốc tế nên khi có phát sinh khoản góp vốn vào tổ chức quốc tế, các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo từng trường hợp cụ thể trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong từng thời kỳ.

Từ lý do trên, việc hạch toán các khoản góp vốn vào tổ chức quốc tế hiện chưa nhất quán giữa các lần phát sinh, dẫn đến sự chênh lệch số liệu các khoản góp vốn hiện có trên bảng cân đối kế toán và số thực tế đã đóng góp với tổ chức quốc tế. Điều này có thể dẫn đến việc tổng hợp, thống kê số liệu mất nhiều thời gian và tốn nhiều nhân lực khi đơn vị làm báo cáo phải theo dõi số liệu riêng tại phần mềm khác ngoài phần mềm kế toán.

Để tháo gỡ những khó khăn này, việc ban hành văn bản quy định về quy trình liên quan đến nghiệp vụ SDR là cần thiết để từ đó thống nhất nội dung hạch toán giữa các cơ quan quản lý như Bộ Tài chính và NHNN. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành hướng dẫn chi tiết về cách ghi nhận SDR, cách xử lý kế toán đối với nghiệp vụ liên quan như mua/bán, góp vốn, trả phí trên báo cáo tài chính để các đơn vị liên quan hạch toán, theo dõi đồng bộ. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính - với vai trò là cơ quan quản lý về tài chính và NHNN - với vai trò là cơ quan quản lý Dự trữ ngoại hối Nhà nước cần tăng cường phối hợp liên ngành để giải quyết các chênh lệch phát sinh trong quá trình hạch toán và báo cáo tài chính, đặc biệt là trong việc quản lý nợ quốc gia.


Tài liệu tham khảo:

1. Cơ chế hoạt động của SDR tại IMF và mối quan hệ với Dự trữ ngoại hối Nhà nước của Việt Nam, https://sbv.gov.vn
2. Ý nghĩa lần phân bổ dự trữ SDR lớn nhất sắp tới từ trước đến nay của IMF cho Việt Nam và các nước thành viên trong giai đoạn đại dịch Covid-19, https://sbv.gov.vn
3. Phân bổ SDR - Thời báo Tài chính Việt Nam.
4. Questions and answers on Special Drawing Rights (SDRs) - IMF.
5. Thông tư số 19/2015/TT-NHNN ngày 22/10/2015 của Thống đốc NHNN quy định hệ thống tài khoản kế toán NHNN.
6. Annual update on SDR trading operations - Sep 2024. IMF.


Lê Anh Dũng

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Từ thời điểm Luật Nhà ở năm 2005 ra đời, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế thông thoáng để huy động các nguồn vốn cho phát triển nhà ở để bán, cho thuê như: Thành lập Quỹ phát triển nhà ở của các địa phương; huy động vốn của các tổ chức tín dụng; huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính, có nhu cầu mua nhà ở; huy động vốn thông qua các hình thức hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh liên kết...
Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Xem thêm
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc