Đổi mới biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Chính sách
Bài viết này nghiên cứu quy định về biện pháp bảo đảm trong chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) từ khi chính sách này được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (năm 2002) đến nay.
aa

Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu quy định về biện pháp bảo đảm trong chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) từ khi chính sách này được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (năm 2002) đến nay. Trên cơ sở phân tích những vướng mắc về tài sản bảo đảm mà các DNNVV gặp phải khi có nhu cầu được cấp bảo lãnh từ các quỹ bảo lãnh tín dụng để vay vốn tại các ngân hàng thương mại (NHTM), bài viết đề xuất một số nội dung cần sửa đổi đối với chính sách về biện pháp bảo đảm để tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV trong việc sử dụng các khoản bảo lãnh từ quỹ bảo lãnh tín dụng để vay vốn ngân hàng.

Từ khóa: Bảo lãnh tín dụng, biện pháp bảo đảm, DNNVV.

RENOVATING COLLATERAL MEASURES IN CREDIT GUARANTEE TO EXPAND BANK CAPITAL ACCESSIBILITY FOR SMALL AND MEDIUM-SIZED ENTERPRISES

Abstract: This article studies the regulations on collaterals in the policy on guarantee for small and medium-sized enterprises since it was carried out in Vietnam (2002) until now. By analyzing the encountered problems of collaterals that small and medium-sized enterprises when requiring a guarantee from credit guarantee funds to get loans at commercial banks, the article proposes some amendments in the regulations on collaterals in credit guarantee to create favorable conditions for small and medium-sized enterprises.

Keywords: Credit guarantee, collateral measures, small and medium-sized enterprises.

1. Đặt vấn đề

DNNVV là bộ phận chiếm tỉ trọng rất lớn trong cộng đồng doanh nghiệp của Việt Nam và có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm cho nền kinh tế. Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn vốn tự có nên hoạt động của các DNNVV phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn đi vay, trong đó phổ biến là vay từ các NHTM.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, NHTM có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc cho vay không có bảo đảm. Tuy nhiên, đối với nhiều DNNVV, việc vay vốn tại các NHTM vẫn thường đi kèm với điều kiện về tài sản bảo đảm tiền vay. Trong khi đó, do không có nhiều tài sản và không huy động được tài sản của bên thứ ba, cùng với uy tín của doanh nghiệp lại chưa đủ lớn, nên các DNNVV thường không đáp ứng được điều kiện về bảo đảm tiền vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng như ngân hàng cho vay. Chính vì vậy, ngay từ năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, với mục đích tạo thêm một kênh hỗ trợ về biện pháp bảo đảm của Nhà nước cho các DNNVV khi vay vốn tại các NHTM.

Trải qua hơn 20 năm triển khai với nhiều lần được điều chỉnh hành lang pháp lí, hoạt động bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng đối với DNNVV vẫn không thu được kết quả như mong đợi. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do vướng mắc về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu giải pháp điều chỉnh quy định về biện pháp bảo đảm nhằm tháo gỡ vướng mắc cho hoạt động bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV là một việc làm rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi mà các DNNVV là một lực lượng sản xuất quan trọng của nền kinh tế và vẫn không có nhiều tài sản để đáp ứng yêu cầu của các NHTM về bảo đảm tiền vay.

2. Biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNNVV

Biện pháp bảo đảm là một nội dung quan trọng được quy định trong các văn bản pháp lí điều chỉnh hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNNVV mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành qua các thời kì. Trước tiên, theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ, để được bảo lãnh tín dụng, các DNNVV không phải thực hiện biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh tại quỹ bảo lãnh tín dụng song phải có tổng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật tối thiểu bằng 30% giá trị khoản vay. Tỉ lệ này sau đó được giảm xuống còn 15% theo Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ, nhưng DNNVV phải sử dụng tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu của mình mà pháp luật không cấm giao dịch để thực hiện các biện pháp bảo đảm tại quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Đến khi Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 được Chính phủ ban hành để thay thế Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, quy định về bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh vay vốn lại được điều chỉnh theo hướng cho phép quỹ bảo lãnh tín dụng đánh giá và quyết định việc sử dụng một hoặc nhiều biện pháp bảo đảm, bao gồm: (i) Quyền tài sản, tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu của DNNVV hoặc tài sản hiện có của bên thứ ba, (ii) Dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, đảm bảo khả năng trả nợ của DNNVV theo đánh giá của quỹ bảo lãnh tín dụng, (iii) Xếp hạng tín nhiệm của DNNVV theo đánh giá xếp hạng của quỹ bảo lãnh tín dụng là DNNVV đảm bảo khả năng trả nợ cho khoản vay tại ngân hàng.

Từ các quy định trên cho thấy, mặc dù có sự thay đổi qua mỗi lần điều chỉnh chính sách, song yêu cầu về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNNVV về cơ bản vẫn được quy định dựa trên cơ sở tài sản (bao gồm cả quyền tài sản, tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu của DNNVV hoặc bên thứ ba). Mặc dù theo quy định hiện hành tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ, quỹ bảo lãnh tín dụng được phép miễn tài sản bảo đảm nếu DNNVV đề nghị cấp bảo lãnh tín dụng có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, đảm bảo khả năng trả nợ hoặc có xếp hạng tín nhiệm đảm bảo khả năng trả nợ theo đánh giá của quỹ bảo lãnh tín dụng, tuy nhiên, trên thực tế thì biện pháp bảo đảm mà các quỹ bảo lãnh tín dụng lựa chọn vẫn chủ yếu là bảo đảm bằng tài sản. Vì vậy, cho đến thời điểm hiện tại, điều kiện về tài sản bảo đảm vẫn là một trở ngại phổ biến đối với các DNNVV khi có nhu cầu được bảo lãnh tín dụng để vay vốn tại các ngân hàng.

Trong khi đó, nếu so với việc trực tiếp vay vốn tại các ngân hàng, thì việc vay vốn thông qua hoạt động bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng lại đòi hỏi các DNNVV phải đáp ứng nhiều yêu cầu khác về hồ sơ, thủ tục và các khoản phí liên quan. Điều này lại dẫn đến một thực trạng hết sức bất hợp lí là mặc dù vẫn phải đáp ứng yêu cầu về biện pháp bảo đảm giống như khi trực tiếp vay vốn tại ngân hàng, song khi sử dụng hình thức vay vốn thông qua hoạt động bảo lãnh tín dụng, các DNNVV lại phải chịu nhiều chi phí hơn, bao gồm cả chi phí thời gian cũng như chi phí tài chính. (Bảng 1)

Bảng 1: Sự khác biệt chủ yếu giữa vay vốn trực tiếp tại ngân hàng và vay vốn thông qua hoạt động bảo lãnh tín dụng

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Từ những thông tin được trình bày tại Bảng 1, có thể nhận ra rằng, so với việc vay vốn trực tiếp tại các ngân hàng thì việc vay vốn thông qua sử dụng bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng về cơ bản không những không tháo gỡ được khó khăn về tài sản bảo đảm cho các DNNVV mà còn đòi hỏi DNNVV phải tốn thêm nhiều thời gian để thực hiện các thủ tục, đồng thời cũng phải chịu thêm các khoản chi phí phát sinh từ việc sử dụng bảo lãnh, bên cạnh các chi phí phải trả cho ngân hàng.

Hệ quả của những trở ngại nói trên là kể từ khi bắt đầu triển khai hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng (năm 2002), số vốn mà các DNNVV có thể vay từ các ngân hàng thông qua hoạt động bảo lãnh của các quỹ này là không nhiều, thêm vào đó lại đang có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Thống kê của NHNN cho thấy, trong giai đoạn 2002 - 2017, số vốn mà các DNNVV có thể vay được từ các ngân hàng theo chứng thư bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng chỉ đạt khoảng 4.100 tỉ đồng. Tại thời điểm cuối năm 2016, dư nợ tín dụng có bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng là 411 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng khoảng 0,039% trong số hơn 1,115 triệu tỉ đồng dư nợ của các DNNVV tại các ngân hàng. Đến hết năm 2017, dư nợ được bảo lãnh của DNNVV tăng lên 648 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng khoảng 0,057% trong tổng số dư nợ của các DNNVV tại các ngân hàng. Tuy nhiên, con số này sau đó liên tục giảm dần qua các năm 2018 - 2022 và đến hết tháng 02/2023, dư nợ có bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng chỉ còn lại 261 tỉ đồng, chiếm khoảng 0,012% trong gần 2,2 triệu tỉ đồng dư nợ của các DNNVV tại các ngân hàng cùng thời điểm (Hình 1).


Hình 1: Dư nợ được bảo lãnh tín dụng của DNNVV tại các ngân hàng

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ thống kê của NHNN


Số liệu tổng hợp tại Hình 1 cho thấy, mặc dù các quỹ bảo lãnh tín dụng được Nhà nước thành lập để tăng khả năng của các DNNVV trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, song trong những năm qua, số vốn mà các DNNVV có thể vay được từ hệ thống ngân hàng thông qua hoạt động bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng là không đáng kể, thậm chí còn giảm dần từ năm 2018. Đáng nói hơn, giai đoạn từ năm 2018 trở lại đây cũng chính là thời kì mà các quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập mới hoặc sắp xếp lại hoạt động theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ như một bộ phận quan trọng trong tổng thể các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các DNNVV được quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV mà Quốc hội thông qua ngày 12/6/2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Điều này cũng có nghĩa là hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng chưa phát huy được vai trò hỗ trợ của Nhà nước đối với bộ phận chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cộng đồng doanh nghiệp của Việt Nam. Nếu không có những điều chỉnh phù hợp đối với chính sách về bảo lãnh tín dụng nói chung và chính sách về biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh nói riêng, thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm phát huy vai trò của các quỹ bảo lãnh tín dụng như ý tưởng của các cơ quan hoạch định chính sách khi lập ra các quỹ này là điều không thể thực hiện được.

3. Đề xuất đổi mới biện pháp bảo đảm trong bảo lãnh tín dụng cho DNNVV

Kết quả phân tích ở phần trên của bài viết đã cho thấy rằng, một trong những trở ngại cơ bản đối với các DNNVV khi có nhu cầu được bảo lãnh tín dụng để vay vốn tại các ngân hàng chính là thiếu tài sản để thực hiện biện pháp bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh.

Trong khi đó, các quỹ bảo lãnh tín dụng, về bản chất, là công cụ hỗ trợ của Nhà nước nhằm tăng khả năng cho các DNNVV trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức và hoạt động bảo lãnh của các quỹ này chính là một hình thức bảo đảm tiền vay thay thế cho biện pháp bảo đảm bằng tài sản mà các DNNVV phải thực hiện khi vay vốn tại các ngân hàng. Do đó, việc yêu cầu DNNVV phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản cho hoạt động bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng, vô hình trung đã làm triệt tiêu ý nghĩa của chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV bởi không tháo gỡ được khó khăn về tài sản bảo đảm cho các doanh nghiệp này khi có nhu cầu vay vốn tại các ngân hàng.

Từ những phân tích nói trên có thể thấy, để mở rộng quy mô bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của các DNNVV, việc nghiên cứu điều chỉnh quy định về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng là việc làm cần được ưu tiên hàng đầu trong quá trình sửa đổi, bổ sung chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Theo đó, các biện pháp bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh quy định tại Điều 25 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ nên được xem xét sửa đổi theo hướng không yêu cầu DNNVV sử dụng tài sản hiện có (kể cả tài sản của DNNVV cũng như tài sản của bên thứ ba) để thực hiện biện pháp bảo đảm tại quỹ bảo lãnh tín dụng. Thay vào đó, các DNNVV chỉ phải thực hiện biện pháp bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh bằng tài sản hình thành trong tương lai từ số vốn mà DNNVV vay được từ ngân hàng theo chứng thư bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng.

Việc điều chỉnh quy định về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng như trên có tác dụng một mặt tháo gỡ được khó khăn cho các DNNVV trong việc huy động tài sản hiện có để thực hiện biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh, mặt khác đưa hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng trở về đúng với bản chất vốn có như một biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với các DNNVV có nhu cầu vay vốn của ngân hàng nhưng lại không đủ tài sản hiện có để bảo đảm tiền vay. Đồng thời, việc yêu cầu DNNVV sử dụng tài sản hình thành từ số vốn vay được bảo lãnh tín dụng để bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh cũng tạo cơ sở để quỹ bảo lãnh tín dụng có thể thu hồi được số vốn phải trả nợ thay trong trường hợp DNNVV không trả được nợ vay cho ngân hàng.

Tuy nhiên, với việc thay đổi chính sách theo hướng cho phép DNNVV hoàn toàn sử dụng tài sản hình thành trong tương lai từ vốn vay để bảo đảm cho bảo lãnh thay cho tài sản hiện có, hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng cũng có thể phải đối mặt với những rủi ro lớn hơn, bởi về nguyên lí thì khả năng thu nợ từ tài sản hình thành trong tương lai thường không chắc chắn bằng khả năng thu nợ từ tài sản hiện có. Và cũng xuất phát từ sự thiếu chắc chắn này, nếu không có biện pháp hỗ trợ khác từ Nhà nước đối với quỹ bảo lãnh tín dụng thì việc thay đổi chính sách về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh cũng không phát huy được tác dụng thật sự bởi các quỹ bảo lãnh tín dụng chắc chắn sẽ nảy sinh tâm lí e ngại khi phải đối mặt với nguy cơ vừa bị tổn thất lớn hơn, vừa bị xếp loại thấp hơn theo quy định về đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng.

Vì vậy, để việc thay đổi biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh như đề xuất ở trên có thể phát huy tác dụng mà vẫn đảm bảo các quỹ bảo lãnh tín dụng có thể hoạt động tốt, thì các cơ quan hoạch định chính sách cũng cần xem xét thực hiện một số biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các định chế tài chính này. Theo đó, Nhà nước cần đầu tư thích đáng vào việc phát triển năng lực về nhân sự cũng như cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng, đặc biệt là hạ tầng thông tin, nhằm nâng cao chất lượng thẩm định của quỹ bảo lãnh tín dụng về hiệu quả và tính khả thi của dự án, phương án sản xuất, kinh doanh mà các DNNVV lập ra để vay vốn. Đồng thời, ngân sách nhà nước cần bố trí một phần kinh phí để hỗ trợ các quỹ bảo lãnh tín dụng lập quỹ dự phòng rủi ro nhằm tăng năng lực ứng phó với nguy cơ tổn thất trong trường hợp khả năng thu hồi nợ từ tài sản hình thành trong tương lai mà các DNNVV sử dụng để làm biện pháp bảo đảm bị sụt giảm so với kết quả thẩm định tại thời điểm chấp thuận bảo lãnh. Số kinh phí này có thể được trích từ số thuế thu nhập doanh nghiệp đánh vào phần lợi nhuận tăng thêm của các ngân hàng do giảm chi phí dự phòng rủi ro đối với các khoản vay của các DNNVV được bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng.

Ngoài ra, các quy định liên quan đến khẩu vị rủi ro của quỹ bảo lãnh tín dụng cũng cần được điều chỉnh theo hướng chấp nhận tỉ lệ nợ trả thay và tỉ lệ nợ xấu cao hơn khi đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp loại quỹ bảo lãnh tín dụng cũng như xếp loại người quản lí quỹ bảo lãnh tín dụng theo Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 15/2019/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính1.

4. Kết luận

Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV là một chính sách lớn của Nhà nước nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng cho loại hình doanh nghiệp chiếm tỉ trọng lớn nhất trong nền kinh tế. Tuy nhiên, để chính sách này có thể phát huy được tác dụng đích thực, các quy định về biện pháp bảo đảm trong bảo lãnh tín dụng cần được đổi mới theo hướng tháo gỡ khó khăn về tài sản bảo đảm cho DNNVV, đồng thời vẫn đảm bảo được điều kiện hoạt động cho các quỹ bảo lãnh tín dụng.

Nếu chính sách được điều chỉnh như đề xuất nêu trên, việc sử dụng biện pháp bảo lãnh tín dụng để bảo đảm tiền vay của các DNNVV sẽ trở nên thuận lợi hơn, khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các doanh nghiệp này cũng vì thế mà được nâng cao đáng kể. Đồng thời, với sự thay đổi chính sách theo hướng này, hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng cũng có thể trở về đúng với bản chất vốn có - là công cụ hỗ trợ của Nhà nước đối với các DNNVV gặp khó khăn về tài sản bảo đảm khi vay vốn ngân hàng.

1 Theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP và Thông tư số 15/2019/TT-BTC, việc đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp loại hằng năm đối với các quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện theo 5 chỉ tiêu: (1) Tăng trưởng doanh số cấp bảo lãnh tín dụng, (2) Tỉ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp, (3) Tỉ lệ thu hồi nợ bắt buộc đối với hoạt động bảo lãnh tín dụng hằng năm, (4) Tổng thu nhập trừ tổng chi phí, (5) Tình hình chấp hành pháp luật về đầu tư, quản lí và sử dụng vốn, tài sản, nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, chế độ báo cáo tài chính của quỹ bảo lãnh tín dụng. Việc xếp loại người quản lí quỹ bảo lãnh tín dụng cũng được thực hiện tương ứng với kết quả xếp loai quỹ bảo lãnh tín dụng dựa trên các chỉ tiêu này.


Tài liệu tham khảo:

1. Thạch Bình (2018), “Nâng tầm quỹ bảo lãnh tín dụng”, Cổng thông tin điện tử NHNN, truy cập ngày 21/5/2023 tại https://sbv.gov.vn/webcenter/portal/cds_sbv/menu/trangchu/tinmoinhat/tmn_chitiet?dDocName=SBV334627

2. Bộ trưởng Bộ Tài chính (2019), Thông tư số 15/2019/TT-BTC ngày 18/3/2019 hướng dẫn cơ chế quản lí tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.

3. Chính phủ (2018), Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.

4. Chính phủ (2021), Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV.

5. Quốc hội (2017), Luật Hỗ trợ DNNVV.

6. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.

7. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.

8. Lưu Thủy (2023), “Sợ mất vốn, quỹ bảo lãnh tài chính nhà nước ‘siết’ điều kiện cho vay”, Chuyên trang Đầu tư tài chính, Báo Sài Gòn giải phóng điện tử, tại https://dttc.sggp.org.vn/so-mat-von-quy-bao-lanh-tai-chinh-nha-nuoc-siet-dieu-kien-cho-vay-post102773.html


TS. Nguyễn Cảnh Hiệp
Ngân hàng Phát triển Việt Nam


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Xem thêm
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc