Cho vay ngang hàng - kinh nghiệm thế giới và hàm ý cho Việt Nam

Hoạt động ngân hàng
Cho vay ngang hàng (Peer - to Peer Lending) là một kênh tín dụng phát triển nhờ vào sự tiến bộ của công nghệ (Fintech) đã có sự mở rộng với tốc độ nhanh chóng ở nhiều nước phát triển và đang phát tri...
aa

Cho vay ngang hàng (Peer - to Peer Lending) là một kênh tín dụng phát triển nhờ vào sự tiến bộ của công nghệ (Fintech) đã có sự mở rộng với tốc độ nhanh chóng ở nhiều nước phát triển và đang phát triển trong vòng hơn một thập kỷ gần đây. Được dự đoán là một trong những nhân tố nổi bật thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nói chung và thị trường tín dụng ngân hàng nói riêng, cho vay ngang hàng đang gây nên sự chú ý đặc biệt của các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu và các đối tác tham gia thị trường.

Theo nghiên cứu của Transparency Market Research, thị trường cho vay ngang hàng sẽ đạt quy mô gần 1000 tỷ USD vào năm 2024 với tốc độ tăng trưởng bình quân 48,2%/năm. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của thị trường cho vay ngang hàng ở nhiều nước đang nằm trong khoảng hở của thể chế luật pháp và tiềm ẩn nhiều rủi ro cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Bài viết này nhằm mục đích làm rõ cơ chế hoạt động, lợi ích và rủi ro tiềm ẩn của hoạt động cho vay ngang hàng. Bài viết cũng cung cấp một số kinh nghiệm trong việc thiết lập hành lang pháp lý đảm bảo sự hoạt động hiệu quả và an toàn của hình thức cho vay ngang hàng ở một số nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển.


1. Cho vay ngang hàng - một hình thức huy động và tài trợ vốn cộng đồng có nhiều điểm khác biệt với mô hình tài trợ truyền thống

Cho vay ngang hàng còn có những tên gọi khác như cho vay giữa cá nhân (Person - to - Person) hay P2P, hoặc cho vay tại chỗ (Marketplace Lending) là một hình thức tài trợ vốn cộng đồng (Crowdfunding) xuất hiện đầu tiên ở Anh vào năm 2005. Đây là hình thức huy động và tài trợ vốn phi truyền thống dựa vào việc ứng dụng công nghệ để kết nối trực tiếp giữa người cho vay và người đi vay thông qua nền tảng Internet. Khác với hình thức huy động và tài trợ vốn truyền thống, nhà cung cấp dịch vụ (Platform) chỉ là người cung cấp giải pháp phần mềm để người cho vay (nhà đầu tư) và người đi vay kết nối và trực tiếp thỏa thuận về quy mô, lãi suất, thời hạn và các điều kiện khác liên quan đến khoản vay. Nhà cung cấp dịch vụ chỉ đóng vai trò trung gian kết nối và hưởng phí giao dịch từ người đi vay và người cho vay. Bên cạnh đó, nhà cung cấp dịch vụ đóng vai trò như một nhà tư vấn tài chính: đánh giá mức độ tín nhiệm của người vay, cung cấp thông tin giải ngân, đôn đốc thu hồi nợ và đóng vai trò như một đơn vị ủy quyền của người cho vay đứng ra thu nợ. Cho vay ngang hàng ban đầu chỉ tập trung vào thị trường thế chấp và tái tài trợ thẻ tín dụng. Tuy nhiên, đối tượng cho vay ngang hàng ngày càng mở rộng, đặc biệt với hình thức cho vay mua sắm tiêu dùng đối với cá nhân, cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ… là những đối tượng khó tiếp cận được với dịch vụ ngân hàng truyền thống. Một quy trình cho vay ngang hàng điển hình sẽ được thực hiện như sau:

(1) Người vay đưa ra đề xuất nhu cầu vay vốn: quy mô, thời hạn, lãi suất…

(2) Nhà cung cấp (platform) cân nhắc, đánh giá cho điểm tín dụng dựa trên những thông tin do người vay cung cấp và các nguồn thông tin tích hợp có sẵn và xác định mức lãi suất tương ứng với mức độ rủi ro của khoản vay và đăng tải lên trang web của nhà cung cấp.

(3) Người cho vay (nhà đầu tư) tìm kiếm các cơ hội đầu tư trên cơ sở các đơn hàng trên trang web để lựa chọn theo lãi suất và mức độ rủi ro đáp ứng yêu cầu của mình.

(4) Nếu có đủ các nhà đầu tư đồng ý tài trợ cho khoản vay (thông thường một khoản vay được chia thành nhiều món nhỏ để nhiều nhà đầu tư cùng tham gia cho vay và mỗi nhà đầu tư có điều kiện đa dạng hóa danh mục), sẽ có một ngân hàng đối tác (originating bank) thẩm định và đứng ra thu xếp.

(5) Ngân hàng đối tác bán một loại chứng chỉ (notes) cho nhà cung cấp dịch vụ liên quan đến khoản vay. Cùng lúc đó, nhà cung cấp dịch vụ bán chứng chỉ này cho nhà đầu tư đồng ý tài trợ cho khoản vay đã được xác định (nhà cung cấp dịch vụ đóng vai trò tương tự như một tổ chức bảo lãnh phát hành chứng chỉ cho ngân hàng).

(6) Tiền vay sau đó được chuyển vào tài khoản của người vay tại ngân hàng đối tác.

(7) Nhà cung cấp dịch vụ nhận phí dịch vụ (thông thường tính bằng % của khoản vay) từ người đi vay và người cho vay.

(8) Khi khoản vay đáo hạn, người đi vay hoàn trả và nhà đầu tư (người cho vay) nhận lại gốc và lãi trên cơ sở chứng chỉ mà họ nắm giữ.

Có thể khái lược mô hình hoạt động của cho vay ngang hàng qua sơ đồ sau: (Sơ đồ)


Lưu ý rằng, nhà cung cấp dịch vụ (Platform) không phải là tổ chức nhận tiền gửi của khách, cũng không phải là người cho vay. Họ chỉ là trung gian kết nối giữa người đi vay và cho vay nên họ không nhất thiết phải có tài sản đảm bảo bù đắp rủi ro. Họ cũng không phải đối mặt với rủi ro thanh khoản. Tiền vay không được phản ánh trên sổ sách của nhà cung cấp dịch vụ nên cũng không phải trích lập dự phòng rủi ro hoặc thực hiện dự trữ bắt buộc như của các tổ chức tín dụng thông thường.

Cho vay ngang hàng có thể thực hiện theo mô hình chủ động hoặc thụ động. Đối với mô hình chủ động, nhà đầu tư được trực tiếp lựa chọn khoản vay thông qua việc tiếp cận các thông tin liên quan đến mức độ tín nhiệm của người vay như thu nhập hàng năm, mức độ sở hữu tài sản, mục đích sử dụng tiền vay… Những thông tin này được đính kèm với món vay (không nhất thiết phải gắn đích danh với chủ khoản vay). Ngược lại, ở mô hình thụ động, nhà đầu tư chỉ việc đưa một số tiêu chí cho nhà cung cấp dịch vụ như mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, thời hạn của khoản vay, mức lãi suất tối thiểu… và nhà cung cấp dịch vụ sẽ tự động gán với các món vay đáp ứng các tiêu chí đặt ra. Nhà đầu tư chỉ quan tâm đến một số yêu cầu chung mà không nhất thiết phải tìm hiểu rõ đặc điểm cụ thể của người vay. Cơ chế khớp nối lãi suất giữa người cho vay và người đi vay sẽ được thực hiện trên cơ sở các thuật toán phù hợp tương tự như việc khớp lệnh chứng khoán. Đến hết thời hạn, nếu không có đủ các nhà đầu tư tài trợ cho một khoản vay cụ thể, khoản vay đó sẽ được hủy và người cho vay có thể lựa chọn các món vay khác phù hợp hơn.

Như vậy, có thể thấy rằng, cho vay ngang hàng là hình thức cho vay hoàn toàn khác biệt so với hình thức cho vay truyền thống. Cho vay ngang hàng có nhiều lợi thế hơn so với cho vay truyền thống nhưng cũng hàm chứa nhiều rủi ro đối với nhà đầu tư. Những lợi thế của cho vay ngang hàng có thể kể ra gồm:

(1) Thủ tục nhanh chóng và đơn giản, phù hợp với các tổ chức cá nhân có quy mô nhỏ, thu nhập thấp, chỉ cần món vay nhỏ hoặc thời hạn ngắn.

(2) Chi phí thấp hơn đối với người đi vay và thu nhập cao hơn đối với người cho vay. Có được điều này là vì dịch vụ được cung cấp trên nền tảng Fintech nên không mất chi phí xây dựng mạng lưới phân phối và tác nghiệp như các kênh truyền thống. Việc chấm điểm tín nhiệm của khách hàng được thực hiện một cách tự động dựa vào phân tích dữ liệu lớn (Big Data) và hệ thống dữ liệu được thu thập, kết nối tự động từ nhiều nguồn khác nhau như: dữ liệu dân cư, lịch sử mua sắm, lịch sử kinh doanh, lịch sử nộp thuế, tình trạng hôn nhân, quan hệ thân nhân, thu nhập thường xuyên… Nhà cung cấp dịch vụ chỉ thu phí dịch vụ ở mức độ phải chăng để có thể bù đắp được các chi phí giao dịch phát sinh nên chênh lệch cuối cùng giữa lãi suất đi vay và cho vay ở mức kinh tế hơn so với kênh truyền thống.

(3) Mức độ minh bạch thông tin cao, người cho vay được trực tiếp tham chiếu các thông tin liên quan đến người cho vay kể cả trước khi cho vay và giám sát mục đích sử dụng tiền vay. Mặt khác, mức độ bảo mật thông tin cũng tốt hơn do thông tin cả hai phía đều được mã hóa bằng công nghệ Block Chain. Nhà cung cấp dịch vụ chịu trách nhiệm bảo mật thông tin cho cả người đi vay và cho vay.

(4) Cơ hội đa dạng hóa và quản lý rủi ro tốt hơn cho nhà đầu tư vì một nhà đầu tư có thể cho vay nhiều món với các khẩu vị rủi ro và thời hạn khác nhau. Kỳ hạn cho vay và đi vay được khớp với nhau một cách tuyệt đối nên không có rủi ro về khe hở kỳ hạn.

(5) Nhà đầu tư được cung cấp dịch vụ tư vấn đa dạng và trong nhiều trường hợp, nhà cung cấp dịch vụ hoạt động như một đơn vị ủy quyền thu nợ cho nhà đầu tư.


Tuy nhiên, là một kênh thu xếp tín dụng mới được phát minh trong thời gian chưa lâu, hình thức cho vay ngang hàng cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro. Những rủi ro chính có thể xảy ra là:

(1) Rủi ro pháp lý: Ở khá nhiều nước (đặc biệt các nền kinh tế mới nổi), cho vay ngang hàng vẫn nằm trong khoảng hở pháp lý chưa được lấp đầy. Một số nước chưa công nhận tính pháp lý của cho vay ngang hàng cũng như một vài hình thức huy động và tài trợ vốn cộng đồng khác (chẳng hạn tiền ảo). Do vậy, nhà cung cấp dịch vụ có thể đối mặt với rủi ro bị cấm hoạt động hoặc hạn chế hoạt động. Trong trường hợp đó, quyền lợi của nhà đầu tư có thể bị ảnh hưởng mà chưa có cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên tham gia thị trường.

(2) Rủi ro mất vốn hoặc chậm trả do khoản cho vay của nhà đầu tư không được bảo hiểm tiền gửi như ngân hàng truyền thống. Nhà đầu tư có thể mất vốn hoàn toàn hoặc một phần nếu người đi vay rơi vào tình trạng không thể hoàn trả được tiền vay vì những lý do khách quan và chủ quan khác nhau. Nhà cung cấp dịch vụ không có trách nhiệm phải đảm bảo hoàn trả tiền vay cho nhà đầu tư. Trên thực tế, một số nhà cung cấp dịch vụ có tạo lập một quỹ đề phòng bất trắc để trợ giúp nhà đầu tư, song, không có gì đảm bảo rằng nhà đầu tư sẽ được hoàn trả toàn bộ khi đổ vỡ xảy ra. Quỹ này nhằm làm tăng độ tin cậy của nhà đầu tư vào nhà cung cấp dịch vụ hơn là mục tiêu bù đắp thiệt hại.

(3) Rủi ro thanh khoản: Nhà đầu tư cho vay chỉ có thể được hoàn trả khi khoản vay đến hạn chứ không thể hủy ngang hợp đồng. Thị trường thứ cấp về các khoản vay ngang hàng hiện chưa phát triển nên việc chiết khấu hoặc bán lại khoản đầu tư không dễ dàng như các công cụ đầu tư truyền thống.

(4) Rủi ro vận hành: Cho vay ngang hàng dựa trên nền tảng phát triển công nghệ nên rủi ro vận hành có thể xảy ra khi phần mềm bị lỗi hoặc ngưng hoạt động (hoặc đơn giản là nhà cung cấp dịch vụ rút khỏi thị trường). Khi đó các dữ liệu của khách hàng và điều kiện để dịch vụ được cung cấp liên tục sẽ bị ảnh hưởng. Nếu thị trường hoạt động ngoài khuôn khổ pháp lý thì nguy cơ mất trắng của nhà đầu tư hoàn toàn có thể xảy ra.

(5) Rủi ro đạo đức: Nhà cung cấp dịch vụ có thể mập mờ trong vai trò trung gian, hoạt động như một tổ chức huy động vốn cộng đồng rồi cho vay; thông đồng với người vay lập hồ sơ giả; mời gọi khách hàng bằng những thông tin thổi phồng; sử dụng tiền của nhà đầu tư cho các mục đích khác không đúng với mục đích vay ban đầu; khớp nối kỳ hạn của khoản vay không đúng nguyên tắc; ngầm bắt tay với các kênh tín dụng chính thức để đầu tư mạo hiểm vào thị trường cho vay ngang hàng ăn chênh lệch… Tất cả những khả năng này đều có thể xảy ra, đặc biệt trong điều kiện hành lang pháp lý chưa rõ ràng và hiểu biết của người cho vay còn hạn chế.

2. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý cho vay ngang hàng

Cho vay ngang hàng đã tăng trưởng với tốc độ chóng mặt trong những năm gần đây ở một số nước trên thế giới. Tại Mỹ, tốc độ tăng trưởng bình quân từ 2011 - 2015 đạt 163%/năm, châu Âu: 87,3% và Anh: 109,4%. Tại Trung Quốc, chỉ tính từ năm 2014 đến 2017, dư nợ cho vay ngang hàng đã tăng 29 lần, lên trên 1000 tỷ USD. Tính chung toàn cầu, từ 2014 đến 2017, tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường cho vay ngang hàng đạt xấp xỉ 120%. Cho vay ngang hàng hiện giờ chỉ chưa đến 1% so với thị trường cho vay truyền thống, song với tốc độ tăng trưởng 3 chữ số, không lâu nữa, cho vay ngang hàng sẽ đạt quy mô ấn tượng [1]. Mặc dù vậy, có một thực tế đáng chú ý là hiện nay, việc quản lý và ứng xử của chính phủ đối với hoạt động cho vay ngang hàng ở các quốc gia có sự khác biệt đáng kể. Một số nước coi tổ chức cung cấp dịch vụ này là một dạng khác của hoạt động kinh doanh ngân hàng, một số coi là tổ chức trung gian, một số thì không thừa nhận đó là hoạt động hợp pháp (tín dụng đen)... Có thể chia thành 4 nhóm cơ bản như sau:

(i) Bỏ ngỏ, chưa có quy định quản lý do chưa có định nghĩa rõ ràng về hình thức cho vay ngang hàng, thị trường phát triển một cách tự phát: Thuộc nhóm này gồm các nước như Trung Quốc [2], Ecuador, Ai Cập, Hàn Quốc, Tunisia. Đối với các nước này, hiện chỉ có một số các quy định quản lý trong một số văn bản pháp luật đã có nhằm bảo vệ người đi vay (luật dân sự, luật các tổ chức tín dụng…) như khống chế mức lãi suất vay (cấm cho vay nặng lãi), cấm việc quảng cáo, mời chào sai sự thật…

(ii) Ban hành quy định quản lý các Platform như một tổ chức trung gian cung cấp giải pháp công nghệ. Thuộc nhóm này gồm các nước Anh, Úc, Canada, New Zealand, Argentina. Luật pháp có các quy định về điều kiện tham gia thị trường, các quy định về vận hành, điều kiện cung cấp dịch vụ tín dụng và tư vấn tài chính. Một số nước có quy định cụ thể hơn về các điều kiện dự phòng kỹ thuật để đảm bảo sự hoạt động liên tục và lưu trữ dữ liệu khách hàng…

(iii) Coi là hoạt động ngân hàng và chịu các điều kiện quản lý như hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung gồm các nước: Pháp, Đức, Italy. Các nước này quan niệm đơn vị cung cấp Platform là đơn vị kinh doanh ngân hàng sử dụng công nghệ cao bởi cũng có hoạt động thẩm định, chấm điểm tín dụng khách hàng và cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính… Do vậy, muốn được hoạt động phải được sự cấp phép của cơ quan quản lý và phải tuân thủ các điều kiện về vốn tối thiểu, dự trữ bắt buộc, dự phòng rủi ro… như các tổ chức kinh doanh ngân hàng khác.

(iv) Cấm hoạt động. Thuộc nhóm này hiện nay có Nhật Bản, Israel
Sự phân nhóm nói trên chỉ mang tính chất tương đối. Trên thực tế, có một số nước thiết lập thể chế quản lý điều tiết hoạt động cho vay ngang hàng nằm ở giữa những cách đối xử đã nêu. Nghiên cứu sâu hơn về thị trường ở một số quốc gia nổi bật trong hoạt động cho vay ngang hàng cho thấy những kinh nghiệm bổ ích.


Anh

Ra đời sớm nhất trên thế giới, ZOPA là công ty cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng đầu tiên đăng ký thành lập vào năm 2005. Ban đầu, ZOPA chỉ cung cấp Platform theo đúng nghĩa là trung gian kết nối giữa người cho vay và người vay (chủ yếu là cá nhân). Tuy nhiên, càng về sau, có thêm nhiều nhà cung cấp khác như Funding Circle, Rateseter… tham gia thị trường. Một số Platform đã phát triển thành tổ chức kiêm luôn cả việc cho vay và mở rộng đối tượng tham gia cả đối với các tổ chức (doanh nghiệp nhỏ). Theo báo cáo của Deloitte, tốc độ phát triển cho vay tiêu dùng bình quân từ 2010 - 2015 đạt 81,2%/năm, trong khi tốc độ tăng trưởng cho vay doanh nghiệp đạt 171,6% (xem hình 1).



Do hoạt động cho vay ngang hàng ngày càng mở rộng cả về quy mô, đối tượng tham gia và tính chất nên tháng 1/2014, cơ quan Quản lý Tài chính của Anh (Financial Conduct Authority (FCA)) đã ban hành quy định nhằm tăng cường mức độ an toàn của thị trường bằng cách yêu cầu bắt buộc các nhà cung cấp dịch vụ phải có các biện pháp đảm bảo quyền lợi của người đầu tư và người đi vay trong trường hợp Platform có vấn đề vận hành, minh bạch trong thông tin... Đặc biệt, nhà cung cấp dịch vụ được khuyến khích thành lập quỹ dự trữ để bù đắp tổn thất cho nhà đầu tư khi người vay không trả được nợ hoặc chậm trả. Nhà cung cấp dịch vụ cũng được khuyến khích tham gia vào các chính sách bảo hiểm nhẳm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Lending Works là một trong số các công ty đã thực hiện các chính sách này nhằm gia tăng độ tín nhiệm với khách hàng. Tuy nhiên, về cơ bản, Anh vẫn coi các nhà cung cấp dịch vụ P2P là tổ chức trung gian.

Mỹ

Prosper là Platform đầu tiên cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng ở Mỹ ra đời chỉ sau ZOPA ở Anh 1 năm (2006). Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường này ở Mỹ lại đạt tốc độ nhanh hơn nhiều ở Anh. Trong năm 2014, tổng lượng cho vay ở thị trường ngang hàng toàn cầu đạt 23,7 tỷ USD thì thị phần tại Mỹ chiếm 51% (ở Anh khoảng 10% và Trung Quốc 38%). Khối lượng cho vay đã tăng hơn gấp đôi vào năm 2015 và tính bình quân tỷ lệ tăng trưởng trong giai đoạn 2011 - 2015 đạt 163,3%.
(Hình 2)


Mô hình hoạt động của P2P tại Mỹ có thể nói là khá khác biệt so với các thị trường khác trên thế giới. Nhà cung cấp Platform chịu sự điều tiết của 2 cấp quản lý.

Ở cấp liên bang, chứng chỉ đầu tư của người cho vay được coi là một loại chứng khoán nên phải chấp hành theo tiêu chuẩn của Ủy ban Chứng khoán (SEC). Các khoản đầu tư dưới dạng cho vay phải được đăng ký theo từng khoản vay dưới sự dàn xếp của nhà cung cấp Platform. Các tổ chức cung cấp dịch vụ Platform được coi là các công ty đại chúng nên phải thực hiện chế độ báo cáo và công khai thông tin chi tiết liên quan đến các khoản đầu tư và vay mượn theo định kỳ hàng tháng. Cả ngân hàng đối tác (chịu trách nhiệm thẩm định và phát hành chứng chỉ đầu tư) và tổ chức cung cấp Platform phải tuân thủ theo các luật về kinh doanh ngân hàng, luật chuyển tiền điện tử, luật bảo mật thông tin, luật tài trợ vốn cộng đồng…

Ở cấp bang, hiện có những ứng xử khác nhau về cho vay ngang hàng. Một số bang cấm hoạt động, một số bang cho hoạt động hạn chế (yêu cầu cao đối với người cho vay và đi vay), một số bang cho hoạt động với điều kiện tuân thủ các điều kiện quy định của liên bang hoặc một số điều kiện khác. Nếu một đơn vị cung cấp dịch vụ Platform hoạt động ở nhiều bang thì phải tuân thủ các điều kiện chung của liên bang và các điều kiện cụ thể của từng bang.

Một đặc điểm đáng chú ý là tại Mỹ, sự hợp tác giữa các ngân hàng truyền thống và các Platform cho vay ngang hàng này càng phổ biến. Thông qua liên kết, các ngân hàng có điều kiện mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng và cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa với mức lãi suất cao hơn trong khi rủi ro được chuyển vào tay các nhà đầu tư cho vay. Theo đánh giá của Deloitte, mô hình này sẽ nở rộ trong tương lai tại thị trường Mỹ.

Do thị trường P2P ở Mỹ phát triển với tốc độ nhanh, có sự liên kết chéo giữa nhà cung cấp dịch vụ P2P và ngân hàng cho vay nên việc dự thảo các quy định quản lý trải qua những giai đoạn phức tạp. Cuối năm 2015, SEC quyết định áp dụng các quy tắc quản lý với hoạt động huy động và tài trợ vốn cộng đồng (Crowdfundings) cho hoạt động cho vay ngang hàng. Những nội dung chính là: (i) đặt giới hạn huy động vốn tối đa trong 1 năm; (ii) quy định trần tối đa mức đầu tư (được xác định theo tỷ lệ % của thu nhập hoặc tài sản hàng năm của người đầu tư và không vượt quá một mức giới hạn cứng); (iii) quy định bắt buộc việc phát hành chứng chỉ vay nợ phải thông qua một tổ chức trung gian (platform), đảm bảo công chúng có thể tiếp cận thông qua cổng Internet hoặc các phương tiện điện tử và tự do trao đổi thông tin về khoản vay; (iv) quy định điều kiện để một Platform có thể phát hành chứng chỉ vay nợ đối với các nhà đầu tư; và (v) quy định về việc minh bạch thông tin.

Như vậy, có thể nói khung pháp lý cho hoạt động cho vay ngang hàng ở Mỹ khá phức tạp và chủ yếu dựa vào những nội dung sẵn có của khung pháp lý đối với hoạt động ngân hàng và hoạt động tài trợ vốn cộng đồng.

Trung Quốc

Công ty thực hiện dịch vụ P2P đầu tiên ở Trung quốc (Paipaidai) được thành lập năm 2007 (chỉ sau ZOPA 2 năm). Là một trong những quốc gia có quy mô và tốc độ phát triển cho vay ngang hàng lớn nhất thế giới, số lượng các nhà cung cấp Platform tăng lên nhanh chóng - khoảng gần 3500 vào năm 2015 và ở thời điểm hiện tại khoảng gần 2000 - tập trung ở các thành phố lớn như Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Đông… Dư nợ cho vay tăng vọt trong khoảng thời gian 3 năm trở lại đây (Hình 3).

Do sự nở rộ của hình thức cho vay ngang hàng nên thị trường có tính cạnh tranh cao. Lãi suất cho vay liên lục giảm mạnh từ chỗ bình quân khoảng 25%/năm (2014) xuống còn khoảng trung bình 12,5%/năm (2017). Do phát triển quá nóng trong điều kiện chưa có khung pháp lý rõ ràng và chặt chẽ nên thời gian gần đây, thị trường cho vay ngang hàng ở Trung Quốc xảy ra việc đổ vỡ hàng loạt. Tỷ lệ đổ vỡ tín dụng trong một số công ty cung cấp dịch vụ Platform có thể lên đến 35%. Nhiều Platform đã bị cấm hoạt động, hoặc vướng vòng lao lý. Năm 2016, chính phủ Trung Quốc có nhiều động thái thắt chặt hoạt động cho vay ngang hàng bằng cách đưa ra những điều kiện đăng ký và hoạt động ngặt nghèo và đặt mục tiêu giảm số công ty cung cấp dịch vụ xuống còn khoảng 200 (tức bằng khoảng 1/10) hiện nay. Tuy nhiên, vốn dĩ nền kinh tế ngầm Trung Quốc là rất lớn nên hoạt động cho vay ngang hàng được dự đoán vẫn tiếp tục nóng và biến tướng dưới dạng tín dụng đen, đặc biệt ở những vùng dân cư ít có điều kiện tiếp cận với dịch vụ ngân hàng truyền thống.

3. Một số hàm ý cho Việt Nam

Hình thức cho vay ngang hàng chưa phát triển ở Việt Nam theo đúng nghĩa của nó. Mới chỉ có một số ít các công ty thực hiện cho vay trực tuyến đăng ký dưới dạng công ty cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính như Finsom, Lenbiz, Tima, SHA, Mobivi… (vì Việt Nam chưa cấp phép cho hoạt động dịch vụ cho vay ngang hàng. Trong số này, đáng chú ý là Tima là một Platform có nguồn gốc từ nước ngoài đã thực hiện cho vay ngang hàng bằng cách kết nối trực tiếp giữa người cho vay và người đi vay (chủ yếu khách hàng cá nhân). Hiện đã có hàng nghìn khách hàng cho vay và đi vay thực hiện giao dịch qua Tima với dư nợ hàng nghìn tỷ đồng, chủ yếu hoạt động tại thị trường TPHCM. Trong khi đó, Lendbiz hoạt động tại thị trường Hà Nội liên kết với Platform Tima nhằm vào phân khúc cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, với quy mô khoản vay có thể lên đến 1 tỷ VNĐ không cần thế chấp. Nhà đầu tư (cho vay) có thể tham gia từ mức thấp nhất 500.000 VNĐ và hứa hẹn lãi suất khoảng 20%/năm. Ngoại trừ một số công ty có nguyên lý hoạt động cho vay ngang hàng khá rõ nét như trên, nhiều công ty hoạt động nhỏ lẻ dưới dạng cho vay trực tuyến, thủ tục gọn nhẹ, lãi suất cao, song, không rõ theo mô hình cho vay dân sự (tự huy động vốn dưới nhiều hình thức và cho vay không cần thế chấp) hay cho vay ngang hàng. Đối tượng tham gia cũng như mục đích cho vay hết sức đa dạng với mức lãi suất dao động từ 20 - 30%.

Tuy chưa phát triển, song, thị trường cho vay ngang hàng ở Việt Nam được dự đoán là thị trường tiềm năng vì nhiều lý do. Lý do hàng đầu phải kể đến là vì mức điều kiện để tiếp cận dịch vụ tài chính từ thị trường truyền thống ở Việt Nam ở hàng thấp nhất thế giới. Theo điều tra của Worldbank thì có đến trên 70% dân số không có tài khoản chính thức tại ngân hàng. Thứ đến là thói quen sử dụng tiền mặt và vay mượn các khoản nhỏ cho tiêu dùng ở Việt Nam khá phổ biến, thủ tục đơn giản (đôi khi chỉ cam kết miệng) là cơ hội để hình thức cho vay ngang hàng phát triển. Ngoài ra, chi phí bôi trơn để tiếp cận dịch vụ truyền thống cũng là một rào cản để người vay tìm đến các kênh dịch vụ dễ tiếp cận hơn…

Mặc dù vậy, cho đến nay, chưa có một quy định cụ thể nào từ phía nhà nước liên quan đến việc tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này diễn ra đúng luật, đúng bản chất và an toàn cho cả nhà đầu tư và nhà sử dụng vốn. Thực tế này là sự tiềm ẩn rủi ro của thị trường. Hình thức cho vay ngang hàng rất có nguy cơ biến tướng thành tín dụng đen, lừa đảo, đổ vỡ dây chuyền như các hiện tượng đầu tư tiền ảo, đầu tư đa cấp… đánh vào lòng tham của nhà đầu tư như thời gian vừa qua. Tuy chưa thể ảnh hưởng lớn đến kênh tín dụng chính thức nhưng theo đánh giá của các chuyên gia trên thế giới và thực tiễn ở các nước thì cho vay ngang hàng là hiện tượng tất yếu nhờ tận dụng ưu thế của công nghệ trong lĩnh vực dịch vụ tài chính (tương tự như dịch vụ Uber, Grab trong dịch vụ vận chuyển). Vì vậy, Việt Nam cần sẵn sàng đón nhận và định hướng cho sự phát triển an toàn chứ không nên né tránh, không thừa nhận hoặc cấm đoán. Bài viết xin đề xuất một số khuyến nghị sau:

(1) Thừa nhận và cho phép sự hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ Platform như một tổ chức trung gian kết nối giữa người cho vay và người đi vay trên cơ sở có đăng ký kinh doanh theo các điều kiện quy định của pháp luật. Các quy định chi tiết gồm tiêu chuẩn kỹ thuật phần mềm trực tuyến; yêu cầu duy trì sự hoạt động liên tục của Platform; trách nhiệm định hạng tín dụng của người vay; trách nhiệm cung cấp thông tin cho nhà đầu tư; những hạn chế trong việc quảng cáo, mời chào và đặc biệt không đưa ra mức cam kết về mức lãi suất đầu tư hấp dẫn, trách nhiệm dẫn vốn đến nơi sử dụng theo đúng hợp đồng giữa người cho vay và người đi vay…

(2) Quy định các nội dung đảm bảo sự an toàn của thị trường như đưa ra giới hạn đầu tư tối đa của người cho vay và người đi vay theo thu nhập hoặc tài sản nắm giữ; quy định vốn an toàn tối thiểu của tổ chức cung cấp dịch vụ; cơ chế chuyển giao nền tảng khách hàng trong trường hợp ngưng hoạt động; cơ chế thiết lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro và khuyến khích tham gia mua bảo hiểm tín dụng cho nhà đầu tư.

(3) Quy định các tiêu chí, tiêu chuẩn của quản trị viên điều hành, về cơ cấu thành viên, trụ sở hoạt động, nhân sự tổ chức và cho phép hay không cho phép Platform nước ngoài hoạt động tại Việt Nam (kèm theo là các điều kiện bắt buôc).

(4) Quy định về bảo mật thông tin, về minh bạch hóa hoạt động…

(5) Quy định về thời hạn và nội dung báo cáo thông tin cho cơ quan quản lý (NHNN) theo định kỳ về khối lượng giao dịch, số vốn vay đã được thu xếp, tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu…

Tóm lại, Platform cho vay ngang hàng là sản phẩm kỳ diệu của Fintech. Nhờ nó mà một kênh chuyển vốn giữa các cá nhân và tổ chức được thực hiện nhanh, đơn giản và hiệu quả. Với những lợi thế về chi phí vận hành kết hợp với việc thu thập và xử lý thông tin tín dụng nhờ những thuật toán hiện đại, cho vay ngang hàng đang và sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh nặng ký của các trung gian tín dụng truyền thống. Sự bắt tay giữa các trung gian tín dụng truyền thống với Fintech nói chung và các Platform cho vay ngang hàng nói riêng trong tương lai là một xu hướng có thể dự đoán được. Mặc dù vậy, ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, chưa có khung pháp lý đầy đủ cho loại hình này có điều kiện phát triển một cách lành mạnh. Nếu để phát triển một cách tự phát, rủi ro tiềm ẩn là rất lớn. Do vậy, thay vì né tránh hoặc cấm đoán, các cơ quan quản lý cần chủ động nghiên cứu và định hình khung pháp lý cho hoạt động cho vay ngang hàng phát triển nhằm phát huy tối đa những lợi thế của loại hình này góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam.

[1] Báo cáo của Deloitte (2018)
[2] Trung Quốc hiện giờ đang tìm cách chỉnh đốn lại thị trường và xúc tiến việc ban hành các quy định quản lý sau hàng loạt các vụ đổ vỡ trong thời gian gần đây.

Tài liệu tham khảo:
1. Caroline Stern, Mikko Mäkinen and Zongxin Qian (2017); FinTechs in China – with a special focus on peer to peer lending
https://helda.helsinki.fi/bof/bitstream/handle/123456789/14931/bpb0817.pdf
2. Deloitte (2018) Marketplace lending: A temporary phenomenon? An analysis of the UK market.
https://www2.deloitte.com/content/dam/Deloitte/uk/Documents/financial-services/deloitte-uk-fs-marketplace-lending.pdf
3. FCA regulation of the peer-to-peer lending industry
https://www.lendingworks.co.uk/blog-post/fca-regulation-p2p-lending-industry
Fintechnews Singapore (January 31, 2018) New Peer-To-Peer Lending Players In Vietnam.
4. http://fintechnews.sg/16154/vietnam/peer-peer-lending-vietnam-2/
Morrison & Foerster LLP (2018), Practice
5. Pointers on P2P Lending: How It Works,
Current Regulations and Considerations.
https://media2.mofo.com/documents/150129p2plendingbasics.pd
6. Reserve Bank of India April (2016), Consultation on Peer to Peer Lending.
https://www.coursehero.com/file/28953934/rbi-paper-on-p2p-lendingpdf/

PGS.TS.Nguyễn Văn Hiệu

Nguồn: TCNH số 22/2018


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô