Dự trữ ngoại hối – nền tảng quan trọng giúp ổn định vĩ mô

Kinh tế - xã hội
Gia tăng dự trữ ngoại hối giúp cho NHNN có nhiều dư địa và giải pháp phù hợp trong việc điều hành chính sách tiền tệ, tạo thuận lợi cho việc điều hành linh hoạt và ổn định tỷ giá, nâng cao giá trị ti...
aa

Gia tăng dự trữ ngoại hối giúp cho NHNN có nhiều dư địa và giải pháp phù hợp trong việc điều hành chính sách tiền tệ, tạo thuận lợi cho việc điều hành linh hoạt và ổn định tỷ giá, nâng cao giá trị tiền đồng...

Gia tăng quy mô dự trữ ngoại hối

Mới đây, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng cho biết, dự trữ ngoại hối (DTNH) quốc gia đã tăng lên gần gấp 3 lần so với năm 2015. Quy mô DTNH của Việt Nam hiện ở mức khoảng 4 tháng nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ đã giúp củng cố an ninh quốc gia, phòng ngừa những tác động bên ngoài, củng cố niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước vào năng lực thực tế của Chính phủ và NHNN. Mức DTNH như trên, xét theo quy định của IMF, theo đánh giá của TS. Võ Trí Thành - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, vẫn còn khiêm tốn, nhưng xét theo lịch sử quá trình xây dựng DTNH Việt Nam đó là nỗ lực đáng kể.

Tỷ giá ổn định góp phần thúc đẩy xuất khẩu

Có được kết quả này, giới phân tích cho rằng, một trong những yếu tố quan trọng đó là nền tảng kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát kiểm soát tốt trong nhiều năm qua. Bên cạnh đó, nguồn cung ngoại tệ mấy năm gần đây được cải thiện rất tích cực nhờ dòng vốn đầu tư nước ngoài và cán cân thương mại liên tục thặng dư. Theo đánh giá của TS. Võ Trí Thành, sự đúng đắn trong điều hành chính sách của NHNN theo nguyên tắc giảm tình trạng đôla hoá trong nền kinh tế đã củng cố lòng tin vào đồng VND, nâng cao giá trị đồng tiền… là nhân tố quan trọng góp phần gia tăng DTNH.

Ngoài ra, việc lãi suất VND duy trì mức chênh lệch đáng kể so với lãi suất USD cũng làm giảm sức hấp dẫn của USD và nâng cao vị thế cho VND. Theo đó, hiện lãi suất tiết kiệm các kỳ hạn từ 6 đến 12 tháng ở mức 4,4-7,2%/năm đang đảm bảo một mức sinh lời nhất định cho người gửi tiền; trong khi đó, người nắm giữ USD không được trả lãi, đồng thời phải đối mặt nguy cơ USD giảm giá. Theo thống kê của CTCK Bảo Việt (BVSC), cuối tuần qua, chỉ số USD Index đóng cửa tuần ở mức 92,37 điểm, giảm 0,93% so với tuần trước đó. Đồng USD mất giá đối với tất cả các đồng ngoại tệ khác trong rổ. Cụ thể, USD mất giá lần lượt 0,41%; 2,01%; 0,9%; 1,98%; 0,59% và 0,82% so với JPY, GBP, EUR, SEK, CAD và CHF. Nhiều chuyên gia ngoại hối quốc tế cũng dự báo đồng USD sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới bởi quan điểm chính sách mới của Fed mở đường cho việc duy trì trạng thái nới lỏng tiền tệ trong một thời gian dài dù lạm phát vượt lên trên 2%...

Với việc DTNH liên tục được củng cố, TS. Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia tài chính cho rằng, đây là tín hiệu đáng mừng đối với Việt Nam; là thành công trong điều hành chính sách ngoại hối của NHNN. Nó còn là một bộ đệm quan trọng giúp nền kinh tế chống đỡ lại các cú sốc từ bên ngoài, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, thị trường ngoại hối ổn định sẽ giúp các nhà đầu tư nước ngoài tự tin bỏ vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam, bởi họ ít phải lo ngại về rủi ro tỷ giá. “Chính sách tỷ giá luôn là một yếu tố vĩ mô quan trọng để nhà đầu tư nước ngoài xem xét khi họ có ý định đầu tư vào Việt Nam”, vị chuyên gia này nhấn mạnh.

Gia tăng DTNH cũng giúp cho NHNN có nhiều dư địa và giải pháp phù hợp trong việc điều hành chính sách tiền tệ, tạo thuận lợi cho việc điều hành linh hoạt và ổn định tỷ giá, nâng cao giá trị tiền đồng.

Tiếp tục tăng quy mô dự trữ ngoại hối là cần thiết

Hiện có ý kiến cho rằng, NHNN nên hạn chế mua thêm USD vì quỹ DTNH đã trên mức tối thiểu cần có là 3 tháng nhập khẩu. Đồng tình về mặt kỹ thuật, nhưng TS. Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh, đây là mức độ an toàn tối thiểu chung trên toàn thế giới, nhưng DTNH như bộ gối đệm quốc gia. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bị tác động bởi dịch bệnh Covid, gối đệm càng cần phải dày dặn mới có thể giúp Việt Nam chủ động ứng phó với các cú sốc bên ngoài, ổn định được các thị trường ngoại tệ, vàng...

TS. Võ Trí Thành cho rằng, với nền kinh tế mở như Việt Nam, nhất là sự bất định của kinh tế toàn cầu thì mức DTNH cao hơn ở mức 5-6 tháng nhập khẩu cũng là cần thiết để tạo thêm nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế... Tất nhiên, việc tăng DTNH thêm bao nhiêu không phải là chuyện đơn giản mà phải xét theo nhiều biến số khác như nợ quốc gia, nợ nước ngoài, cán cân thanh toán quốc tế...

Liên quan đến vấn đề này, lãnh đạo Vụ chức năng NHNN cho biết, mức 3 tháng nhập khẩu của IMF là yêu cầu đối với các nước chưa mở cửa nền kinh tế nhiều. Với các nước có độ mở kinh tế cao như Việt Nam, IMF khuyến nghị DTNH nên ở mức 4 - 4,5 tháng nhập khẩu. Như vậy với mức DTNH hiện tại của Việt Nam ở mức tối thiểu theo thông lệ quốc tế. Chủ trương của Chính phủ là tiếp tục tăng quy mô DTNH khi thị trường thuận lợi để có đủ ngoại tệ can thiệp khi cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh thị trường quốc tế tiềm ẩn nhiều rủi ro biến động như hiện nay. TS. Nguyễn Đức Độ - Học viện Tài chính tỏ ra thận trọng hơn khi nhận xét, tuy là công cụ cần thiết hỗ trợ NHNN can thiệp thị trường, nhưng không nên tăng DTNH bằng mọi giá mà phù hợp với bối cảnh thực tế. Điều quan trọng nhất, theo TS. Độ là phải cân bằng nhiều mục tiêu như điều tiết cung tiền, lạm phát, cân bằng tỷ giá giữa tiền đồng và USD... Ghi nhận khuyến nghị trên là hợp lý, nhưng lãnh đạo Vụ chức năng cho hay, thời gian qua, bên cạnh việc cung ứng tiền mua ngoại tệ bổ sung dự trữ, NHNN đã sử dụng các biện pháp trung hoà để hút tiền về nên đã kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. “NHNN luôn chủ động theo dõi và can thiệp thị trường theo cả hai chiều mua bán vì mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, không vì mục tiêu dự trữ để tung tiền ra lưu thông hỗ trợ xuất khẩu”, lãnh đạo Vụ chức năng khẳng định.

Chia sẻ thêm về định hướng quản lý DTNH, lãnh đạo Vụ chức năng cho biết, thời gian qua, ngoài gia tăng DTNH, công tác đầu tư nguồn lực này của NHNN khá thành công vừa đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc quản lý theo quy định, đảm bảo được khả năng thanh toán quốc tế và mục tiêu sinh lời trong đầu tư DTNH nhà nước. Chẳng hạn, điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ, đa dạng loại ngoại tệ đầu tư giúp NHNN giảm thiểu những tác động bất lợi trên thị trường quốc tế và nâng cao mức sinh lời khi đầu tư vào các loại ngoại tệ mới tiềm năng.

Song song với đó, chú trọng nguyên tắc an toàn, NHNN đầu tư vào các công cụ truyền thống có rủi ro thấp như đầu tư vào tiền gửi và trái phiếu Chính phủ của một số nước lớn, có nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định… Thời hạn đầu tư cũng được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biễn thị trường quốc tế và nhu cầu can thiệp thị trường ngoại hối trong nước. Cụ thể, khi lãi suất có xu hướng giảm, NHNN thường tăng thời hạn đầu tư. Và ngược lại khi lãi suất có xu hướng tăng, NHNN thường tăng kỳ hạn ngắn để đón đầu lãi suất nâng cao khả năng sinh lời. Đây cũng sẽ là nguồn thu lớn bổ sung ngân sách nhà nước, tạo nguồn cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước.

Trong thời gian tới, NHNN nghiên cứu từng bước đổi mới toàn diện công tác quản lý DTNH nhà nước từ khâu hoàn thiện cơ sở pháp lý đến khâu xây dựng danh mục tài sản chiến lược, chiến thuật; xác định mức rủi ro và biện pháp quản lý rủi ro phù hợp cũng như đổi mới hạch toán kế toán phù hợp chuẩn mực quốc tế góp phần củng cố và cải thiện hiệu quả đầu tư DTNH nhà nước trong thời gian tới.

Nguyễn Vũ

Theo: thoibaonganhang.vn

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Agribank thúc đẩy hoạt động khoa học và sáng kiến trong bối cảnh chuyển đổi số

Agribank thúc đẩy hoạt động khoa học và sáng kiến trong bối cảnh chuyển đổi số

Thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị và Chính phủ, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã chủ động triển khai nhiều chiến lược phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Bài viết phân tích vai trò then chốt của hoạt động khoa học và sáng kiến trong giai đoạn 2021 - 2025, qua đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế, số hóa quản lý, nâng cao năng lực nhân sự và xây dựng văn hóa đổi mới tại Agribank.
TỔNG THUẬT: Kỷ niệm trọng thể 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

TỔNG THUẬT: Kỷ niệm trọng thể 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Sáng 2/9, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hà Nội tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2025).
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Sáng 2/9, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm đã dự và đọc Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025). Trân trọng giới thiệu Diễn văn của Tổng Bí thư.
80 năm Quốc khánh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

80 năm Quốc khánh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025), sáng 1/9, Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

Kinh tế Việt Nam: Hành trình 80 năm tự chủ, hội nhập và phát triển

Trải qua chặng đường 80 năm gian nan nhưng cũng đầy rực rỡ, nền kinh tế Việt Nam đã chứng minh bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên không ngừng của dân tộc. Từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu, chịu nhiều tàn phá của chiến tranh, Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế là một trong những nền kinh tế năng động hàng đầu khu vực và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh mới với những cơ hội và thách thức đan xen, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục phát huy truyền thống kiên cường, đoàn kết, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xứng đáng với kỳ vọng và niềm tin của các thế hệ cha anh.
Thư chúc mừng Thời báo Ngân hàng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thư chúc mừng Thời báo Ngân hàng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số và từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách hướng tới nền tài chính toàn diện; trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ hỗ trợ truyền thông chính sách hiệu quả, chính xác hơn mà còn giúp tự động hóa quy trình, tối ưu chi phí, nâng cao trải nghiệm khách hàng - từ cá nhân hóa thông điệp, phân tích dữ liệu lớn để nắm bắt nhu cầu, đến phát hiện và xử lý thông tin sai lệch trên môi trường số. Bên cạnh cơ hội, AI cũng đặt ra không ít thách thức. Chính vì vậy, Thời báo Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Ứng dụng AI trong truyền thông chính sách và sản phẩm, dịch vụ ngân hàng” diễn ra ngày 20/8/2025 tại Hà Nội.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước lần thứ I: Đoàn kết, trách nhiệm, đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá

Đại hội đại biểu Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước lần thứ I: Đoàn kết, trách nhiệm, đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá

Sáng 14/8/2025, tại Hà Nội, Đảng ủy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ NHNN lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Đại hội với phương châm “Đổi mới - Sáng tạo - Kỷ cương - Dân chủ - Linh hoạt - Hiệu quả” là sự kiện chính trị quan trọng, diễn ra trong bối cảnh đất nước kỷ niệm nhiều sự kiện trọng đại năm 2025.
Xem thêm
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Khảo sát nội dung quy định về áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan từ khi chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp đến nay cho thấy, đã có sự thay đổi trong tiếp cận và quy định việc áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan. Sự thay đổi này đòi hỏi trong thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng, TCTD và khách hàng sẽ áp dụng luật này, trong tư cách là luật được ban hành sau. Tuy nhiên, Luật số 32/2024/QH15 có phạm vi điều chỉnh rộng...
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 17/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam – Trung Quốc

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài