Đại dịch Covid-19 làm gia tăng nhu cầu về hỗ trợ tài chính trên toàn cầu

Quốc tế
Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) đã công bố báo cáo định kỳ về hoạt động ngân hàng và thị trường tài chính quốc tế. Mục tiêu của báo cáo là nghiên cứu những tổn thương tiềm tàng và rút ra bài học k...
aa

Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) đã công bố báo cáo định kỳ về hoạt động ngân hàng và thị trường tài chính quốc tế.

Mục tiêu của báo cáo là nghiên cứu những tổn thương tiềm tàng và rút ra bài học kinh nghiệm về giám sát thị trường nợ quốc tế, qua đó xác định rủi ro mất cân đối bắt nguồn từ việc phát hành chứng khoán nợ trong đại dịch Covid-19, góp phần bổ sung những dữ liệu cần thiết về bảng cân đối kế toán của khách hàng vay vốn và mô hình kinh doanh, cũng như tình trạng nợ nần. Đây là nguồn dữ liệu quan trọng đối với việc đánh giá hiệu quả phân bổ nguồn vốn vay giữa các khu vực kinh tế và doanh nghiệp. Liên quan đến việc theo dõi nhu cầu tài trợ của doanh nghiệp, nhất là tại các nước mới nổi (EMEs), báo cáo phân tích tập trung vào hoạt động phát hành của các doanh nghiệp phi tài chính (NFCs) tại nước ngoài, do hoạt động này của NFC thường nhạy cảm trước những thay đổi về điều kiện tài chính toàn cầu.

Theo đó, nợ nước ngoài của NFCs liên tục tăng trong thập kỷ qua và có mối liên hệ chặt chẽ với điều kiện tài chính toàn cầu, trong đó các trụ sở và chi nhánh ở nước ngoài đóng vai trò chủ chốt. Cụ thể là, chứng khoán nợ tồn đọng so GDP tăng từ 3,9% vào năm 2009 lên 6,8% GDP vào năm 2020 tại các nước phát triển (AEs)và tăng từ 1,2% lên 2,2% GDP tại EMEs. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, nợ phát hành chứng khoán quốc tế của các trụ sở công ty tại EMEs có mối liên hệ chặt chẽ với những thay đổi về điều kiện tài chính toàn cầu. Tính đến cuối quý I/2021, nợ tồn đọng do phát hành chứng khoán nợ quốc tế (IDS) dưới nhiều loại tiền tệ khác nhau tại những chi nhánh trên chiếm 55% trong tổng số IDS của NFCs tại EMEs và dưới 30% tại AEs.

Trong 30 năm qua, chứng khoán nợ quốc tế do NFCs phát hành ghi nhận mức gia tăng đáng kể. Nợ chưa trả tăng từ 0,5 nghìn tỷ USD vào năm 1990 lên 7,7 nghìn tỷ USD vào cuối năm 2020, góp phần nâng cao vị thế của các thị trường nợ chứng khoán trên thị trường tài chính toàn cầu, trong bối cảnh tín dụng ngân hàng trầm lắng.Tại AEs, nợ quốc tế của NFCs diễn biến theo chiều hướng tăng dần cùng với xu hướng tăng trưởng GDP từ cuối những năm 1990 (từ 1,7% vào năm 1997 lên 3,9% vào năm 2009 và lập kỷ lục 6,8% vào cuối năm 2020). Điều này tương phản với xu hướng mở rộng IDS trong khu vực tài chính, với đỉnh điểm 36% GDP vào năm 2020, nhưng tăng chậm trong những năm sau đóvà đến cuối năm 2020, chỉ chiếm 28% GDP.Nợ quốc tế của những doanh nghiệp đang hoạt động tại EMEs cũng tăng rất nhanh và có thể chia thành hai giai đoạn: Nợ phát hành tăng cao từ tỷ trọng 0,2% GDP vào năm 1990 lên 1,7% năm 1999 và giảm xuống tỷ trọng 1,2% GDP vào năm 2009, do GDP tăng cao. Sau thời gian đó, nợ phát hành tăng cao trở lại và lên tới 2,2% GDP vào cuối năm 2020. Nợ của NFCs chiếm vị thế áp đảo trong cơ cấu nợ quốc gia tại EMEs, mặc dù các doanh nghiệp tài chính tại những quốc gia này cũng mở rộng phát hành nợ quốc tế.

Xu hướng gia tăng phát hành chứng khoán nợ quốc tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu tại NFCs đang hoạt động tại EMEs có thể được giải thích từ phía cung và cầu, nhất là dưới dạng USD. Thứ nhất, mặt bằng lãi suất tăng cao hơn so với tại Mỹ đã khuyến khích các doanh nghiệp đang hoạt động tại EMEs mở rộng vay nợ qua phát hành chứng khoán dài hạn dưới dạng USD.Thứ hai, chính sách tiền tệ nới lỏng tại AEs đã dẫn dắt làn sóng tìm kiếm lợi nhuận của các doanh nghiệp tại EMEs. Nhu cầu cũng tăng cao, nhờ triển vọng kinh tế lạc quan tại EMEs, trong bối cảnh thể chế ổn định và thành công của chính sách kinh tế vĩ mô.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến xu hướng mở rộng phát hành nợ vay tại các chi nhánh ở nước ngoài.Thứ nhất, môi trường pháp lý tại nước ngoài an toàn hơn đã khuyến khích xu hướng này. Thứ hai, việc phát hành ở nước ngoài và chuyển về nước có thể tiết kiệm chi phí hành chính hoặc thuế phát sinh và đòi hỏi pháp lý nhẹ hơn.Thứ ba, cho vay giữa các công ty được coi là đầu tư trực tiếp, nên việc kiểm soát không khắt khe như những dòng vốn vào khác.Thứ tư, EMEs có thị trường trái phiếu trong nước kém phát triển, việc phát hành trái phiếu ở nước ngoài sẽ cho phép NFCs tiếp cận được những nhà đầu tư lớn, nhất là khi vay vốn ngoại tệ, từ đó có thể giảm chi phí vay vốn. Hơn nữa, các chi nhánh có thể phát hành chứng khoán nợ để tài trợ cho hoạt động của chi nhánh tại quốc gia cư trú.

Trên toàn cầu, NFCs có xu hướng mở rộng phát hành chứng khoán nợ quốc tế thông qua các chi nhánh ở nước ngoài, với mức độ phụ thuộc rất khác nhau. Trong nhóm AEs, mức phát hành IDS ở nước ngoài của các doanh nghiệp Thụy Sỹ chiếm tỷ trọng cao nhất (90%); tiếp đến là các doanh nghiệp Cộng hòa Liên bang Đức (60%), với giá trị IDS phát hành lớn nhất. Nếu tính cả những doanh nghiệp khác tại khu vực đồng Euro, tới 80% nợ tồn đọng bắt nguồn từ các chi nhánh hoạt động tại khu vực này. NFCs tại Mỹ ghi nhận xu hướng nổi bật, cả về giá trị IDS phát hành rất lớn ở nước ngoài và mức độ phụ thuộc vào các trung tâm tài chính nước ngoài (chủ yếu là tại Caribe).Trong số NFCs sử dụng các trung tâm tài chính nước ngoài, các doanh nghiệp Canada và Vương quốc Anh ít phụ thuộc hơn vào các chi nhánh ở nước ngoài.

Đối với các doanh nghiệp tại EMEs, các chi nhánh ở nước ngoài đóng vai trò cực kỳ quan trọng - chiếm tới 55% nợ nước ngoài (tính đến cuối quý I/2021), cao hơn nhiều so với tỷ lệ dưới 30% của NFCs tại AEs. Sáu quốc gia thuộc nhóm EMEs ghi nhận trên 50% là nợ nước ngoài tại các chi nhánh, đứng đầu danh sách là Trung Quốc với tổng nợ nước ngoài cao hơn EMEs khác gộp lại, chủ yếu là tại các quần đảo Cayman và British Virgin. Tiếp đến là NFCs Brazil, Liên bang Nga, Cộng hòa Nam Phi và Israel - chủ yếu là phát hành chứng khoán nợ tại AEs, tập trung tại Hà Lan và Luxembourg. Tại một số EME hàng đầu như Hàn Quốc, NFCs ghi nhận mức độ phụ thuộc không đáng kể vào nghiệp vụ phát hành nợ vay thông qua các chi nhánh ở nước ngoài.

Đại dịch Covid-19 làm gia tăng nhu cầu về hỗ trợ tài chính trên toàn cầu,các doanh nghiệp tăng cường tiếp cận tín dụng và NFCs tại AEs đã phát hành lượng IDS kỷ lục để đáp ứng nhu cầu về tài chính và thanh khoản. Kể từ khi đại dịch bùng phát, nợ phát hành của NFCs tăng dần, nổi bật là nợ dưới dạng USD. Cùng với USD, các NFC tại AEs cũng mở rộng phát hành nợ dưới dạng Euro. Nguyên nhân là do, tín dụng mở rộng trong 12 tháng tính đến quý I/2021 tăng cao hơn so với những năm trước. Trong quý II/2020, lượng trái phiếu phát hành ròng lên tới 221 tỷ USD (gần gấp đôi so với con số 122 tỷ USD phát hành vào quý IV/2012), chủ yếu là các trụ sở NFCs tại Mỹ với trên 50% tổng giá trị phát hành.Trong năm 2020, NFCs tại EMEs liên tục phát hành IDS, đa phần dưới dạng USD, kể cả tại Trung Quốc (chiếm 37% tổng nợ nước ngoài) và EMEs khác.

Sau khi đại dịch bùng phát, chứng khoán nợ tăng mạnh về lượng và bao phủ khắp nơi trên thế giới, tập trung vào ba lĩnh vực chính: Dịch vụ kinh doanh và xã hội (như y tế và viễn thông), hàng hóa (xây dựng, chế tạo), dịch vụ khách hàng (giao thông, nhà hàng). Trong 12 tháng qua, tính đến cuối quý I/2021, hai lĩnh vực dịch vụ đầu tiên chiếm trên 40% tại các doanh nghiệp AEs, dịch vụ thứ ba chiếm khoảng 30% tại AEs và 25% tại EMEs, mục tiêu là tìm cách bù đắp những thiếu hụt về dòng tiền mặt. Đa phần chứng khoán nợ có kỳ hạn dài, ngoại trừ dịch vụ khách hàng tại AEs giảm xuống kỳ hạn trung bình 2,5 năm.

Có thể nói, thị trường chứng khoán nợ quốc tế gia tăng với quy mô lớn trong những thập kỷ gần đây và tiếp tục mở rộng sau khi đại dịch bùng phát, đa phần dưới dạng USD và được phát hành thông qua các chi nhánh NFCs ở nước ngoài nhằm thích ứng với những thay đổi về điều kiện tài chính toàn cầu. Các giải pháp chính sách trong thời kỳ khó khăn do đại dịch gây ra đã hỗ trợ NFCs đẩy mạnh phát hành chứng khoán nợ, mặc dù thị trường tài chính bất ổn với nhiều thay đổi.

Nguồn: BIS tháng 6/2021


Vũ Xuân Thanh (NHNN)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.
Xem thêm
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc