Giải pháp tiếp cận tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

Chính sách
Kinh nghiệm của các nước phát triển và Việt Nam trong thời kỳ hội nhập cho thấy, vai trò của DNNVV ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, thời gian qua, ở Việt Nam, hoạt...
aa

Kinh nghiệm của các nước phát triển và Việt Nam trong thời kỳ hội nhập cho thấy, vai trò của DNNVV ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế là vô cùng quan trọng.

Tuy nhiên, thời gian qua, ở Việt Nam, hoạt động của các DNNVV còn nhiều hạn chế, do đại dịch Covid-19, cộng đồng DNNVV gặp rất nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản. Theo số liệu mới nhất Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa công bố, năm 2020, số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng gần 10% so với cùng kỳ năm 2019. Một trong những nguyên nhân chính là do nguồn vốn cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng đủ và kịp thời cho hoạt động kinh doanh. Theo đó, nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng đối với DNNVV luôn là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ, các bộ, ngành, DNNVV, cũng như các nhà quản trị ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam.

Khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng đối với DNNVV tại Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của các DNNVV là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các DNNVV đóng vai trò rất quan trọng, không những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế, qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ, hoàn thiện các cơ chế, chính sách về tín dụng, thanh toán, ngoại hối… Bởi lẽ, tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các DNNVV được liên tục; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu và góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNVV.

Hiện nay, các dịch vụ của ngân hàng đã tiếp cận được với các doanh nghiệp nói chung và các DNNVV nói riêng. Các ngân hàng đang nỗ lực kích cầu thị trường thông qua các chương trình ưu đãi lãi suất, tiện ích miễn phí hoặc miễn giảm dịch vụ… hướng tới doanh nghiệp, nhất là DNNVV. Điều này sẽ tiếp thêm nhiều nguồn vốn giá rẻ trong bối cảnh sản xuất - kinh doanh đang hết sức khó khăn như hiện nay. Các DNNVV với đại đa số là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cùng với đặc thù quy mô nhỏ, ít tài sản bảo đảm, phân tán và kéo theo đó là hàng loạt các đặc điểm về quản lý doanh nghiệp cũng đã tạo nên các đặc trưng trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Xác định tiềm năng phát triển từ DNNVV, nhiều năm nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) đã đẩy mạnh cho vay các DNNVV. Dư nợ DNNVV tăng dần qua các năm, mức tăng trưởng trung bình 5 năm vừa qua là 4,36%/năm.

Agribank là một trong những ngân hàng đầu tiên đưa ra chương trình hỗ trợ vốn cho DNNVV, tạo được sự chú ý khi dành các mức lãi suất thấp hơn nhiều so với mức lãi suất cho vay thông thường. Agribank triển khai lãi suất cho vay theo mặt bằng mà Chính phủ, NHNN chỉ đạo đối với 5 lĩnh vực ưu tiên, trong đó có DNNVV với mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa 4,5%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn

7,5%/năm, thấp hơn rất nhiều so với lãi suất cho vay thông thường để tạo cơ hội cho khách hàng có thể mở rộng đầu tư theo chiều sâu, nâng cao năng lực cạnh tranh. Không chỉ ưu đãi lãi suất, Agribank còn chủ trương áp dụng cơ chế, điều kiện thông thoáng để thu hút khách hàng mới tiềm năng, giúp DNNVV tiếp cận vốn vay ngân hàng được dễ dàng, thuận tiện. Đồng thời, Agribank tích cực triển khai kết nối ngân hàng - DNNVV. Đây là kênh tiếp cận vốn nhanh, hiệu quả góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh. Ngoài ra, khi sử dụng các chương trình này của Agribank, DNNVV còn được miễn, giảm phí và giá các sản phẩm bán chéo như: phí thanh toán, phí bảo hiểm, phí mở tài khoản tiền gửi thanh toán, phí phát hành thẻ ATM, Internet Banking… Chính vì vậy, nhiều chương trình đã thực sự tạo ra những cú hích lớn góp phần vào tăng trưởng kinh tế đối với DNNVV.

Không chỉ riêng Agribank, nhiều định chế tài chính khác như VietinBank, Vietcombank, BIDV, MB, VPBank, TPBank… cũng đã triển khai nhiều chương trình ưu đãi tín dụng cho DNNVV. Lãi suất cho vay theo đó đã được kéo xuống mức thấp nhất trong vòng vài năm trở lại đây, vượt qua kỳ vọng của nhiều doanh nghiệp và chuyên gia. VPBank cũng đã giảm mạnh lãi suất cho vay so với biểu lãi suất hiện hành, trong đó, mức giảm cao nhất cho DNNVV lên tới 2%/năm. Bên cạnh đó, để tìm kiếm các giải pháp tài chính an toàn cho cả ngân hàng và DNNVV, VPBank cũng triển khai đồng bộ nhiều chương trình hỗ trợ khách hàng khác nhau, từ miễn, giảm phí, hạ lãi suất, đưa các sản phẩm dịch vụ tích hợp nhằm tiết kiệm chi phí, thời gian cho doanh nghiệp, hay tăng cường tư vấn tài chính cho các dự án kinh doanh…

Để hỗ trợ doanh nghiệp, Agribank có một bộ phận riêng nhằm hỗ trợ tối đa cho DNNVV trong quá trình vay vốn tại ngân hàng. Bộ phận này có nhiệm vụ cập nhật, cung cấp đầy đủ các thông tin tin cậy về tài chính ngân hàng, các thông tin liên quan đến lĩnh vực hoạt động sản xuất - kinh doanh của các DNNVV qua một số kênh như: Tư vấn trực tiếp qua cán bộ quan hệ khách hàng; thông qua các hội nghị, hội thảo về giải pháp tín dụng dành cho DNNVV.


Tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển DNNVV

Một trong những biện pháp nữa giúp DNNVV tiếp cận nguồn vốn là việc đưa Quỹ Phát triển DNNVV vào hoạt động một cách mạnh mẽ. Quỹ tập trung vào các DNNVV có tiềm năng phát triển, có dự án, phương án kinh doanh khả thi và DNNVV nằm trong diện đối tượng ưu tiên như doanh nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp chế biến nông sản, doanh nghiệp xuất khẩu... Quỹ này cho DNNVV vay vốn với lãi suất ưu đãi so với thị trường, lãi suất sẽ được tính theo lãi suất trung bình của các NHTM lớn. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Theo đó, các địa phương thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để cấp bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV, bảo đảm nguồn vốn vay hỗ trợ DNNVV sản xuất, kinh doanh. Thủ tướng đã giao nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Ðây là những giải pháp thiết thực, tạo điều kiện cho DNNVV phát triển.

Một số chi nhánh NHTM đã phối hợp, hợp tác với các định chế tài chính khác trên cùng địa bàn góp vốn cho Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV để tạo thuận lợi DNNVV tiếp cận vốn. Theo đó, các ngân hàng phối hợp chặt chẽ với Quỹ bảo lãnh tín dụng để tạo điều kiện cho các DNNVV trên địa bàn tiếp cận nguồn vốn vay thông qua bảo lãnh tín dụng của Quỹ, rút ngắn thời gian thẩm định và xem xét cho vay, giảm khối lượng công việc trong khâu thẩm định đối với các hồ sơ vay vốn.

Bên cạnh đó, Chính phủ đã có những giải pháp hỗ trợ cho DNNVV như triển khai những chính sách, chương trình hỗ trợ vốn cho các DNNVV, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ tín dụng... nhất là việc tạo điều kiện cho DNNVV tham gia vào các dự án của Chính phủ. Các chính sách này nhìn chung đã bao quát mọi hoạt động của doanh nghiệp, DNNVV phải biết nắm bắt cơ hội, tự xây dựng kế hoạch kinh doanh và nâng cao năng lực quản trị để có thể tiếp nhận được những điều kiện tốt và phù hợp với mình.

Tuy nhiên, chỉ có một số DNNVV tiếp cận được với chính sách này. Phần lớn các DNNVV còn lại đều gặp trở ngại vì chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện, thủ tục vay vốn của ngân hàng (tài sản đảm bảo, tỷ lệ vốn tự có, chứng minh khả năng tài chính, kế hoạch quản lý dòng tiền…). Vì thế, thời gian qua đã có hàng chục nghìn DNNVV phải tạm ngừng hoạt động hoặc giải thể do không đủ nguồn lực tài chính để tiếp tục thực hiện kế hoạch hoạt động kinh doanh. Thực trạng tình hình hoạt động của các DNNVV như trên là do một số nguyên nhân sau:

Một là, hạn chế trong tiếp cận thông tin, trình độ nhân lực, quản trị dẫn tới kỹ năng hoạch định, xây dựng phương án sản xuất - kinh doanh của các DNNVV thiếu tính khả thi và chưa có kế hoạch ứng phó với biến động của giá cả, thị trường… Tài sản bảo đảm của các DNNVV cũng chưa đáp ứng được các yêu cầu của tổ chức tín dụng (TCTD) như tính pháp lý của tài sản chưa rõ ràng, tài sản không khả mại, giá trị bảo đảm thấp…

Hai là, doanh nghiệp quy mô nhỏ với nguồn lực tài chính còn hạn chế, chưa đủ bảo đảm tài chính dự phòng trong kế hoạch năm, kế hoạch dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất không khả thi, vì vậy, chưa thực sự chủ động đàm phán được các mức chiết khấu như các đối tượng mua số lượng lớn. Việc lựa chọn nguyên vật liệu đầu vào có chất lượng cũng gặp phải những khó khăn nhất định, dẫn đến chất lượng của sản phẩm đầu ra không ổn định.

Ba là, hệ thống báo cáo tài chính chưa được các DNNVV thực sự quan tâm nên số liệu phản ánh chưa chính xác, chưa được kiểm toán theo quy định. Vì thế, các TCTD thiếu thông tin khi phân tích, đánh giá và thẩm định đề nghị xin vay của DNNVV, ảnh hưởng đến việc đưa ra các quyết định cho vay cũng như chất lượng khoản vay. Hiện nay, 65,2% DNNVV trong diện điều tra có nhu cầu vay vốn của ngân hàng, tỷ lệ này năm 2019 là 57,3% nhưng mới chỉ có 30% DNNVV tiếp cận được vốn từ ngân hàng, còn lại phải sử dụng vốn tự có hoặc vay từ các nguồn khác với chi phí vốn cao.

Bốn là, do nợ xấu gia tăng và năng lực cạnh tranh của DNNVV còn yếu kém; báo cáo tài chính thiếu minh bạch, không có nhiều tài sản bảo đảm tốt nên các NHTM phòng ngừa rủi ro, xem xét chặt chẽ và kỹ lưỡng hơn rất nhiều đối với những khoản cấp tín dụng mới; ngân hàng chưa mạnh dạn tăng trưởng tín dụng với đồng loạt các DNNVV mà chỉ tập trung với một số doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh tốt. Hơn nữa, bản thân các TCTD cũng gặp khó khăn trong việc cân đối nguồn vốn trước khó khăn chung của nền kinh tế, nguồn vốn huy động chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn nhưng nhu cầu vay vốn trung, dài hạn của các DNNVV là rất lớn. Đây cũng là một trong những lý do dẫn đến việc các NHTM thắt chặt các điều kiện vay vốn.

Giải pháp và kiến nghị nâng cao tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng đối với DNNVV để phát triển sản xuất - kinh doanh thời gian tới

Với điều kiện của nền kinh tế nước ta, DNNVV giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đóng góp vào mức tăng trưởng GDP, đáp ứng nhu cầu việc làm và các vấn đề xã hội khác. Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp lớn, DNNVV có nhiều đặc điểm khác biệt và đặc điểm này có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp cận vốn của DNNVV. Trong thời gian tới, để các DNNVV tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng dễ dàng hơn, tác giả đề xuất một số giải pháp và kiến nghị như sau:


Đối với NHTM


Thứ nhất,nâng cao năng lực của các ngân hàng như năng lực tài chính, năng lực quản lý, phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến.

Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng công nghệ tiên tiến bao gồm cả công nghệ quản lý cũng như hạ tầng cơ sở cung cấp dịch vụ là hai yếu tố nền tảng trong việc nâng cao năng lực quản lý của các NHTM Việt Nam. Hiện nay, một số ngân hàng như ACB, Techcombank… lựa chọn cách thức hợp tác với các ngân hàng nước ngoài (các ngân hàng nước ngoài trở thành nhà đầu tư chiến lược tại các ngân hàng) để nâng cao năng lực toàn diện của ngân hàng mình.

Thứ hai, huy động và đáp ứng đủ nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn, mở rộng tín dụng cho DNNVV. Huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm, quyết định đến việc hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh. Có tăng trưởng nguồn vốn ổn định thì mới được tăng trưởng tín dụng. Chú trọng huy động nguồn vốn ổn định từ dân cư và các tổ chức kinh tế. Để đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh, các NHTM cần đề cao việc đa dạng các hình thức huy động vốn, trong đó cung cấp kịp thời các sản phẩm tiền gửi cho khách hàng với các hình thức đa dạng, phong phú, nhất là các loại sản phẩm huy động vốn (đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn) trên nền tảng công nghệ hiện đại và mang nhiều tiện ích cho khách hàng. Cần căn cứ từng đối tượng khách hàng, từng địa phương mà thiết kế danh mục các hình thức huy động khác nhau cho phù hợp; tăng cường hợp tác, kết nối thanh toán với các tổ chức, doanh nghiệp lớn; tăng cường huy động vốn tại các đô thị, thành phố để chuyển tải về nông thôn, đảm bảo các yêu cầu vốn để phục vụ DNNVV thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau…

Thứ ba, rút ngắn thời gian thẩm định tín dụng và đơn giản hóa thủ tục vay vốn cho các DNNVV. Mặt khác, các ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện quy trình vay vốn của mình để có sức hấp dẫn DNNVV tiềm năng.


Thứ tư, các NHTM cần tăng cường vai trò tư vấn cho DNNVV.


Tăng cường vai trò tư vấn cho khách hàng về các cách tiếp cận dịch vụ, tiện ích của ngân hàng một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Khả năng có thể thực hiện cung cấp vốn vay một cách hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả đối với khoản vay, ngân hàng nên thường xuyên theo dõi, đánh giá tình hình tài chính cũng như các hoạt động của khách hàng. Điều quan trọng là ngân hàng đóng vai trò tư vấn về quản lý tài chính, lập hồ sơ và lập dự án vay vốn ngân hàng để khách hàng dễ tiếp cận được vốn vay ngân hàng, sử dụng vốn vay hiệu quả, đó cũng là cách tốt nhất đảm bảo người vay trả nợ đúng hạn. Nếu làm tốt điều này, không những uy tín của ngân hàng nâng lên, mà ngân hàng còn trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy của khách hàng. Trong quan hệ vay vốn, việc tạo lập được quan hệ lâu dài, trên tinh thần tương hỗ lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả hai phía, vừa thúc đẩy mở rộng cho vay một cách hiệu quả của ngân hàng, vừa đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho DNNVV.


Thứ năm, xây dựng mục tiêu tín dụng và chính sách lãi suất đối với DNNVV. Hoàn thiện quy trình thẩm định tín dụng chặt chẽ và đảm bảo thực hiện đúng quy trình trước khi giải ngân. Đồng thời, giám sát tình hình sử dụng vốn vay của DNNVV sau khi giải ngân.

Đối với DNNVV

Một là, để nắm bắt thời cơ, DNNVV phải tự xây dựng kế hoạch kinh doanh để có thể tiếp nhận được những điều kiện tốt và phù hợp, tăng năng lực cạnh tranh của DNNVV. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, bên cạnh các chính sách của Chính phủ, cơ chế cho vay hoặc hỗ trợ vốn của các TCTD, yếu tố quyết định vẫn là sự nỗ lực của bản thân DNNVV. Các DNNVV cần đánh giá lại chiến lược sản phẩm, marketing, nhân lực nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và đổi mới công nghệ tương ứng, tích cực, chủ động tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, ngân hàng đặc biệt là các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về quản lý tài chính, lập dự án kinh doanh.

Hai là, các DNNVV cần chấp hành nghiêm chỉnh Luật Doanh nghiệp, Luật Kế toán và các quy định về tài chính, kế toán của Nhà nước, thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, cung cấp thông tin báo cáo chính xác và kịp thời cho các TCTD khi có yêu cầu. Đây được coi là cơ sở quan trọng để ngân hàng đầu tư vốn.

Các DNNVV sử dụng vốn vay ngân hàng đúng mục đích, tuân thủ các nội dung trong hợp đồng tín dụng; phối hợp với ngân hàng trong việc thẩm định, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay; thiện chí, hợp tác với ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm.

Ba là, các DNNVV cần đổi mới và nâng cao trình độ quản trị điều hành doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; không ngừng đổi mới công nghệ, nắm bắt thông tin, chú trọng các sản phẩm hàng hóa làm ra phải có tính cạnh tranh và thị trường tiêu thụ; tăng cường bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu; nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp đối với nhân viên.

Đối với Ngân hàng Nhà nước

Một là, chỉ đạo các NHTM dành một phần vốn tín dụng cho các DNNVV hoạt động trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu, sản xuất - kinh doanh những mặt hàng thiết yếu, sử dụng nhiều lao động, tham gia vào các công trình quốc gia quan trọng.


Hai là, nâng cao hơn nữa vai trò của Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam trong việc cung cấp thông tin tín dụng đối với NHTM.

Để thúc đẩy các DNNVV tiếp cận nguồn vốn tín dụng phát triển sản xuất - kinh doanh, hạn chế “tín dụng đen” thì việc khắc phục tâm lý e ngại, tình trạng thiếu hiểu biết của một bộ phận DNNVV đối với khả năng tiếp cận tín dụng và lập hồ sơ vay tín dụng cũng là cần thiết và cấp bách.

Đối với Hiệp hội DNNVV

Một là, để hỗ trợ DNNVV phát triển, cần thay đổi cơ chế, chính sách đối với DNNVV mạnh mẽ hơn nữa. Hiệp hội DNNVV nên chủ động tìm hiểu những khó khăn của DNNVV, từ đó, kiến nghị Quốc hội, Chính phủ về các vấn đề của các DNNVV trong tình hình hiện nay.

Hai là, sớm thực hiện việc phân tích, đánh giá, phân loại các DNNVV trong Hiệp hội để ngân hàng có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với từng nhóm khách hàng.

Ba là, thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng trình độ cho chủ DNNVV và cán bộ quản lý DNNVV, hỗ trợ DNNVV xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, hướng dẫn chế độ hạch toán đúng quy định; cung cấp các dịch vụ kinh doanh. Nên hướng mạnh vào việc bổ túc tri thức quản trị kinh doanh cho doanh nhân, đa dạng hóa hình thức tôn vinh doanh nhân, DNNVV xuất sắc, có nhiều đóng góp cho sự phát triển, tạo nên động lực cho DNNVV củng cố vị thế trong cộng đồng.

Bốn là, tăng cường năng lực tiếp cận thông tin chính sách pháp luật cho khối DNNVV, như xây dựng trang thông tin điện tử về hỗ trợ pháp lý cho DNNVV; xây dựng Quỹ hỗ trợ DNNVV làm cầu nối cho TCTD và DNNVV tiếp cận nhau, hỗ trợ DNNVV khai thác thị trường đầu ra, chủ động gửi danh sách các DNNVV cần vay vốn để các TCTD có thể tiếp cận nhanh và hiệu quả.


Đối với Chính phủ

Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện các giải pháp hỗ trợ, giảm thuế, lãi suất tín dụng thấp hơn để các DNNVV được tiếp sức, vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19 và có cơ hội phát triển; đồng thời, hoàn thiện khung pháp lý cho DNNVV hoạt động. Các cấp chính quyền, ngành chức năng cần quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại; tích cực cải cách thủ tục hành chính; thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư; nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, cung cấp nhân lực cho DNNVV; bảo đảm an toàn, an ninh cho DNNVV, tạo ra môi trường thông thoáng để các DNNVV hoạt động. Các văn bản chính sách liên quan DNNVV phải được thực hiện theo hướng tạo những điều kiện thông thoáng nhất cho DNNVV hoạt động, như trong lĩnh vực đấu thầu, đất đai, thuế, đầu tư, phá sản DNNVV... Giảm bớt các quy định, giấy phép can thiệp hành chính vào thị trường.

Tóm lại, DNNVV mang lại sự năng động, thúc đẩy kinh tế phát triển và cải thiện đời sống người dân, góp phần quan trọng trong việc khai thác tiềm năng kinh tế của đất nước, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế giữa các vùng, miền. Để có thể phát triển sản xuất - kinh doanh, DNNVV cần huy động thêm vốn và ngân hàng là một kênh chủ chốt đáp ứng nhu cầu này. Trong quá trình tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, khó khăn của các DNNVV bắt nguồn từ cả khía cạnh chính sách, quy định của Chính phủ, lẫn trong thực tế hoạt động của bản thân DNNVV. Vì vậy, bên cạnh các chính sách của Chính phủ, cơ chế cho vay hoặc hỗ trợ vốn của các TCTD, yếu tố quyết định vẫn là sự nỗ lực của bản thân DNNVV.■

Tài liệu tham khảo:

1. http://agribank.com.vn

2. http://dangkykinhdoanh.gov.vn

3. http://www.moj.gov.vn

4. http://www.mpi.gov.vn

5. http://www.nhandan.com.vn

6. http://www.vpbank.com.vn

7. http://vinasme.vn

8. http://www.vietinbank.vn

ThS. Nguyễn Quốc Hưng
Giám đốc Agribank Chi nhánh tỉnh Bắc Giang

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mở ra một hướng tiếp cận vốn mới cho các doanh nghiệp xanh, mà còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường carbon và thực hiện hiệu quả các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Xây dựng hành lang pháp lý về tiền kỹ thuật số tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Xây dựng hành lang pháp lý về tiền kỹ thuật số tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý quản lý tiền kỹ thuật số, một lĩnh vực vừa nhiều tiềm năng đổi mới, vừa ẩn chứa rủi ro hệ thống và pháp lý phức tạp. Bối cảnh thế giới cho thấy xu hướng hợp pháp hóa có kiểm soát, đặt trọng tâm vào bảo vệ nhà đầu tư, giám sát rủi ro và thúc đẩy phát triển công nghệ. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, bài viết này đề xuất một số khuyến nghị về việc xây dựng khung pháp luật quản lý tiền kỹ thuật số ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Xem thêm
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng