Để thị trường ví điện tử Việt Nam phát triển ổn định, bền vững

Công nghệ & ngân hàng số
Những năm gần đây, số lượng người sử dụng ví điện tử và các ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tăng mạnh, nhất là từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát... Việc ngày càng nhiều ví điện tử c...
aa

Những năm gần đây, số lượng người sử dụng ví điện tử và các ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tăng mạnh, nhất là từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát...

Việc ngày càng nhiều ví điện tử có mặt trên thị trường với những ưu đãi để thu hút khách hàng làm cuộc đua ví điện tử trở nên sôi động. Thay vì thu hút càng nhiều người dùng càng tốt, thị trường ví điện tử Việt Nam thời gian tới sẽ là cuộc cạnh tranh thông qua tiện ích, trải nghiệm thanh toán của người dùng và ưu thế sẽ thuộc về ví điện tử nào giữ chân được nhiều người dùng. Do đó, thị trường cần những yếu tố hỗ trợ như nền tảng pháp lý, các giải pháp tổng thể khác để phát triển ổn định, an toàn và bền vững.

Hơn 16 triệu ví điện tử đang hoạt động

Bên cạnh các ví điện tử phổ biến đang được người dùng sử dụng nhiều như MoMo, Moca, ZaloPay, ViettelPay, Payoo, ShopeePay (trước đây là Airpay)... mới đây, thị trường lại xuất hiện “tân binh” ví điện tử MobiFonePay. Việc ngày càng nhiều ví điện tử có mặt trên thị trường với những ưu đãi để thu hút khách hàng làm cuộc đua ví điện tử trở nên sôi động. Trong bối cảnh hạn chế đi lại do dịch bệnh Covid-19 đã khiến nhiều người dùng chuyển từ hình thức mua sắm trực tiếp qua các kênh online. Các cổng thanh toán, ví điện tử cũng nắm bắt cơ hội đưa ra nhiều chương trình ưu đãi khi thanh toán online khiến cho tỷ lệ thanh toán hình thức này tăng cao.


Hiện nay, các ví điện tử đang hoạt động đều cung cấp đầy đủ các tiện ích cơ bản như thanh toán điện thoại, điện, nước, internet, thanh toán các khoản vay, phí bảo hiểm, phí dịch vụ chung cư, dịch vụ công, học phí, mua vé (tàu, xe, máy bay)... Ngoài việc xây dựng cho mình các trò chơi, chương trình ưu đãi riêng, các ví còn liên kết với ngân hàng, công ty tài chính, các sàn thương mại điện tử như Lazada, Tiki, Shopee, Sendo, Zalora... để gia tăng trải nghiệm, tiện ích cho khách hàng. Ví điện tử nào có nhiều tiện ích, phù hợp với tập khách hàng của mình sẽ có được lợi thế trong cuộc đua thu hút khách hàng.

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tính đến ngày 30/6/2021, tại Việt Nam, có 43 tổ chức không phải là ngân hàng đã được NHNN cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; trong đó có 37 tổ chức đã cung ứng dịch vụ ví điện tử ra thị trường, với tổng số ví điện tử đang hoạt động là khoảng 16,39 triệu ví (tăng khoảng 2,75 triệu ví so với thời điểm cuối năm 2020). Ví điện tử đang hoạt động là ví có ít nhất một giao dịch phát sinh giá trị tiền tệ trong vòng 12 tháng tính đến ngày báo cáo.

Theo báo cáo của các tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử, trong 6 tháng đầu năm 2021, tổng số lượng giao dịch bằng ví điện tử được xử lý thành công đạt xấp xỉ 802,56 triệu món, với tổng giá trị giao dịch đạt khoảng 302,16 nghìn tỷ đồng (tăng lần lượt là 85,38% về số lượng giao dịch và 91,57% về giá trị giao dịch so với cùng kỳ năm 2020).

Theo khảo sát của Visa, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, người tiêu dùng Việt Nam đang dần ưu tiên lựa chọn sử dụng ví điện tử cũng như thanh toán không tiếp xúc và thanh toán bằng mã QR. Khảo sát cũng cho thấy, 57% người tiêu dùng có tới ba ứng dụng ví điện tử trên điện thoại, 55% người tiêu dùng ưa thích ứng dụng có thể thực hiện tất cả các giao dịch.

Ví điện tử mở rộng liên kết ngân hàng: Tăng tiện ích cho khách hàng

Thực tế, Fintech (công nghệ tài chính) là một mảng hoạt động trải rộng trên nhiều ngành, lĩnh vực thuộc dịch vụ tài chính như thanh toán, chứng khoán, bảo hiểm, quản lý tài sản, chấm điểm tín dụng (credit scoring)... Ở một chừng mực nào đó, có thể coi các tổ chức trung gian thanh toán cung ứng dịch vụ ví điện tử được cấp phép chính là hiện thân sinh động của Fintech trong lĩnh vực thanh toán ở Việt Nam.

Để đẩy nhanh chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng tại Việt Nam thời gian qua cũng đã chủ động lựa chọn hợp tác, sử dụng sản phẩm, giải pháp công nghệ, mạng lưới phân phối của nhiều công ty Fintech nói chung và tổ chức trung gian thanh toán nói riêng để thực hiện số hóa quy trình nghiệp vụ, tích hợp sâu vào hệ sinh thái số, cung ứng sản phẩm, dịch vụ qua kênh số an toàn, thuận tiện, phù hợp, mọi lúc, mọi nơi cho khách hàng. Việc hợp tác này mang đến sức mạnh cộng hưởng, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho nhiều bên như nâng cao hiệu quả hoạt động (giảm chi phí, tăng doanh thu), mở rộng cơ sở khách hàng, tiếp cận được tập khách hàng mới, gia tăng tương tác, mức độ sử dụng dịch vụ, tăng cường cơ hội bán chéo sản phẩm, dịch vụ, nâng cao trải nghiệm giao dịch và sự hài lòng của khách hàng, góp phần thúc đẩy TTKDTM và phổ cập tài chính.

Hiện nay, các đơn vị vận hành ví điện tử tăng cường liên kết với các ngân hàng để mở rộng phạm vi chuyển tiền thanh toán cho người dùng. Ngược lại, các ngân hàng cũng có lợi thế mở rộng khách hàng và tận dụng được một hệ sinh thái thanh toán sẵn có kết nối với các sàn thương mại điện tử, cửa hàng tiện lợi…, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, thanh toán không tiếp xúc lên ngôi.

Chẳng hạn, MoMo đang kết nối trực tiếp với 28 ngân hàng trong nước và quốc tế lớn nhất tại Việt Nam, cùng với hệ thống điểm nạp/rút tiền phủ khắp toàn quốc, nổi bật là Circle K, Ministop, FPT Shop... giúp việc nạp và rút tiền trở nên đơn giản, nhanh chóng.

Nhằm đưa lại nhiều dịch vụ tiện ích cho khách hàng, mới đây, MoMo là Fintech đầu tiên phối hợp cùng ngân hàng TPBank cho ra mắt sản phẩm Ví trả sau MoMo. Với MoMo, người dùng có thể đăng ký Ví trả sau MoMo chỉ trong vòng 1 phút với hạn mức lên tới 5 triệu đồng. Khi thanh toán đúng hạn, khoản tiền chi tiêu trước sẽ không bị tính lãi suất. Sử dụng Ví trả sau MoMo, người dùng MoMo thanh toán được hàng trăm dịch vụ trên MoMo, đó là những dịch vụ thiết yếu hàng ngày như: Nạp tiền, mua mã thẻ điện thoại, ăn uống tại nhà hàng, thức ăn nhanh, cà phê, thanh toán tất cả hóa đơn điện, nước, internet, điện thoại trả sau, tiền đi siêu thị, cửa hàng tiện lợi, mua sắm các dịch vụ giải trí, thời trang, sức khỏe, thanh toán mua sắm thương mại điện tử, vé máy bay, tàu, xe... và cả thanh toán tại các cửa hàng điện tử.

Không chỉ bắt tay với ngân hàng, các ví điện tử còn hợp tác với công ty tài chính để cung cấp dịch vụ ví trả sau. Từ đầu tháng 8/2021, Công ty tài chính FeCredit và Ví điện tử ViettelPay triển khai hình thức ví trả sau, lãi suất 0%, cho phép người dùng nhận ngay hạn mức 2 triệu đồng để chi tiêu, miễn lãi 45 ngày khi tải ứng dụng ViettelPay...

Bên cạnh việc liên tục phát triển tính năng, hợp tác với các đối tác thanh toán thì liên kết ngân hàng cũng là một trong những chiến lược của Ví điện tử ZaloPay. Hiện nay, ví điện tử này đã liên kết trực tiếp với 19 ngân hàng để nạp, rút tiền, liên kết với 20 ngân hàng hỗ trợ nạp tiền thông qua cổng Napas. Như vậy, hàng triệu người dùng ngân hàng có thể tiếp cận nền tảng thanh toán toàn diện, khép kín và liền mạch, bao gồm: Chuyển tiền liên ngân hàng, chuyển tiền qua Zalo chat, thanh toán tất cả nhu cầu hàng ngày từ di chuyển, mua sắm, ăn uống đến hoạt động du lịch, giải trí...

Trong khi đó, Moca đang có liên kết trực tiếp với 25 ngân hàng và một ngân hàng số tại Việt Nam. Ví điện tử Moca mang đến cho người dùng những trải nghiệm liền mạch và thuận tiện, qua việc cho phép người dùng thanh toán cho các dịch vụ di chuyển, đặt đồ ăn, đi chợ hộ... trên ứng dụng Grab. Bên cạnh đó, người dùng còn có thể thanh toán cho các dịch vụ ngoài ứng dụng Grab như thanh toán hóa đơn, nạp tiền điện thoại, thanh toán tại cửa hàng, mua sắm trực tuyến...

Có thể nói, việc doanh nghiệp Fintech (trong đó có các ví điện tử) liên kết với ngân hàng sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn cho nền tảng thanh toán số và nâng cao trải nghiệm người dùng. Liên kết này không làm thay đổi mô hình kinh doanh của ngân hàng, mà thay vào đó cùng với ngân hàng đưa ra một cách tiếp cận khách hàng mới. Mặt khác, ví điện tử sẽ trở thành “cánh tay nối dài” của ngân hàng, mang dịch vụ tài chính đến với người dân trên khắp mọi miền đất nước, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa.

Sự sôi động trên thị trường ví điện tử và sự lên ngôi của thanh toán không tiếp xúc đang tạo đà cho phát triển TTKDTM tại Việt Nam. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ người dân vẫn còn e ngại về tính an toàn, bảo mật khi tiếp cận các hình thức thanh toán hiện đại, thói quen dùng tiền mặt vẫn phổ biến. Một số người dùng có thể sở hữu cùng lúc nhiều ví điện tử chủ yếu để “săn” ưu đãi, khuyến mại, sau một thời gian thì rời bỏ. Đa số khách hàng lựa chọn ví vì sự tiện ích, thực hiện được nhiều giao dịch, dịch vụ trên hệ sinh thái số đa dạng.

Tương lai không xa, nhiều hình thức và phương tiện thanh toán mới sẽ ra đời, thêm nhiều lựa chọn cho khách hàng. Trong đó, phải kể đến Mobile Money (thanh toán hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ), với sự khác biệt và lợi thế là không yêu cầu phải có tài khoản ngân hàng mới được sử dụng và thanh toán như ví điện tử. Tiền dùng để giao dịch thanh toán của Mobile Money chính là số tiền trong tài khoản di động của người sử dụng. Dù hạn mức giao dịch hàng tháng bằng tiền di động chỉ 10 triệu đồng (trong khi hạn mức của ví điện tử gấp 10 lần con số này - 100 triệu đồng một tháng), nhưng Mobile Money sẽ rất phù hợp với người dân ở những khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là những nơi hệ thống tài chính ngân hàng chưa phát triển, người dân chưa hoặc không có khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng.

Vậy, đâu là giải pháp để các ví điện tử có thể cạnh tranh lành mạnh, “giữ chân” khách hàng, mở rộng thị trường và phát triển bền vững trong tương lai?

Đảm bảo cho thị trường ví điện tử phát triển ổn định, bền vững

Thực tế, thói quen sử dụng tiền mặt của người dân đã được hình thành từ rất lâu. Để thay đổi thói quen đó, cần có thời gian, nguồn lực về công nghệ, tài chính, pháp lý. Khuyến mãi giảm giá cũng là một cách khá hiệu quả để hấp dẫn người dùng, theo tâm lý tự nhiên giúp họ có mong muốn trải nghiệm, từ đó dần dần thay đổi thói quen. Tuy nhiên, việc giữ được khách hàng lâu dài, thường xuyên không phụ thuộc quá nhiều vào điều này mà còn là sự trải nghiệm, tính ổn định và vấn đề an toàn, bảo mật.

Để thị trường ví điện tử tại Việt Nam phát triển bền vững, xa hơn là thúc đẩy TTKDTM cũng như phổ cập tài chính tại Việt Nam, cần những giải pháp tổng thể sau:

Thứ nhất, về cơ chế chính sách và hành lang pháp lý, thời gian qua, nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của Chính phủ trong thúc đẩy TTKDTM và tài chính toàn diện, NHNN đã không ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán nói chung và dịch vụ ví điện tử nói riêng. Đặc biệt, ngày 22/11/2019, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 23/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán, với nhiều điểm mới tạo thuận lợi cho các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán ví điện tử, tăng cường an ninh, an toàn và bảo vệ quyền lợi khách hàng sử dụng ví.

Theo đó, Thông tư cho phép khách hàng được kết nối ví đã xác minh danh tính với nhiều tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ của khách hàng, cho phép khách hàng duy trì nhiều tài khoản ví... Về đảm bảo hoạt động ví điện tử an toàn, lành mạnh, phòng, chống rửa tiền, phòng ngừa gian lận và bảo vệ quyền lợi khách hàng, Thông tư đã có những quy định đối với tổ chức ví điện tử về mở và duy trì số dư tài khoản đảm bảo cho các ví điện tử tại ngân hàng thương mại; về cung cấp công cụ để phục vụ việc giám sát của NHNN, Thông tư có các quy định về định danh khách hàng mở ví, những hành vi không được phép, bị cấm khi cung ứng, sử dụng dịch vụ ví điện tử, quy định mục đích sử dụng ví chỉ cho các hàng hóa, dịch vụ hợp pháp, giới hạn phạm vi nạp, rút tiền vào/ra ví đã liên kết tài khoản...

Thời gian tới, NHNN cần tiếp tục phối hợp các bộ, ngành liên quan xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực TTKDTM nói chung và Fintech nói riêng trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các công ty Fintech, ngân hàng và quyền lợi hợp pháp của khách hàng, đồng thời đảm bảo các mục tiêu vĩ mô khác như an toàn tài chính tiền tệ quốc gia. Đích đến cuối cùng là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng dịch vụ, thúc đẩy TTKDTM và tài chính toàn diện tại Việt Nam.

Theo đó, cơ quan ban hành chính sách cần tiếp tục nắm bắt thực tiễn, tổng hợp khó khăn, vướng mắc từ thị trường và nghiên cứu các xu hướng phát triển, thông lệ quốc tế phù hợp về hoạt động ví điện tử để hoàn thiện hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn, lành mạnh cho hoạt động trung gian thanh toán nói chung và hoạt động cung ứng ví điện tử nói riêng tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, các chính sách cần tập trung cho phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ sinh thái thanh toán số như nâng cấp hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, phát triển hệ thống chuyển mạch, tích hợp và đồng bộ hạ tầng kỹ thuật thanh toán, ứng dụng ngân hàng với các ngành, lĩnh vực dịch vụ khác. Ngoài ra, các bộ, ngành liên quan cần nghiên cứu thêm quy định về quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực ví điện tử, thương mại điện tử để đảm bảo chính sách lành mạnh, công bằng trên thị trường giữa các doanh nghiệp.

Đồng thời, các cơ quan Nhà nước cần phối hợp đẩy mạnh TTKDTM trong lĩnh vực công và hành chính công cả ở thành thị, nông thôn và gắn với triển khai thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.

Thứ hai, về phía các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán: Thời gian tới, khi Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2021 - 2025 và Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Sandbox Regulatory) đối với Fintech trong lĩnh vực ngân hàng được ban hành, các ngân hàng và công ty Fintech cần tập trung triển khai quy định mới về TTKDTM và sẵn sàng các điều kiện, hạ tầng công nghệ, sản phẩm và nhân lực cho việc triển khai Sandbox Regulatory.

Để có hướng phát triển ổn định, bền vững, các công ty cung ứng dịch vụ ví điện tử cần xác định phát triển đáp ứng hai tiêu chí vừa tạo ra lợi ích cho xã hội nhưng cũng cần đảm bảo về tài chính cho doanh nghiệp; tránh tình trạng “đốt tiền lấy người dùng” nhưng không có được sự trung thành của khách hàng, hết khuyến mại khách hàng không tiếp tục sử dụng dịch vụ để doanh nghiệp có thể tạo ra lợi nhuận.

Ví điện tử có cơ hội để phát triển, bứt phá hay không phụ thuộc vào những lợi ích mang đến cho người dùng, đó là những tiện ích đa dạng, sử dụng nhanh chóng, an toàn... Trước nhu cầu cao của người dùng về tính tiện ích trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển nhanh và mạnh như hiện nay, các công ty Fintech cần tiếp tục xây dựng một hệ sinh thái thanh toán qua ví điện tử. Ví điện tử nào sở hữu hệ sinh thái “hoàn hảo”, phục vụ đầy đủ các nhu cầu hàng ngày thì càng ghi điểm từ phía người dùng.

Do đó, không chỉ thu hút khách hàng từ các chương trình khuyến mại hấp dẫn, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (trong đó có các ví điện tử) cần nghiên cứu phát triển sản phẩm, dịch vụ, tăng cường hợp tác, hoàn thiện hệ sinh thái số, song song với việc tăng cường công nghệ bảo mật nhằm mang lại giá trị hữu ích, thuận tiện và tạo được sự tin cậy cho khách hàng. Bên cạnh hệ sinh thái đa dạng, mỗi ví điện tử cần có “điểm nhấn riêng” mang tính chiến lược, tạo ra xu thế trên thị trường. Đơn cử như ví VnPay đang tập trung vào phát triển tính năng ví của gia đình.

Cùng với đó, các công ty Fintech cần phối hợp với các ngân hàng đẩy mạnh công tác truyền thông để người dân (đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn) hiểu lợi ích của việc TTKDTM, tiện ích của các ví điện tử mang lại, nâng cao kỹ năng sử dụng dịch vụ tài chính, từ đó thay đổi thói quen dùng tiền mặt và khắc phục tâm lý e ngại khi tiếp cận với công nghệ thanh toán mới.

Thứ ba, về phía người sử dụng dịch vụ, đảm bảo an toàn trong giao dịch ví điện tử, giao dịch ngân hàng trực tuyến, khách hàng/người sử dụng cần tuân thủ các nguyên tắc về bảo mật theo đúng các hướng dẫn của ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (ví điện tử) nhằm đảm bảo thực hiện các giao dịch thanh toán chuyển tiền, các dịch vụ liên quan một cách an toàn, bảo mật. Khi gặp sự cố, khách hàng cần bình tĩnh phối hợp với các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán ví điện tử để giải quyết. Khách hàng/người sử dụng cần chủ động giữ kín các thông tin cá nhân/thông tin tài khoản, không tiết lộ cho bên thứ ba dưới mọi hình thức để tránh các trường hợp bị sơ hở, chủ quan bị lợi dụng gây mất tiền, tài sản; đặc biệt là, cần nâng cao cảnh giác với những thủ đoạn của tội phạm trên mạng, đối với các giao dịch thanh toán, chuyển tiền trực tuyến nên thực hiện giao dịch với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ có uy tín trên thị trường.


Tài liệu tham khảo:


1. Cổng thông tin điện tử NHNN: sbv.gov.vn


2. Dự thảo Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với Fintech trong lĩnh vực ngân hàng.


3. Thông tư số 23/2019/TT-NHNN ngày 22/11/2019 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán.


4. www.moca.vn


5. ww.zalopay.vn


6. www.momo.vn

Trần Phương Chi (NHNN)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Bài viết phân tích toàn diện những ảnh hưởng sâu rộng của Blockchain tới từng khâu trong quy trình kiểm toán, từ thu thập dữ liệu thời gian thực, xác minh qua hợp đồng thông minh, đến phát hiện gian lận nhờ tính bất biến và truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, việc ứng dụng thực tế còn đối mặt với nhiều rào cản, từ chi phí đầu tư, thiếu nhân lực chuyên môn đến hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Do đó, để hiện thực hóa tiềm năng của Blockchain, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý, tổ chức đào tạo, doanh nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp trong việc xây dựng khung pháp lý, nâng cao năng lực, và phát triển các mô hình kiểm toán thời gian thực dựa trên Blockchain.
Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Chiều 20/8/2025, tại Hà Nội, Trường Đại học Đại Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Quản lý nhà nước đối với sự phát triển Fintech: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam”. Hội thảo đã tạo diễn đàn trao đổi học thuật cũng như thực tiễn giữa các nhà khoa học, chuyên gia trong nước, quốc tế, cùng chia sẻ kinh nghiệm quản lý, định hình khung khổ pháp lý, cũng như đề xuất giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững của Fintech tại Việt Nam.
Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số và từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách hướng tới nền tài chính toàn diện; trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ hỗ trợ truyền thông chính sách hiệu quả, chính xác hơn mà còn giúp tự động hóa quy trình, tối ưu chi phí, nâng cao trải nghiệm khách hàng - từ cá nhân hóa thông điệp, phân tích dữ liệu lớn để nắm bắt nhu cầu, đến phát hiện và xử lý thông tin sai lệch trên môi trường số. Bên cạnh cơ hội, AI cũng đặt ra không ít thách thức. Chính vì vậy, Thời báo Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Ứng dụng AI trong truyền thông chính sách và sản phẩm, dịch vụ ngân hàng” diễn ra ngày 20/8/2025 tại Hà Nội.
Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến nay 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.
Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Xem thêm
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng