Đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững

Nghiên cứu - Trao đổi
Không ngừng nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo và ngày càng đề cao yêu cầu phát triển bền vững là chìa khóa động lực và cũng là thước đo hiệu quả tổng hợp hệ thống chính sách phát triển của quốc gia ...
aa

Không ngừng nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo và ngày càng đề cao yêu cầu phát triển bền vững là chìa khóa động lực và cũng là thước đo hiệu quả tổng hợp hệ thống chính sách phát triển của quốc gia và từng doanh nghiệp.



Đổi mới sáng tạo là yếu tố then chốt của phát triển bền vững

Không ngừng cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo

Đổi mới sáng tạo là năng lực tạo ra và ứng dụng giải pháp kỹ thuật, thành tựu công nghệ, sự linh hoạt và hiệu quả trong phản ứng chính sách và thị trường để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và phát triển doanh nghiệp. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index, gọi tắt là GII) là một bộ công cụ đánh giá xếp hạng năng lực đổi mới sáng tạo của các quốc gia, được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) phối hợp với Viện INSEAD, Pháp và Đại học Cornell, Hoa Kỳ tính toán. Năm 2018, bộ chỉ số này gồm có 21 nhóm chỉ số và 80 tiểu chỉ số, được chia thành 7 trụ cột chính với 5 trụ cột đầu vào là: thể chế vĩ mô, nguồn nhân lực và nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, thị trường và môi trường kinh doanh và 2 trụ cột đầu ra là: sản phẩm tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo.

Theo Báo cáo về xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2018 của WIPO, Việt Nam tăng 2 bậc so với năm 2017, lên vị trí 45/126 quốc gia và nền kinh tế được xếp hạng, tức tăng 14 bậc so với năm 2016 và tăng 31 bậc so với năm 2013. Việt Nam có điểm số cao hơn mức trung bình trong cả 7 trụ cột, trong đó: Chỉ số về Nâng cao hiệu quả Thực thi pháp luật tăng 17 bậc (xếp thứ 57); Chỉ số về Môi trường kinh doanh tăng 10 bậc; Chỉ số về Trình độ kinh doanh tăng 7 bậc; Chỉ số Chi cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp tăng 23 bậc (xếp thứ 13); Chỉ số Chi cho nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp tăng 4 bậc (xếp thứ 48), và chỉ số Hợp tác Đại học và doanh nghiệp tăng 17 bậc (xếp thứ 59). Đặc biệt, Chỉ số Tạo ứng dụng di động, một chỉ số về phát triển kinh tế số, Việt Nam được xếp hạng 16, thay cho vị trí thứ 52 về tải video lên youtube của năm 2017.

Năm 2019, việc tính toán chỉ số GII có thay đổi về phương pháp, cụ thể là thay đổi về chỉ số, nguồn dữ liệu và phương pháp tính toán chỉ số. GII năm 2019 với 21 nhóm chỉ số và 80 tiểu chỉ số vẫn được chia thành 7 trụ cột chính với 5 trụ cột đầu vào là: thể chế vĩ mô, nguồn nhân lực và nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, thị trường và môi trường kinh doanh và 2 trụ cột đầu ra là: sản phẩm tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo.

Theo báo cáo của WIPO, chỉ số GII năm 2019 của Việt Nam tiếp tục cải thiện vị trí, tăng 3 bậc, lên vị trí 42 trên 129 quốc gia/nền kinh tế được xếp hạng so với năm 2018. Thứ hạng này đã đưa Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 trong ASEAN sau Singapore và Malaysia. Quan trọng hơn, Việt Nam có sự tiến bộ ở cả nhóm chỉ số đầu vào (tăng 2 bậc so với năm 2018) và đầu ra (tăng 4 bậc so với năm 2018), cũng như có điểm số cao trong cả 7 trụ cột, đều cao hơn mức trung bình. Một số chỉ số có cải thiện đáng chú ý so với năm 2018 là: Trình độ phát triển của thị trường tăng 3 bậc; tín dụng tăng 4 bậc; tăng năng suất lao động tăng 3 bậc. Và đặc biệt là hai chỉ số liên quan đến đầu vào và đầu ra của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã có những bước nhảy vọt, cụ thể là: Chỉ số Tổng chi cho nghiên cứu và phát triển tăng 5 bậc và chỉ số Sản phẩm dựa trên tri thức và công nghệ tăng 8 bậc.

Kết quả chỉ số GII năm 2019 cho thấy Việt Nam đạt mục tiêu mà Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của Chính phủ đặt ra.

Quá trình cải thiện xếp hạng về các chỉ số GII năm 2018 và 2019 là kết quả sự chỉ đạo quyết liệt, toàn diện của Chính phủ, sự nỗ lực chung của các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp trong việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, xây dựng và triển khai các giải pháp đồng bộ, thiết thực, nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo và cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và tạo ra nhu cầu để doanh nghiệp đổi mới công nghệ nhanh hơn, mạnh hơn, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng nền kinh tế.

Đặc biệt, từ năm 2018 và 2019, với sự hỗ trợ của Tập đoàn Tư vấn Boston Consulting Group (BCG), Công ty Kiến trúc Arup, Việt Nam đã xúc tiến những khởi động đầu tiên xây dựng đề án hình thành Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (gọi tắt là NIC) của Việt Nam, với 5 lĩnh vực ưu tiên là nhà máy thông minh, nội dung số, an ninh mạng, đô thị thông minh, công nghệ môi trường, được kỳ vọng trở thành là biểu tượng và hạt nhân về đổi mới sáng tạo và thúc đẩy thay đổi mô hình phát triển kinh tế đất nước về dài hạn, một điểm nhấn trong Chiến lược triển khai cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam.

Đây là trung tâm đầu tiên trong hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo, không sử dụng ngân sách nhà nước, mà huy động nguồn lực đầu tư thông qua xã hội hóa.

Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo ở Việt Nam có sự khác biệt và áp dụng triệt để các kinh nghiệm quốc tế, huy động tư nhân hoặc chuyên gia nước ngoài điều hành, thể chế thuận lợi có thể cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế giới. Để khuyến khích Trung tâm hoạt động hiệu quả, Chính phủ cần đi đầu trong sử dụng ứng dụng các sản phẩm đổi mới sáng tạo; đặt hàng các sản phẩm đổi mới sáng tạo, cho phép các trung tâm đổi mới sáng tạo nước ngoài đã hình thành liên kết với các trung tâm đổi mới sáng tạo trong nước vận hành các trung tâm này; đồng thời, có chính sách phù hợp thu hút các nhân tài số, các kỹ sư phần mềm; đẩy mạnh cải cách về môi trường đầu tư, nhất là về thuế, đất đai, thủ tục hành chính liên quan đến đổi mới sáng tạo, cấp bản quyền và thương mại hóa các nghiên cứu tập trung vào một ngành cụ thể mang tính động lực. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định Chính phủ sẽ làm hết sức mình để ủng hộ Trung tâm Đổi mới sáng tạo, bởi nếu không có đổi mới sáng tạo, không có khoa học công nghệ thì không thành công, không tận dụng được thời cơ đến với Việt Nam.

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, để tiếp tục cải thiện thứ hạng trong chỉ số GII một cách bền vững, cần tiếp tục chú trọng cả các yếu tố đầu vào của đổi mới sáng tạo, trong đó, đặc biệt lưu ý cải thiện các nhóm chỉ số về hạ tầng công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin, cải thiện môi trường kinh doanh, chất lượng các quy định pháp luật, nâng cao chất lượng lực lượng lao động.

Yêu cầu đẩy mạnh đổi mới sáng tạo để phát triển bền vững thời đại công nghệ 4.0, đòi hỏi tất cả các cấp chính quyền, ngành, doanh nghiệp cần tập trung cải thiện chất lượng các quy định pháp luật về thị trường vốn và đầu tư; khởi sự kinh doanh và giải quyết phá sản doanh nghiệp; bảo đảm chi ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực tài chính của doanh nghiệp và các nguồn lực xã hội để đầu tư cho nghiên cứu phát triển công nghệ, nâng cao trình độ và năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp; phát triển các trung tâm nghiên cứu và thông tin khoa học công nghệ quốc gia, phát triển thị trường khoa học, công nghệ; công khai, minh bạch nhiệm vụ khoa học công nghệ và kết nối giữa viện nghiên cứu, trường đại học với các doanh nghiệp; hỗ trợ chuyển giao công nghệ và thúc đẩy nhanh quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu; phát triển, trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, thu hút trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và thực sự coi doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia cùng và cũng là chủ thể đi đầu trong thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. Đồng thời, cơ quan chức năng cần nghiên cứu bổ sung một số chỉ số về đổi mới sáng tạo vào thống kê quốc gia định kỳ cập nhật hàng năm theo tinh thần Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ, nhằm hoàn thiện công tác thống kê đổi mới sáng tạo ở Việt Nam và xây dựng, thực hiện hệ chính sách tương ứng theo thông lệ quốc tế.

Hài hòa lợi ích mục tiêu theo yêu cầu phát triển bền vững

Phát triển bền vững đòi hỏi kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường, trước mắt và lâu dài, Nhà nước, tập thể và cá nhân, sao cho vừa đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, vừa không được phép làm tổn hại đến lợi ích và việc đáp ứng các nhu cầu của những thế hệ mai sau; hướng đến vì hạnh phúc lâu dài của con người với tư cách là mục tiêu và động lực mạnh nhất và cao nhất trong quá trình phát triển. Nguyên tắc này ngày càng được xác lập và khẳng định mạnh mẽ cả trên phạm vi quốc gia, cũng như toàn cầu.

Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm nhận thức và quán triệt yêu cầu phát triển bền vững trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng, đặc biệt rõ nét trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 được Đại hội VII thông qua, theo đó chủ trương “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường”. Đại hội VIII tiếp tục khẳng định “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 thông qua tại Đại hội IX đề ra yêu cầu cao hơn “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đại hội X còn bổ sung yêu cầu phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ và xác định mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 là “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”. Đặc biệt, Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 lấy “phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”, đã cụ thể hóa thành các nội dung “Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường… Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”.

Với phương châm xây dựng Chính phủ kiến tạo “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”, sự kết hợp nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo và yêu cầu phát triển bền vững chính là sự cộng hưởng động lực và hội tụ mục tiêu bao quát và xuyên suốt trong thực tiễn triển khai của các cấp, ngành, địa phương, cả ở góc độ vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương cần cụ thể hóa chủ trương đó thành các chương trình, kế hoạch hành động; xây dựng kịch bản tăng trưởng theo quý đối với từng ngành, lĩnh vực và thường xuyên kiểm tra, đánh giá thực hiện; tập trung đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, cải cách hành chính, giảm nhẹ gánh nặng chi phí tài chính và tín dụng và các chi phí tuân thủ thể chế khác cho doanh nghiệp; nỗ lực tìm hướng đi, cơ hội phát triển mới, thúc đẩy khởi nghiệp; phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo, gắn với các lợi thế về nguồn nguyên liệu nông, lâm nghiệp, thủy sản từ sự phát triển ngành chế biến, chế tạo; coi trọng sử dụng giống mới, ứng dụng công nghệ bảo quản, chế biến nông sản hiện đại; mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp theo mô hình liên kết chuỗi và quy mô công nghiệp; thực hiện tốt công tác dự báo thị trường, xúc tiến thương mại, tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Chủ động nhận diện và cập nhật các rào cản kỹ thuật để chủ động xây dựng các biện pháp thích ứng hiệu quả, kịp thời. Đồng thời, ngày càng đề cao các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường trong sản xuất và đời sống xã hội.

Đặc biệt, trên hành trình không ngừng đổi mới sáng tạo và đề cao yêu cầu phát triển bền vững cần coi con người vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể và động lực chủ đạo của phát triển. Thực hiện dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực và là một thành tố của phát triển bền vững; phát huy nguồn lực con người là lợi thế cạnh tranh dài hạn, là yếu tố quyết định sự thành công trong đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững của một quốc gia. Thực hành dân chủ rộng rãi và tạo lập sự đồng thuận xã hội cao về hệ thống giá trị chuẩn quốc gia tiên tiến, được quản lý và giám sát bởi cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia có hiệu lực thực tế cao, cơ chế cán bộ tiến bộ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân…sẽ phát huy khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, đóng góp vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Dân chủ càng cao thì đồng thuận xã hội càng sâu, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được củng cố vững chắc.

Những thành công toàn diện và liên tiếp hoàn thành các nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch đặt ra trong phát triển kinh tế năm 2018 và năm 2019 cho thấy, đất nước ta đang chuyển mạnh, nhanh, hiệu quả hơn từ động lực tăng trưởng dựa trên vốn đầu tư, sang ưu tiên cao nhất khai thác, củng cố và phối hợp các động lực tăng trưởng mới về thể chế, công nghệ và niềm tin trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tinh thần năng động, sáng tạo, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, sự chuyển động mạnh mẽ của toàn hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, tạo hợp lực khai thác các động lực tích cực từ cuộc cách mạng CN 4.0, chủ động vượt qua mọi thách thức, khai thác các vận hội mới và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững với nhiều kỳ vọng mới, lớn lao và tự tin hơn trong những năm tới…


TS. Nguyễn Minh Phong

Theo Tạp chí Ngân hàng số 15/2020


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Từ thời điểm Luật Nhà ở năm 2005 ra đời, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế thông thoáng để huy động các nguồn vốn cho phát triển nhà ở để bán, cho thuê như: Thành lập Quỹ phát triển nhà ở của các địa phương; huy động vốn của các tổ chức tín dụng; huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính, có nhu cầu mua nhà ở; huy động vốn thông qua các hình thức hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh liên kết...
Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc