Thúc đẩy tín dụng xanh mở đường cho khu công nghiệp xanh

Sự kiện
Ngân hàng và doanh nghiệp luôn là mối quan hệ cộng sinh mật thiết. Ngân hàng và doanh nghiệp phải cùng nhận thức, cùng hành động, đồng hành để tiến tới mục tiêu chuyển đổi xanh đang rất cấp bách hiện nay. Muốn chuyển đổi xanh cần có một hệ sinh thái hỗ trợ đồng bộ từ phía Nhà nước, ngân hàng và bản thân doanh nghiệp thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh một cách hiệu quả và bền vững tại Việt Nam. Đây là nhận định của các chuyên gia tại Diễn đàn “Kết nối Tín dụng Xanh - Khu công nghiệp Xanh” ngày 09/5/2025 do Thời báo Ngân hàng tổ chức tại Thành phố Đà Nẵng.
aa
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú phát biểu tại Diễn đàn
Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú phát biểu tại Diễn đàn

Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú: Chuyển đổi xanh phải khẩn trương và quyết liệt

Phát triển xanh, kinh tế xanh là một vấn đề lớn, đại sự của cả thế giới trong đó có Việt Nam, đây không phải câu chuyện của tương lai mà là việc của ngày hôm nay, phải khẩn trương và quyết liệt để đạt được các mục tiêu về giảm phát thải ròng.

Hiện tại, các quốc gia trên thế giới cũng đã đặt ra các yêu cầu gắt gao về chỉ số phát thải ròng, yếu tố bảo vệ môi trường trong các sản phẩm nhập khẩu, vì vậy nếu doanh nghiệp Việt Nam không ứng xử nhanh chóng với các quy định này thì sẽ rất khó khăn trong vấn đề cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Để hỗ trợ mục tiêu chuyển đổi xanh của nền kinh tế, ngành Ngân hàng đã “đi tắt đón đầu”. Cụ thể từ năm 2017 khi mục tiêu xanh còn đang manh nha tại Việt Nam, ngành Ngân hàng với nghiên cứu thực tế và sự hỗ trợ của các tổ chức lớn trên thế giới đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách thức đẩy tín dụng xanh. Đến năm 2022, cơ bản hành lang pháp lý cho tín dụng xanh vì mục tiêu phát triển bền vững đã có, tuy chưa đầy đủ.

Ngành Ngân hàng nhận thức tín dụng xanh phải đi trước một bước nên đã sớm có cơ chế, chính sách. Đặc biệt, để hỗ trợ mục tiêu cho phát triển xanh, khu công nghiệp xanh, chúng tôi hiểu phải có nguồn vốn, không chỉ vốn ngắn hạn mà còn nguồn vốn trung, dài hạn để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp, nền kinh tế.

Tuy nhiên, quá trình triển khai trên thực tế vẫn gặp không ít khó khăn. Nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) phản ánh vướng mắc về nguồn vốn trung và dài hạn, trong khi hành lang pháp lý liên quan đến trái phiếu xanh chưa hoàn thiện, khiến các ngân hàng thương mại còn e dè khi tham gia sâu hơn vào thị trường này. Điều này đòi hỏi cần có thêm các cơ chế hỗ trợ từ phía Nhà nước để thúc đẩy tín dụng xanh phát triển mạnh mẽ, đồng bộ và bền vững hơn trong thời gian tới.

Các khu công nghiệp cũng có những khó khăn riêng. Dù cả nước có hàng nghìn khu công nghiệp, nhưng để hình thành các khu công nghiệp xanh theo đúng nghĩa vẫn là một bài toán lớn. Thực tế cho thấy, việc cải tạo kết cấu hạ tầng để đáp ứng tiêu chuẩn môi trường là điều không hề đơn giản. Phần lớn doanh nghiệp đang hoạt động tại các khu công nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và vừa, với quy mô hạn chế, năng lực tài chính và quản trị còn yếu, khả năng tiếp cận và ứng dụng công nghệ xanh còn thấp. Phó Thống đốc đặt vấn đề: “Liệu trong chiến lược phát triển của bao nhiêu doanh nghiệp hiện nay đã thực sự đặt ra mục tiêu chuyển đổi xanh, chuyển đổi số?” Chưa kể tính đồng thuận trong các doanh nghiệp tại khu công nghiệp, hay giữa các khu công nghiệp trong cùng một địa phương trong quá trình chuyển đổi.

Không chỉ vậy, sự đồng thuận giữa các doanh nghiệp trong cùng khu công nghiệp, hay giữa các khu công nghiệp trong một địa phương cũng chưa thực sự rõ ràng - điều này tạo ra những trở ngại lớn trong việc xây dựng và vận hành mô hình phát triển xanh một cách đồng bộ. Ngoài ra, hệ thống tiêu chuẩn, hành lang pháp lý, danh mục và phân loại các dự án xanh hiện vẫn chưa hoàn chỉnh. Riêng đối với khu công nghiệp xanh, việc thiếu bộ tiêu chí và điều kiện rõ ràng đang là một trong những thách thức lớn.

Để thúc đẩy chuyển đổi xanh trong nền kinh tế, trong đó có các khu công nghiệp xanh, ngân hàng, doanh nghiệp phải cùng nhận thức, cùng hành động. Trước hết, với khu công nghiệp, cần xác định chuyển đổi xanh vì lợi ích của chính mình, nhà nước cũng phải có cơ chế hỗ trợ nhưng doanh nghiệp không thể ngồi chờ. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp phải xác định quy trình chuyển đổi, nguồn lực để chuyển đổi, từ đó mới biết nguồn lực tự có, nguồn lực nào cần hỗ trợ.

Song song với đó, về phía Nhà nước, chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ hiện đã đầy đủ, vấn đề là chương trình hành động cụ thể từ các bộ, ngành. Về phía NHNN, sẽ tiếp tục hoàn thiện về hành lang pháp lý và có các giải pháp thúc đẩy tín dụng xanh. Về phía các TCTD, lãnh đạo NHNN yêu cầu cần xác định quan điểm đồng hành cùng doanh nghiệp trên hành trình phát triển và chuyển đổi xanh. Điều này không chỉ thể hiện trách nhiệm xã hội mà còn là chiến lược phát triển bền vững của chính các ngân hàng. Các TCTD cần xây dựng khuôn khổ phù hợp, thiết lập quy trình cho vay cụ thể, đồng thời phân loại rõ ràng các lĩnh vực ưu tiên như lĩnh vực xanh để từ đó có chính sách tín dụng ưu đãi, phù hợp. Các địa phương cũng cần có chính sách đồng bộ để hỗ trợ các doanh nghiệp, khu công nghiệp trong quá trình chuyển đổi xanh.

Bà Lê Thị Thúy Sen, Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng phát biểu tại Diễn đàn
Bà Lê Thị Thúy Sen, Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng phát biểu tại Diễn đàn

Bà Lê Thị Thúy Sen, Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng: Kết nối, chia sẻ kinh nghiệm để chuyển đổi xanh nhanh hơn, bền vững hơn

Diễn đàn “Kết nối Tín dụng Xanh - Khu công nghiệp Xanh” là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt khi đây là diễn đàn đầu tiên do Thời báo Ngân hàng tổ chức trên địa bàn. Việc lựa chọn Đà Nẵng làm nơi khởi đầu không phải là ngẫu nhiên, mà xuất phát từ thực tế đây là một trong những địa phương tiêu biểu trong nỗ lực xanh hóa các khu công nghiệp.

Trong khuôn khổ diễn đàn quan trọng này sẽ trả lời ngắn gọn ba câu hỏi cốt lõi: Vì sao chúng tôi tổ chức diễn đàn này? Diễn đàn được tổ chức để làm gì? Và chúng ta kỳ vọng điều gì sau diễn đàn?

Trước hết, về câu hỏi: Vì sao tổ chức Diễn đàn?. Sau quá trình sáp nhập ba đơn vị là Cổng thông tin điện tử NHNN, Thời báo Ngân hàng và Tạp chí Ngân hàng theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương, Thời báo Ngân hàng đã không ngừng củng cố và tăng cường vai trò truyền thông chính sách của ngành Ngân hàng. Một trong những chức năng quan trọng của đơn vị là tổ chức sự kiện, kịp thời nắm bắt những vấn đề dư luận quan tâm, từ đó tăng cường vai trò tham mưu và đề xuất các vấn đề này lên Ban lãnh đạo NHNN.

Chúng tôi mong muốn trở thành một kênh thông tin hữu hiệu, hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách.

Chính vì lẽ đó, chủ đề "Kết nối Tín dụng Xanh - Khu công nghiệp Xanh" đã được lựa chọn cho Diễn đàn lần này. Đây là một chủ trương lớn, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước trong mục tiêu phát triển kinh tế xanh. Chúng ta liên tục nghe thấy cụm từ "xanh" trong mọi lĩnh vực, từ kinh tế xanh, chuyển đổi xanh đến tín dụng xanh..., tất cả đều hướng tới mục tiêu tối thượng là bảo vệ môi trường và thực hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ tại Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26) về Net Zero - giảm phát thải ròng bằng 0. Một trong những nhiệm vụ cấp bách mà chúng ta đang đối mặt là bảo vệ môi trường sống, hiện thực hóa mục tiêu giảm phát thải đầy thách thức này.

Chúng ta đều nhận thức rõ ràng rằng, các khu công nghiệp hiện nay đang là một trong những nguồn phát thải lớn, gây ra những tác động không nhỏ đến môi trường. Do đó, việc xanh hóa các khu công nghiệp không chỉ là một giải pháp mà còn là một hành động thiết thực, góp phần bảo vệ môi trường, hiện thực hóa chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

Về phía ngành Ngân hàng, dưới sự chỉ đạo sát sao của Thống đốc NHNN, các TCTD đã và đang không ngừng đẩy mạnh hoạt động tín dụng xanh. Đây là một nỗ lực đáng ghi nhận, thể hiện sự chung tay của ngành Ngân hàng trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về bảo vệ môi trường và mục tiêu giảm phát thải ròng về "0".

Thứ hai, về Diễn đàn được tổ chức để làm gì?, Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng chia sẻ, mục tiêu chính của Diễn đàn "Kết nối Tín dụng Xanh - Khu công nghiệp Xanh" là tạo ra một không gian đối thoại cởi mở, đa chiều giữa các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp và các bên liên quan. Diễn đàn vinh dự có sự tham gia của các diễn giả uy tín, những người có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng xanh và phát triển khu công nghiệp bền vững.

Thông qua Diễn đàn này, Ban tổ chức mong muốn được lắng nghe, học hỏi những kinh nghiệm quý báu, những mô hình hay, cách làm hiệu quả trong việc xanh hóa khu công nghiệp và thúc đẩy tín dụng xanh. Những thông tin này sẽ được chúng tôi tổng hợp một cách đầy đủ và gửi đến Ban lãnh đạo NHNN, góp phần cung cấp những cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng và điều chỉnh chính sách.

Đặc biệt, tại Diễn đàn, đại diện một số vụ, cục chức năng của NHNN cũng sẽ trực tiếp cung cấp những thông tin cụ thể, những minh chứng bằng số liệu rõ ràng về tình hình triển khai tín dụng xanh đối với phát triển xanh nói chung và khu công nghiệp xanh nói riêng. Điều này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn khách quan và toàn diện hơn về những nỗ lực và kết quả đã đạt được.

Cuối cùng, chúng ta kỳ vọng điều gì sau Diễn đàn? Diễn đàn "Kết nối Tín dụng Xanh - Khu công nghiệp Xanh" sẽ là một dấu mốc quan trọng, tạo ra sự lan tỏa mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các chủ đầu tư và doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp.

Sự tham gia của đông đảo các nhà báo, phóng viên hôm nay có vai trò vô cùng quan trọng trong việc truyền tải thông tin, kinh nghiệm, những chính sách về xanh hóa khu công nghiệp đến đông đảo công chúng. Chúng ta sẽ cùng nhau làm rõ những cơ hội, thách thức, khó khăn và các giải pháp khả thi trong quá trình chuyển đổi xanh này.

Chúng tôi tin tưởng rằng, những chia sẻ, thảo luận tại Diễn đàn sẽ giúp nhân rộng các mô hình xanh hóa khu công nghiệp hiệu quả trên cả nước. Chúng ta sẽ học hỏi lẫn nhau, tìm ra những hướng đi phù hợp để nhiều khu công nghiệp khác có thể áp dụng, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu về phát triển bền vững.

Bà Lê Thị Thúy Sen, Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng phát biểu tại Diễn đàn
Bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế NHNN phát biểu tại Diễn đàn

Bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế NHNN: Đưa tín dụng xanh trở thành động lực bền vững trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Trong tiến trình xanh hóa nền kinh tế, nhu cầu về nguồn lực tài chính - đặc biệt là vốn cho các hoạt động chuyển đổi xanh - đang ngày càng trở nên cấp thiết. Đối với các khu công nghiệp - nơi tiêu thụ nhiều năng lượng và tài nguyên, việc chuyển đổi sang mô hình khu công nghiệp xanh không chỉ là yêu cầu bắt buộc để thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế mà còn là cơ hội để nâng cao hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh và phát triển bền vững.

Để hỗ trợ quá trình chuyển đổi này, vai trò định hướng, kiến tạo của Chính phủ thông qua việc hoàn thiện thể chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ là yếu tố then chốt. Bên cạnh đó, trong điều kiện thị trường trái phiếu xanh và thị trường các-bon mới phát triển, đang hình thành, nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng đã và đang đóng góp vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động mang lại lợi ích môi trường, phát triển các mô hình sản xuất bền vững, góp phần xanh hóa nền kinh tế. Về phía ngành Ngân hàng, thời gian qua, NHNN đã triển khai kịp thời, đồng bộ để tạo điều kiện triển khai, thúc đẩy hoạt động tín dụng xanh.

Một trong những định hướng quan trọng là điều hành chính sách tín dụng hợp lý, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, hướng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, trong đó có hỗ trợ nền kinh tế chuyển sang mô hình tăng trưởng xanh. Bên cạnh đó, NHNN định hướng mục tiêu, yêu cầu và xây dựng các giải pháp thúc thúc đẩy phát triển “tín dụng xanh”, “ngân hàng xanh” để góp phần chuyển đổi nền kinh tế sang hướng tăng trưởng xanh, phát thải các-bon thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng tỉ trọng vốn tín dụng ngân hàng đầu tư vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, các ngành sản xuất và tiêu dùng ít các-bon tại các Đề án, Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng.

Đồng thời, NHNN đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu, ban hành các chính sách ưu đãi, cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các TCTD thúc đẩy tín dụng xanh, ngân hàng xanh. Để cụ thể hóa các chính sách này, NHNN đã sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp lý liên quan đến cấp tín dụng theo hướng đồng bộ, thống nhất và phù hợp với xu thế phát triển bền vững. NHNN đẩy mạnh hướng dẫn các TCTD xác định, thống kê hoạt động cấp tín dụng cho 12 lĩnh vực xanh và chỉ đạo tập trung vốn cho các ngành sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, tiêu dùng bền vững, nhà ở thích ứng biến đổi khí hậu. Năm 2024, một điểm nhấn là NHNN đã phối hợp với các bộ, ngành triển khai Chương trình cho vay liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ lúa gạo chất lượng cao, phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ.

Ngoài ra, NHNN tích cực tham gia các diễn đàn tài chính quốc tế để học hỏi kinh nghiệm, huy động nguồn lực, thúc đẩy tín dụng xanh và nâng cao vị thế Việt Nam trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng toàn cầu.

Các giải pháp trên đã tạo ra chuyển biến rõ rệt về nhận thức và hành động trong toàn hệ thống TCTD. Đến ngày 31/3/2025 đã có 58 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh với dư nợ đạt trên 704.244 tỉ đồng, tăng 3,57% so với cuối năm 2024, chiếm tỉ trọng 4,3% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong đó, tín dụng xanh có phát triển cả về số lượng TCTD tham gia cho vay, quy mô và tốc độ tăng trưởng. Từ chỗ chỉ có 15 TCTD tham gia cho vay xanh vào năm 2017 với dư nợ tín dụng xanh chỉ đạt 180 nghìn tỉ đồng; đến ngày 31/12/2024, đã có 48 TCTD cho vay với dư nợ tín dụng xanh đạt gần 680 nghìn tỉ đồng, tăng 9,5% so với cuối năm 2023, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm hơn 41%) và nông nghiệp xanh (trên 29%); tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân đạt hơn 21,2%/năm trong giai đoạn 2017 - 2024, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng của toàn nền kinh tế. Dư nợ tín dụng đã được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt 3,62 triệu tỉ đồng, tăng gần 1% so với cuối năm 2024 với số món được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt gần 1,3 triệu món.

Tuy tốc độ và tỉ lệ cho vay tín dụng xanh cải thiện rõ, nhưng quá trình triển khai vẫn còn không ít rào cản. Đến nay Danh mục phân loại xanh quốc gia vẫn chưa được ban hành, gây khó khăn trong việc xác định, thống kê, giám sát tín dụng xanh. Các cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư cho tăng trưởng xanh và chuyển đổi xanh còn đang trong quá trình hoàn thiện. Trong khi huy động nguồn vốn đầu tư cho các dự án/lĩnh vực xanh trong nước và thị trường quốc tế còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng từ tình hình bất ổn về kinh tế - chính trị ảnh, lãi suất vay bằng USD thời gian qua được duy trì ở mức cao, rủi ro tỉ giá, chênh lệch kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động của các TCTD với thời gian hoàn vốn của các dự án.

Đầu tư cho các dự án xanh đòi hỏi nguồn vốn lớn, năng lực thẩm định các yếu tố kỹ thuật môi trường chuyên ngành, do vậy các TCTD sẽ phát sinh thêm chi phí đầu tư xây dựng hệ thống quản trị phù hợp mục tiêu tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh của nền kinh tế, nâng cao năng lực của cán bộ ngân hàng về ngân hàng xanh, tài chính bền vững.

Ngoài ra, nhận thức của doanh nghiệp và nhà đầu tư về lợi ích dài hạn, tầm quan trọng của thị trường tài chính xanh chưa đồng đều, dẫn đến mức độ quan tâm của khách hàng đối với các sản phẩm huy động, sản phẩm tín dụng tài chính xanh chưa cao, tâm lý e ngại khi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới. Hệ thống dữ liệu về môi trường còn phân tán, khó khai thác và chưa hỗ trợ hiệu quả cho công tác thẩm định, giám sát rủi ro.

Trong thời gian tới, trên cơ sở bám sát các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, và các nhiệm vụ được giao về tăng trưởng xanh, NHNN tiếp tục triển khai các nhóm nhiệm vụ, giải pháp tại Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2021 - 2030. Trọng tâm giải pháp của NHNN là điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, kiểm soát lạm phát để khai thác các động lực tăng trưởng, trong đó có tăng trưởng xanh, hỗ trợ nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 8% trở lên.

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, trong đó đề xuất sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách tín dụng ưu đãi khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp theo mô hình kinh tế tuần hoàn. NHNN hướng dẫn các TCTD cấp tín dụng cho các dự án có lợi ích về môi trường, bảo vệ môi trường sau khi Danh mục xanh quốc gia được ban hành; tích cực kết nối, làm việc với các tổ chức ở trong và ngoài nước để tiếp nhận các hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ kỹ thuật để triển khai các hoạt động về tài chính xanh, ngân hàng xanh, đặc biệt là nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ ngân hàng về ngân hàng - tín dụng xanh, biến đổi khí hậu; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền trong ngành Ngân hàng nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết cho cán bộ ngân hàng, khách hàng về tăng trưởng xanh, sản xuất và tiêu dùng bền vững.

Để mở rộng, khơi thông và sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín dụng xanh của hệ thống ngân hàng đòi hỏi sự phối, kết hợp từ các Bộ, ngành. Trước hết là hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách về đầu tư nhằm tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi; xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh. Danh mục phân loại xanh quốc gia sớm được ban hành; hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh, phát triển thị trường trao đổi quyền phát thải; hoàn thiện công cụ thuế đối với các hoạt động có phát thải các-bon.

Cùng với đó, xây dựng và thực hiện các giải pháp hỗ trợ các TCTD tiếp cận, huy động các nguồn tài chính từ các định chế tài chính, các quỹ và các nhà đầu tư tư nhân quốc tế, các quỹ tài chính để có điều kiện cung cấp các khoản tín dụng với thời hạn dài và lãi suất ưu đãi cho các ngành/lĩnh vực xanh.

Chỉ khi có sự phối hợp đồng bộ và quyết liệt từ nhiều phía: Nhà nước, doanh nghiệp, ngân hàng và cộng đồng - thì tín dụng xanh mới thực sự trở thành động lực bền vững trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

TS. Phùng Tấn Viết, Nguyên Phó Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng, NguyênTrưởng Ban quản lý KCNC TP Đà Nẵng phát biểu tại Diễn đàn
TS. Phùng Tấn Viết, Nguyên Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẵng, Nguyên Trưởng Ban quản lý Khu công nghệ cao Thành phố Đà Nẵng phát biểu tại Diễn đàn

TS. Phùng Tấn Viết, Nguyên Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẵng, Nguyên Trưởng Ban quản lý Khu công nghệ cao Thành phố Đà Nẵng: Doanh nghiệp phải có phương pháp tiếp cận xanh từ tín dụng xanh để đầu tư, đổi mới công nghệ

Khái niệm khu công nghiệp (KCN) sinh thái, KCN xanh được thể chế hóa lần đầu tiên tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ. Chuyển đổi xanh là việc xây dựng nền kinh tế dựa trên các tiêu chuẩn về phát triển xanh; nghĩa là, chúng ta phải sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên hiện có, đồng thời hạn chế thải ra những đa dạng sinh thái, lúc đó doanh nghiệp sẽ vận hành sản xuất và kinh doanh thân thiện với môi trường. Chuyển đổi xanh trong các KCN không chỉ là việc để phát triển, chuyển đổi cách thức kinh doanh mà còn tối ưu hóa, hệ thống hóa các quy trình và mô hình kinh doanh.

Bên cạnh đó, phát triển tín dụng xanh cũng là một nội dung quan trọng trong quá trình Việt Nam thực hiện cam kết đạt phát thải ròng bằng "0" đã cam kết tại COP 26, từng bước xanh hóa hoạt động ngân hàng, hướng dòng vốn tín dụng tài trợ cho các dự án, các doanh nghiệp thân thiện với môi trường, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu và tiêu dùng xanh, góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại của Việt Nam cũng đang chuyển động mạnh mẽ sang hoạt động cấp tín dụng xanh cho các dự án, doanh nghiệp, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và các cam kết quốc tế về phát triển kinh tế xanh của Chính phủ. Các dự án được các ngân hàng thương mại chú trọng đầu tư gồm năng lượng điện tái tạo, kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực dệt may, yếu tố bảo vệ môi trường của các sản phẩm chế biến gỗ, các dự án chống biến đổi khí hậu…

Đây là nguồn hỗ trợ quan trọng để Đà Nẵng vững bước hướng đến mục tiêu xanh hóa các khu công nghiệp truyền thống. TS. Phùng Tấn Viết cho biết, Thành phố Đà Nẵng là địa phương duy nhất ở miền Trung và là một trong ba tỉnh thành đầu tiên của cả nước tham gia thí điểm các giải pháp chuyển đổi theo mô hình KCN sinh thái trong khuôn khổ Dự án hợp tác của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thông qua đó, hầu hết doanh nghiệp tại các KCN trên địa bàn Thành phố đã có những hiểu biết nhất định về KCN sinh thái và ý nghĩa của việc chuyển đổi trong thời gian đến, để thu hút đầu tư FDI. Lũy kế đến nay, trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng đã thu hút được 524 dự án đầu tư vào khu công nghiệp cao, Khu Công nghệ thông tin tập trung - giai đoạn 1 và các KCN. Tổng cộng tổng vốn đăng ký đầu tư vào các KCN tương đương khoảng 3,6 tỉ USD.

Tuy nhiên, hiện có 03 rào cản lớn nhất trong việc chuyển đổi các KCN đã hoạt động hiện nay để đáp ứng các tiêu chí của KCN xanh. Không riêng gì các KCN Đà Nẵng mà cả nước, việc cạn quỹ đất và thiếu vùng đệm để phát triển là một rào cản thúc đầy xanh hóa. Các KCN cũ, đặc biệt thành lập trước năm 2010 như KCN Hòa Khánh, thiếu quỹ đất để mở rộng và không đảm bảo khoảng cách ly cần thiết cho khu tập kết, xử lý chất thải tập trung. Mặt khác, khoảng cách ly giữa KCN và khu dân cư là không đảm bảo để bố trí khu vực tập kết, xử lý chất thải tập trung.

Bên cạnh đó, nguồn kinh phí hỗ trợ đổi mới công nghệ còn hạn chế, thủ tục còn lắm phức tạp, chưa thực sự tạo động lực để doanh nghiệp thay đổi công nghệ sản xuất. Nhiều quỹ tài chính xanh đã tạm ngưng các khoản vay hỗ trợ đổi mới công nghệ hoặc thắt chặt các chính sách, đối tượng cho vay. Trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới vẫn đang từng bước phục hồi và phát triển, việc thiếu các nguồn tài chính xanh sẽ là rào cản cho các doanh nghiệp muốn đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất.

Ngoài ra, các điều kiện để được công nhận là KCN xanh (sinh thái) hiện nay còn một số bất cập và chưa được hướng dẫn cụ thể. Việc đảm bảo 100% doanh nghiệp tại KCN chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật ở nhiều lĩnh vực trong vòng 3 năm là rất khó khả thi (đặc biệt khi đề cập đến lĩnh vực lao động). Một số tiêu chí của KCN sinh thái như dữ liệu thông tin về nguyên liệu sản xuất và phát thải, mốc thời gian đối chiếu số liệu về sản xuất sạch hơn… cần được hướng dẫn chi tiết hơn để có cơ sở đánh giá.

Những khó khăn, vướng mắc nêu trên cũng khiến việc triển khai tín dụng xanh cũng gặp những khó khăn nhất định cần tháo gỡ. Các quy định, định nghĩa cụ thể về danh mục, ngành, lĩnh vực xanh chưa được thống nhất áp dụng chung trên cả nước. Vì vậy, các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng. Hệ thống ngân hàng chưa có cơ sở để đánh giá đầy đủ dữ liệu quy mô hoạt động tín dụng xanh đối với nền kinh tế

Việc đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế xanh nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, công trình xanh thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các TCTD thường là vốn huy động ngắn hạn, khó khăn cho các TCTD trong việc cân đối vốn và đảm bảo tỉ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định. Trong khi đó, các ngành kinh tế mũi nhọn của Đà Nẵng là dịch vụ du lịch và các ngành khác là bổ trợ; không thuận lợi phát triển sản xuất các lĩnh vực xanh.

Để chuyển đổi sang KCN sinh thái và thúc đẩy phát triển tín dụng xanh. Trước hết, xây dựng kế hoạch chi tiết nhằm chuyển đổi các KCN hiện hữu theo mô hình KCN xanh, sinh thái. Trong đó, cần tham khảo, nghiên cứu chính sách phát triển KCN xanh tại một số quốc gia trong khu vực (như Nhật Bản, Hàn Quốc...) nhằm tham mưu UBND Thành phố ban hành chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cải tiến quy trình quản lý và vận hành, đổi mới công nghệ sản xuất để giảm các nguồn gây ô nhiễm, thực hiện cộng sinh công nghiệp và chuyển đổi thành KCN xanh.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục đề xuất với Bộ Tài chính xem xét trình Chính phủ điều chính một số tiêu chí về KCN sinh thái để thúc đẩy việc có một KCN được công nhận là KCN (xanh) sinh thái hoặc cận sinh thái làm hình mẫu để các KCN khác học tập; nghiên cứu xây dựng Trang thông tin về sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn, công bố các thông tin về chất thải có thể tái chế tại các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy liên kết cộng sinh công nghiệp...

Xuất khẩu xanh đã và đang trở thành xu hướng phát triển trên toàn thế giới và là một giải pháp tích cực giúp giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao năng lực chống chịu và khả năng sáng tạo của nền kinh tế. Những doanh nghiệp hoặc các dự án trong các KCN chuyển đổi xanh với bản chất là việc tăng tiêu thụ hàng hóa, xuất khẩu các sản phẩm thân thiện với môi trường và bền vững; việc đó, đang ngày càng trở thành xu hướng quan trọng trên toàn cầu và với Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập sâu với thị trường thế giới hiện nay, phát triển xuất khẩu xanh không chỉ giúp các Doanh nghiệp Việt Nam nâng cao giá trị xuất khẩu sản phẩm, mà còn tạo ra được các sản phẩm không chỉ giới thiệu thị trường trong nước, mà thương trường quốc tế sẽ biết đến.

Điều quan trọng là doanh nghiệp phải có phương pháp tiếp cận xanh từ tín dụng xanh để đầu tư, đổi mới công nghệ đển các hoạt động sản xuất kinh doanh để thực hiện lời hứa với các nhà đầu tư và sự đảm bảo thương hiệu của mình với thị trường. Trong thời đại hiện nay, yếu tố xanh của doanh nghiệp được nhận diện, sự đánh giá cao của khách hàng và đối tác. Tuy nhiên, hãy đảm bảo rằng doanh nghiệp của bạn sẽ tuân theo những tiêu chuẩn về chuyển đổi xanh để tạo dựng niềm tin vững chắc.

Về phía ngành Ngân hàng, hệ thống ngân hàng thương mại phải xem việc phát triển tín dụng xanh là cơ hội và yêu cầu bức thiết để tăng trưởng bền vững, hội nhập kinh tế và thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam; tiếp tục nâng cao nhận thức của các TCTD về mở rộng tín dụng xanh đối với nền kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế xanh trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác. Xác định đây là lĩnh vực cấp bách cần phải triển khai có hiệu quả. Việc thực hiện có kết quả hay không, đòi hỏi các TCTD phải kết hợp với nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ về kinh tế xanh cho đội ngũ cán bộ tín dụng.

Ông Lê Anh Xuân, Giám đốc NHNN chi nhánh Khu vực 9 phát biểu tại Diễn đàn
Ông Lê Anh Xuân, Giám đốc NHNN Chi nhánh Khu vực 9 phát biểu tại Diễn đàn

Ông Lê Anh Xuân, Giám đốc NHNN chi nhánh Khu vực 9: Nỗ lực gia tăng tỉ trọng tín dụng xanh trong tổng dư nợ

Bám sát các nhiệm vụ, giải pháp theo Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng về thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, thời gian qua, NHNN Chi nhánh Khu vực 9 đã chỉ đạo các chi nhánh TCTD đẩy mạnh triển khai các chương trình tín dụng xanh với lãi suất ưu đãi; các chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch; chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đối với các đối tượng chịu thiệt hại do biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh...

Với sự chỉ đạo quyết liệt từ NHNN, các chi nhánh TCTD trên địa bàn đã tích cực triển khai nhiều sản phẩm tín dụng xanh. Điển hình như: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) hiện đang triển khai gói tín dụng lãi suất ưu đãi trung và dài hạn cho các dự án công trình xanh; gói tín dụng xanh cho vay khoa học công nghệ phục vụ nhu cầu đời sống từ sản phẩm xanh, sản xuất kinh doanh xanh, sản xuất kinh doanh các ngành đáp ứng điều kiện về trồng trọt, chăn nuôi VietGAP... với lãi suất ưu đãi thấp hơn 0,5%/năm so với mặt bằng lãi suất hiện hành. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) triển khai chương trình cho vay khoa học công nghệ đối với sản xuất kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ thuộc lĩnh vực xanh với lãi suất thấp hơn 1,0%/năm so với thông thường. Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCB) triển khai chương trình cho vay sản xuất kinh doanh ưu đãi cho khách hàng SME và cá nhân theo tiêu chuẩn xanh với quy mô 10.000 tỉ đồng. Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB) triển khai chương trình “Đẩy tín dụng xanh - Bật nhanh tăng trưởng” dành cho khách hàng doanh nghiệp, nhằm hỗ trợ, khuyến khích đầu tư các dự án xanh hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Tính đến cuối tháng 3/2025, đã có 30 chi nhánh TCTD trên địa bàn Khu vực 9 phát sinh dư nợ tín dụng xanh với tổng dư nợ đạt khoảng 10.482 tỉ đồng, chiếm gần 2% tổng dư nợ, trong đó tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm 35,51%). Dư nợ tín dụng xanh của Quảng Nam chiếm 60% tổng dư nợ tín dụng xanh toàn khu vực. Lãi suất cho vay các lĩnh vực xanh ngắn hạn bình quân dao động từ 4 - 7%/năm, trung và dài hạn từ 9 - 11%/năm. Đặc biệt, đối với một số lĩnh vực ưu tiên, các gói tín dụng ưu đãi được áp dụng mức lãi suất dưới 4%/năm. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng đã tích cực thực hiện đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ, ứng dụng chuyển đổi số nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng xanh.

Ngoài ra, NHNN Chi nhánh Khu vực 9 cũng thường xuyên đẩy mạnh chương trình Kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, qua đó kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo cơ chế thông thoáng, thuận lợi hơn cho cả TCTD và khách hàng trong việc tiếp cận vốn phục vụ cho các lĩnh vực xanh, chuyển đổi xanh.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, so với nhu cầu tài chính rất lớn, quy mô tín dụng xanh trên địa bàn vẫn còn khá khiêm tốn. Điều này cho thấy việc triển khai thực tế vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức:

Thứ nhất, việc đầu tư vào một số lĩnh vực xanh, nhất là năng lượng tái tạo, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, công trình xanh... thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các TCTD chủ yếu là vốn huy động ngắn hạn.

Thứ hai, Chính phủ chưa ban hành Danh mục phân loại xanh nên chưa có cơ sở đầy đủ để thống kê, theo dõi nguồn lực mà các TCTD cung cấp cho nền kinh tế một cách toàn diện.

Thứ ba, hiện nay khái niệm tín dụng xanh vẫn chủ yếu được hiểu là tài trợ cho các dự án, hoạt động có lợi cho môi trường và phát triển bền vững. Tuy nhiên, các khoản tín dụng cấp cho doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh doanh không thân thiện với môi trường sang mô hình thân thiện với môi trường cũng nên được coi là một phần của tín dụng xanh hoặc cần có chính sách tín dụng ưu đãi riêng. Đây là yếu tố cốt lõi nhằm thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi theo hướng bền vững.

Thứ tư, công tác đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ ngân hàng trong việc thẩm định rủi ro môi trường, quản lý tín dụng đối với các dự án xanh, phát triển bền vững vẫn cần thời gian và nguồn lực đáng kể.

Thứ năm, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn chưa hiểu rõ lợi ích của tín dụng xanh hoặc thiếu thông tin về các chính sách ưu đãi. Ý thức bảo vệ môi trường còn hạn chế, dẫn đến rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng và phát sinh nợ xấu.

Trong thời gian tới, để dòng vốn tín dụng thực sự trở thành động lực cho chuyển đổi xanh, NHNN Chi nhánh Khu vực 9 sẽ tiếp tục chỉ đạo các chi nhánh TCTD trên địa bàn triển khai thực hiện hiệu quả Đề án phát triển ngân hàng xanh. Đồng thời, đề ra các giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn xanh, từ đó gia tăng tỉ trọng tín dụng xanh trong tổng dư nợ - đặc biệt là đối với các đối tượng thuộc Danh mục phân loại xanh. Tiếp tục triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay, nhất là đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực xanh, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất thân thiện môi trường. Cùng với đó là đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông về tín dụng xanh, chuyển đổi xanh và ứng dụng công nghệ số để quản lý, giám sát khoản vay xanh một cách minh bạch, hiệu quả. Cuối cùng, cần chú trọng đào tạo, nâng cao năng lực và nhận thức cho cán bộ, nhân viên ngân hàng về tín dụng xanh - một hướng đi tất yếu trong xu thế phát triển bền vững.

ThS. Lê Ngọc Lâm - Tổng Giám đốc BIDV phát biểu tại Diễn đàn
ThS. Lê Ngọc Lâm - Tổng Giám đốc BIDV phát biểu tại Diễn đàn

ThS. Lê Ngọc Lâm - Tổng Giám đốc BIDV: Tài chính xanh giúp doanh nghiệp vượt rào cản và mở ra cơ hội đầu tư bền vững

Là một trong những định chế tài chính hàng đầu tại Việt Nam, với tổng dư nợ tín dụng đạt trên 2 triệu tỉ đồng, BIDV đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn vốn cho những lĩnh vực thiết yếu của nền kinh tế - từ phát triển cơ sở hạ tầng, năng lượng đến sản xuất công nghiệp và công nghệ cao. Thực hiện cam kết phát triển bền vững, BIDV đã triển khai ba định hướng chiến lược trọng yếu: Chuyển đổi toàn diện và tinh giản quy trình; phát triển bền vững và thực hành ESG; đổi mới sáng tạo và xây dựng hệ sinh thái số.

Lộ trình ESG được BIDV kiên định thực hiện từ năm 2018, với việc xây dựng định hướng tín dụng xanh và tiên phong áp dụng Khung Quản lý Rủi ro Môi trường - Xã hội cho dự án sử dụng nguồn vốn quốc tế. Giai đoạn 2022 - 2024 ghi dấu bước tiến mạnh mẽ của BIDV với việc thành lập Ban Quản lý dự án Tài chính Bền vững; tích hợp quản lý rủi ro môi trường vào quy trình tín dụng, ban hành các Khung tài chính bền vững; thành lập Ban Chỉ đạo Chiến lược ESG do Chủ tịch HĐQT làm Trưởng ban; triển khai các sản phẩm tín dụng xanh theo ngành, khoản vay liên kết bền vững…

Nhờ triển khai các giải pháp đồng bộ, tính đến ngày 31/12/2024, dư nợ tín dụng xanh của BIDV đạt tới 80.870 tỉ đồng - chiếm hơn 12% dư nợ tín dụng xanh toàn ngành Ngân hàng Việt Nam. BIDV đã tài trợ tín dụng xanh cho 1.600 khách hàng với 1.982 dự án/phương án, trong đó dư nợ các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch đạt gần 60.000 tỉ đồng, chiếm 74%; dư nợ công trình xanh đạt 6.500 tỉ đồng, chiếm 8%; dư nợ khu công nghiệp xanh đạt 1.736 tỉ đồng, chiếm 2% và dư nợ nước sạch đạt 1.174 tỉ đồng, chiếm 1,5%. Đồng thời, BIDV đã huy động 2.500 tỉ đồng trái phiếu xanh, 3.000 tỉ đồng trái phiếu bền vững và 5.000 tỉ đồng tiền gửi xanh.

Nhận thức rõ vai trò của tài chính trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, BIDV đã tiên phong triển khai các gói tín dụng xanh với quy mô lớn, cơ chế ưu đãi linh hoạt nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh. Trong đó, nổi bật là gói tín dụng trung dài hạn ưu đãi quy mô 75.000 tỉ đồng, tập trung cho các lĩnh vực then chốt như năng lượng tái tạo, xây dựng và kinh doanh khu công nghiệp, khu chế xuất, và phát triển cơ sở hạ tầng logistic.

Ngoài ra, ngân hàng cũng phát triển thêm các gói tín dụng chuyên biệt theo ngành, như gói tín dụng công trình xanh với quy mô 10.000 tỉ đồng, Gói tín dụng nước sạch, với dư nợ tối đa 5.000 tỉ đồng, gói tín dụng xanh cho ngành dệt may 3.000 tỉ đồng và 50 triệu USD. Đặc biệt, BIDV là một trong những ngân hàng tiên phong phát triển khoản vay liên kết bền vững (SLL), gắn mức lãi suất với mức độ hoàn thành các Mục tiêu hiệu quả bền vững.

Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp vốn, BIDV còn đồng hành cùng doanh nghiệp thông qua các dịch vụ tư vấn chuyên sâu và cung cấp thông tin cập nhật về ESG, bao gồm hỗ trợ xây dựng chiến lược chuyển đổi xanh, lập kế hoạch cải thiện hiệu suất môi trường - xã hội, cập nhật chính sách, quy định và xu hướng thị trường tài chính xanh trong nước và quốc tế.

BIDV cũng đóng vai trò kết nối và phát triển hệ sinh thái đối tác ESG đa ngành, xây dựng mạng lưới hợp tác với các đơn vị tư vấn, kiểm toán, tổ chức cấp chứng chỉ ESG uy tín, các nhà cung cấp công nghệ xanh - giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực phù hợp và đạt được các tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, BIDV mở rộng hợp tác quốc tế với các tổ chức tài chính và phát triển đa phương như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) để tiếp nhận nguồn vốn ưu đãi và hỗ trợ kỹ thuật chuyên sâu.

Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh và bền vững, BIDV nhận thấy vai trò của các tổ chức tài chính là lực đẩy quan trọng kiến tạo hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi thành công. Trên tinh thần đó, ngân hàng đề xuất 02 nhóm giải pháp trọng tâm:

Thứ nhất, đối với cơ quan quản lý, cần hoàn thiện khung chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xanh. Đặc biệt, cần xây dựng các cơ chế ưu đãi mang tính đột phá về thuế, tín dụng và đầu tư đối với doanh nghiệp xanh, doanh nghiệp áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn.

Chính phủ cần sớm ban hành các gói tín dụng xanh lãi suất thấp dành cho các dự án bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, công nghệ sạch; đồng thời thành lập quỹ đầu tư xanh quốc gia với sự tham gia của cả khu vực công và tư nhân, có tiêu chí rõ ràng và quy trình minh bạch. Cùng với đó, cần đẩy mạnh ưu đãi nghiên cứu - phát triển (R&D) và ứng dụng công nghệ môi trường, hỗ trợ doanh nghiệp nội địa sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Thứ hai, kiến tạo hệ sinh thái tài chính xanh đồng bộ, hiệu quả. Sự phối hợp chặt chẽ giữa ngân hàng - doanh nghiệp -cơ quan quản lý nhà nước là điều kiện tiên quyết. Trên cơ sở đó, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh, tín dụng xanh, bảo hiểm xanh… với hệ thống tiêu chí thống nhất, dễ áp dụng và bám sát thông lệ quốc tế.

Các quy định rõ ràng và minh bạch sẽ là nền tảng để các TCTD như BIDV đánh giá, phân loại và cấp tín dụng xanh một cách chuyên nghiệp và hiệu quả hơn. Đồng thời, cần thúc đẩy phát triển thị trường thứ cấp cho các sản phẩm tài chính xanh, giúp tăng tính thanh khoản, hấp dẫn hơn với nhà đầu tư tổ chức.

Đối với doanh nghiệp cần chủ động đổi mới công nghệ, số hóa quy trình sản xuất và quản lý để tối ưu hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm phát thải và đáp ứng các yêu cầu về môi trường. Việc hợp tác với các tổ chức tài chính, đối tác công nghệ và tổ chức hỗ trợ chuyển đổi xanh, cùng với đào tạo nâng cao nhận thức cho đội ngũ nhân sự, sẽ giúp doanh nghiệp tăng cường năng lực nội tại và tạo nền tảng vững chắc trong hành trình hướng tới phát triển xanh và bền vững.

TS. Đặng Quang Hải, Sở Khoa học và Công nghệ TP Đà Nẵng phát biểu tại Diễn đàn
TS. Đặng Quang Hải, Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Đà Nẵng phát biểu tại Diễn đàn

TS. Đặng Quang Hải, Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Đà Nẵng: Để chuyển đổi xanh khu công nghiệp cần hội tụ của các yếu tố về tài chính, công nghệ, hợp tác và liên kết

Đà Nẵng hiện có 6 khu công nghiệp với tổng diện tích khoảng 1.100 ha, 1 khu công nghệ cao rộng 1.128 ha và 1 khu công nghệ thông tin tập trung diện tích 130 ha. Thành phố đang triển khai kế hoạch xây dựng và mở rộng 3 khu công nghiệp mới với tổng diện tích gần 700 ha, bao gồm: khu công nghiệp Hòa Ninh, khu công nghiệp Hòa Cầm giai đoạn 2 và khu công nghiệp Hòa Nhơn.

Đà Nẵng đang trên hành trình xây dựng mô hình tăng trưởng xanh tại các khu công nghiệp, thí điểm chuyển đổi thành khu công nghiệp sinh thái. Với mục tiêu đến năm 2030 sẽ có từ 2 - 3 khu công nghiệp sinh thái đạt chuẩn quốc gia, hiện nay nhiều doanh nghiệp trong các khu công nghiệp đã chủ động chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, cải tiến quy trình quản lý và vận hành, đổi mới công nghệ sản xuất nhằm giảm thiểu các nguồn gây ô nhiễm, đồng thời thực hiện cộng sinh công nghiệp...

Trong đó, khu công nghiệp Hòa Khánh là một trong những khu công nghiệp tại Việt Nam được lựa chọn để thí điểm triển khai dự án “Triển khai khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ Chương trình khu công nghiệp sinh thái toàn cầu” trong giai đoạn 2020 - 2024. Qua 4 năm thực hiện chuyển đổi theo mô hình khu công nghiệp sinh thái tại Hòa Khánh, việc ứng dụng RECP (Sản xuất sạch hơn và Hiệu quả tài nguyên) đã cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc cải thiện môi trường và gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, hiện nay theo Nghị định số 35/2022/NĐ-CP quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, cơ chế quản lý khu công nghiệp sinh thái vẫn tương tự như khu công nghiệp thông thường. Điều này khiến cho việc thúc đẩy và triển khai mô hình mới gặp nhiều khó khăn, bởi khu công nghiệp sinh thái đòi hỏi tiêu chuẩn cao hơn về chất lượng hạ tầng, dịch vụ cung cấp trong khu công nghiệp và đầu tư cho các tiềm năng liên kết.

Để chuyển đổi thành công sang mô hình khu công nghiệp sinh thái, các doanh nghiệp cần có năng lực quản trị và dự báo tốt, đồng thời phải có nguồn lực tài chính đủ mạnh để đầu tư vào thiết bị, công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý và xử lý chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất.

Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp trong khu công nghiệp hiện nay là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, với nguồn vốn hạn chế. Họ gặp khó khăn trong việc đầu tư phát triển theo hướng sinh thái, tăng trưởng xanh và xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Khả năng kết nối giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài cũng còn nhiều hạn chế. Hiện chưa có cơ chế tài chính ưu đãi riêng cho các dự án đầu tư theo mô hình khu công nghiệp sinh thái, điều này tạo nên một rào cản không nhỏ trong quá trình chuyển đổi. Thêm vào đó, tâm lý e ngại sự thay đổi và thiếu ý thức về liên kết, cộng sinh giữa các doanh nghiệp cũng là những rào cản vô hình chưa dễ tháo gỡ.

Đối với nhiều doanh nghiệp đã hoạt động lâu năm, máy móc và công nghệ hiện có đã lạc hậu, chủ yếu dựa vào công suất lớn, tiêu tốn nhiên liệu và năng lượng, phát sinh lượng chất thải lớn ra môi trường. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy có thể tận dụng các dịch vụ môi trường chung nhưng lại khó tiếp cận được công nghệ mới cần thiết để cải thiện hiệu quả môi trường.

Bởi vậy, để xây dựng mới hoặc chuyển đổi các khu công nghiệp truyền thống theo hướng công nghiệp xanh, khu công nghiệp sinh thái, cần có sự hội tụ của các yếu tố: tài chính, công nghệ, hợp tác và liên kết. Việc phát triển theo mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trong các khu công nghiệp là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo đảm phát triển bền vững không chỉ cho từng khu công nghiệp, từng địa phương mà còn cho cả nền kinh tế.

Thông qua các nghiên cứu và hỗ trợ thực hiện chuyển đổi xanh, xây dựng khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam và quốc tế, có thể rút ra nhiều giải pháp thiết thực cho việc triển khai mô hình này tại Thành phố Đà Nẵng.

Trước hết, cần cụ thể hóa khung quốc tế và ban hành khung quốc gia về khu công nghiệp sinh thái để các bên liên quan hiểu đúng về các yếu tố cấu thành khu công nghiệp sinh thái, từ đó có định hướng phát triển và chuyển đổi phù hợp. Đồng thời, cần tập trung xây dựng kế hoạch và triển khai nhanh việc chuyển đổi các khu công nghiệp hiện hữu theo hướng tiệm cận khu công nghiệp sinh thái. Việc này đòi hỏi phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu để đánh giá hiện trạng các khu công nghiệp trên địa bàn, từ đó xác định cơ hội chuyển đổi hiệu quả.

Đặc biệt, cần chuẩn bị và xây dựng các nguồn tài chính phù hợp để hỗ trợ quá trình chuyển đổi. Phát triển khu công nghiệp sinh thái đòi hỏi nguồn vốn lớn cho việc xây dựng hạ tầng xanh, đầu tư vào công nghệ sạch và các giải pháp bền vững. Do đó, việc chuẩn bị các chính sách và phương án tài chính phù hợp là vô cùng quan trọng. Cần nghiên cứu khai thác và kết hợp các cơ chế ưu đãi của Nhà nước dành cho doanh nghiệp xanh, doanh nghiệp trong khu công nghiệp sinh thái, tận dụng các chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững, chương trình cho vay ưu đãi lãi suất thấp đối với các dự án năng lượng tái tạo, quản lý chất thải, phát triển hạ tầng xanh...

Ngoài ra, các tổ chức quốc tế lớn như WB, ADB, IFC cũng có nhiều hoạt động hỗ trợ phát triển khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam. Đặc biệt, nguồn lực từ khối tư nhân - chính là các doanh nghiệp - đóng vai trò then chốt, bởi họ là những người thụ hưởng trực tiếp và sớm nhất những lợi ích mà khu công nghiệp sinh thái mang lại. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư đã sẵn sàng với nguồn lực tài chính mạnh để thực hiện các dự án phát triển khu công nghiệp sinh thái, đón đầu các giải pháp công nghiệp xanh và bền vững.

ThS Đặng Quốc Bảo – Phó TGD Tập đoàn Trung Nam phát biểu tại Diễn đàn
ThS. Đặng Quốc Bảo - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Trung Nam phát biểu tại Diễn đàn

ThS. Đặng Quốc Bảo - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Trung Nam: Xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ tín dụng xanh là cần thiết

Khi nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, yêu cầu về phát triển xanh và bền vững tại Việt Nam ngày càng trở nên cấp bách. Tổng số vốn đầu tư Việt Nam cần đầu tư khoảng 368 tỉ USD đến năm 2040 để đạt mục tiêu Net Zero, trong đó khu vực năng lượng và hạ tầng chiếm gần 70%. Như vậy chuyển đổi xanh đối với năng lượng tái tạo là trụ cột cốt lõi để Việt Nam tiến tới mục tiêu Net Zero.

Trung Nam Group là một tập đoàn đang phát triển nhiều dự án năng lượng tái tạo với 13 nhà máy, tổng công suất 1,6GW và doanh thu hơn 7.000 tỉ đồng/năm. Dù có tổng dư nợ hơn 26.000 tỉ đồng, không khoản vay nào của tập đoàn được hưởng ưu đãi từ chương trình tín dụng xanh, cho thấy sự hạn chế trong tiếp cận nguồn vốn ưu đãi dành cho các dự án xanh. Theo thông tin mới nhất giá điện của EVN sẽ có sự điều chỉnh tăng, vì vậy doanh nghiệp sản xuất và các khu công nghiệp sẽ phải đối mặt với áp lực vừa phải chuyển đổi xanh vừa phải lo về mặt kinh tế. Đây là khó khăn cực lớn để doanh nghiệp thực hiện dự án xanh.

Hiện nay, hơn 400 khu công nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam nhưng chỉ có khoảng 5 - 7% số này đạt tiêu chí xanh hoặc đang trong quá trình chuyển đổi bởi hiện chưa có khung tiêu chí rõ ràng. Bên cạnh những rào cản về cơ chế, việc triển khai các dự án xanh còn gặp khó khăn do nhận thức hạn chế của doanh nghiệp về lợi ích dài hạn của loại hình đầu tư này. Thực tế cho thấy khoảng 20% dự án bị từ chối cấp vốn do thiếu chứng nhận ESG hoặc không đáp ứng yêu cầu báo cáo đánh giá tác động môi trường. Hơn nữa, chi phí đầu tư ban đầu cao cùng thời gian hoàn vốn dài khiến nhiều doanh nghiệp e ngại, làm giảm động lực phát triển các dự án bền vững. Mặc dù Chính phủ đã có những nỗ lực thúc đẩy tín dụng xanh thông qua các chính sách đã được ban hành, song hệ thống pháp lý liên quan vẫn chưa được hoàn thiện. Cụ thể, các quy định về tiêu chí xác định dự án xanh, quy trình thẩm định và giám sát rủi ro môi trường còn thiếu, khiến hiệu quả triển khai các chính sách hỗ trợ bị hạn chế.

Việc thiếu khung tiêu chí thống nhất để xác định dự án xanh không chỉ khiến quy trình thẩm định tín dụng kéo dài, gây chậm tiến độ đầu tư mà còn làm gia tăng khó khăn trong triển khai các dự án bền vững. Mặc dù Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định về tiêu chí môi trường và xác nhận dự án tín dụng xanh, nhưng do chưa được ban hành chính thức, các tổ chức tín dụng vẫn thận trọng trong việc cấp vốn quy mô lớn và dài hạn cho các lĩnh vực mới như năng lượng tái tạo hoặc bất động sản công nghiệp xanh.

Để nâng cao hiệu quả tín dụng xanh, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp quan trọng. Trước hết, việc hoàn thiện khung pháp lý là yếu tố then chốt, bao gồm ban hành bộ tiêu chí và danh mục dự án xanh thống nhất, giúp các tổ chức tín dụng thuận lợi trong thẩm định. Đồng thời, cần có hướng dẫn chi tiết về báo cáo tác động môi trường và tiêu chuẩn ESG để doanh nghiệp tuân thủ. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần đa dạng hóa sản phẩm tài chính xanh, thiết kế gói tín dụng phù hợp với từng lĩnh vực như năng lượng tái tạo, giao thông xanh, nông nghiệp hữu cơ…

Doanh nghiệp kỳ vọng NHNN và các ngân hàng thương mại sẽ có những chính sách đồng bộ, như ưu đãi tín dụng hoặc chia sẻ rủi ro, để thúc đẩy chuyển đổi xanh. Điều này không chỉ đảm bảo tính bền vững mà còn gia tăng niềm tin cho các nhà đầu tư tiếp tục rót vốn vào dự án xanh tại Việt Nam. Thêm vào đó, công tác đào tạo cũng đóng vai trò quan trọng khi cần nâng cao năng lực cho cán bộ tín dụng trong đánh giá rủi ro môi trường - xã hội, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ vay vốn xanh. Ngoài ra, hợp tác quốc tế cần được đẩy mạnh để thu hút nguồn vốn từ các tổ chức tài chính toàn cầu, cũng như khuyến khích doanh nghiệp Việt kết nối với các quỹ đầu tư xanh quốc tế.

Việc xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ tín dụng xanh là cần thiết, kết nối doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức chứng nhận ESG và cơ quan quản lý thành mạng lưới liên kết chặt chẽ. Những giải pháp này không chỉ thúc đẩy tín dụng xanh mà còn góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.

Nhóm Phóng viên

Tin bài khác

Gợi mở hướng đi cho ngân hàng Việt vươn ra thế giới trong kỷ nguyên số

Gợi mở hướng đi cho ngân hàng Việt vươn ra thế giới trong kỷ nguyên số

Ngày 05/5/2025, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà, Thời báo Ngân hàng đã tổ chức Diễn đàn “Đưa thương hiệu Việt Nam ra thế giới và gợi ý với hệ thống ngân hàng”, với sự tham dự của 150 đại biểu là đại diện lãnh đạo các vụ, cục thuộc NHNN; các bộ, ngành liên quan; các chuyên gia, tổ chức tài chính uy tín trong nước và quốc tế… Tại Diễn đàn, các chuyên gia đều nhấn mạnh, thương hiệu là giá trị vô cùng quan trọng của doanh nghiệp và cơ sở để xây dựng thương hiệu chính là niềm tin của người dùng.
Thủ tướng: Năm 2025, dự kiến quy mô kinh tế Việt Nam trên 500 tỷ USD

Thủ tướng: Năm 2025, dự kiến quy mô kinh tế Việt Nam trên 500 tỷ USD

Trình bày Báo cáo của Chính phủ tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, với mục tiêu năm 2025 tăng trưởng GDP từ 8% trở lên, quy mô nền kinh tế đạt trên 500 tỷ USD (dự kiến đứng thứ 30 trên thế giới, tăng 2 bậc), GDP bình quân đầu người đạt trên 5.000 USD.
Thư chúc mừng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhân dịp kỷ niệm 74 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam

Thư chúc mừng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhân dịp kỷ niệm 74 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam

Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu Thư chúc mừng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhân dịp kỷ niệm 74 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam (6/5/1951 - 6/5/2025).
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Sáng 30/4, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025). Trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của đồng chí Tô Lâm.
Thực thi ESG: Chiến lược phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới

Thực thi ESG: Chiến lược phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới

Chiều 23/4/2025, Báo Dân trí tổ chức Diễn đàn ESG Việt Nam lần thứ nhất với chủ đề “Chiến lược phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới”. Diễn đàn đã khẳng định, ESG không chỉ là xu hướng, mà đang trở thành kim chỉ nam cho Việt Nam phát triển bền vững, tạo lợi thế cạnh tranh và hội nhập toàn cầu trong thời đại chuyển đổi xanh và số hóa nền kinh tế.
Chung tay mở ra kỷ nguyên phát triển mới của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc

Chung tay mở ra kỷ nguyên phát triển mới của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc

Trân trọng giới thiệu bài viết "CHUNG TAY MỞ RA KỶ NGUYÊN PHÁT TRIỂN MỚI CỦA QUAN HỆ HỮU NGHỊ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC" của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị Trung ương 11: Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử

Hội nghị Trung ương 11: Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử

Sau ba ngày làm việc khẩn trương với tinh thần trách nhiệm cao, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra và bế mạc chiều 12/4.
Môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, minh bạch: Sức hút để

Môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, minh bạch: Sức hút để 'tăng tốc' dòng vốn FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là dòng vốn đặc biệt quan trọng cho tăng trưởng, hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) mạnh mẽ hơn nữa thì xây dựng và bảo đảm một môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch, thuận lợi sẽ là điểm mạnh để các nhà đầu FDI hướng đến Việt Nam.
Xem thêm
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc