Cập nhật về tình hình dự trữ ngoại hối quốc tế và hàm ý chính sách

Quốc tế
Ngày 30/9/2021, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố báo cập nhật về tình hình dự trữ ngoại hối quốc tế. Đây là dữ liệu tổng hợp từ 149 báo cáo của các quốc gia thành viên IMF và một số quốc gia khác, các tổ chức nắm giữ dự trữ ngoại hối quốc tế...
aa

Ngày 30/9/2021, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố báo cập nhật về tình hình dự trữ ngoại hối quốc tế. Đây là dữ liệu tổng hợp từ 149 báo cáo của các quốc gia thành viên IMF và một số quốc gia khác, các tổ chức nắm giữ dự trữ ngoại hối quốc tế...

Ngày 30/9/2021, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố báo cập nhật về tình hình dự trữ ngoại hối quốc tế. Đây là dữ liệu tổng hợp từ 149 báo cáo của các quốc gia thành viên IMF và một số quốc gia khác, các tổ chức nắm giữ dự trữ ngoại hối quốc tế. Dữ liệu được thu thập theo ba nhóm: Toàn thế giới, các nền kinh tế phát triển, các nước đang phát triển và mới nổi. Đối với mỗi nhóm, dự trữ phân bổ bao gồm những đồng tiền dự trữ truyền thống (USD, EUR, GBP, JPY, CHF) và một số đồng tiền khác.

Cơ cấu dữ trữ ngoại hối quốc tế quy đổi sang USD. Đơn vị tính: tỷ USD

Nguồn: IMF tháng 9/2021


Tính đến cuối quý II/2021, tổng dự trữ ngoại hối quốc tế đạt trên 12.817 tỷ USD, tăng gần 270 tỷ USD so với quý trước đó. Tương tự, dự trữ đã phân bổ tăng lên con số 11.953 tỷ USD, chiếm trên 93,26% tổng dự trữ ngoại hối quốc tế. Trong giá trị dự trữ đã phân bổ, dự trữ bằng USD đạt trên 6.984 tỷ USD, giảm nhẹ từ tỷ trọng 59,54% trong quý trước xuống 59,23%, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với đồng EUR - đồng tiền dự trữ thứ hai - đồng tiền này chiếm tỷ trọng 20,54% trong tổng dự trữ ngoại hối đã phân bổ (quý I/2021 chiếm 21,24%). Tương tự, tỷ trọng JPY cũng giảm nhẹ xuống 5,79% từ 5,89% trong quý I/2021 trước đó. Tỷ trọng CHF không thay đổi, những đồng tiền còn lại tiếp tục tăng nhẹ so với quý I/2021 trước đó, cả về giá trị và tỷ trọng.

Dữ liệu cập nhật cho thấy, USD đang mất dần sức hút như một loại tiền tệ dự trữ hàng đầu, khi một số quốc gia muốn chấm dứt sự lệ thuộc vào đồng bạc xanh này. Sự kiện đáng chú ý là gần đây, CHLB Nga đã loại USD khỏi danh mục dự trữ ngoại hối quốc gia. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 là yếu tố cơ bản tác động đáng kể đến tình hình dự trữ ngoại hối toàn cầu. Cụ thể là, sau khi giảm 122 tỷ USD trong quý I/2020, dự trữ tăng trở lại lên 12.817 tỷ USD vào cuối quý II/2021. Nguyên nhân là do nhiều nước đẩy mạnh can thiệp mua vào những lượng ngoại hối quy mô lớn nhằm tăng thêm nguồn dự trữ để đối phó với những diễn biến kinh tế - xã hội khó lường do dịch bệnh Covid-19 gây ra và nhiều đồng tiền mới nổi lên giá so với các loại ngoại tệ chủ chốt như USD, EUR, JPY.

Tại một số quốc gia, dự trữ ngoại hối đã tăng lên quá mức cần thiết (để trang trải những nghĩa vụ (khoản nợ) nước ngoài ngắn hạn và chi phí nhập khẩu kỳ vọng. Trong khi đó, những nền kinh tế khác, cụ thể là các nước thu nhập thấp, đang đối mặt với nguy cơ thiếu hụt ngoại hối để xử lý những nhu cầu cần thiết về tài chính quốc tế.

Theo thống kê do Wikipedia cập nhật, top 10 quốc gia và vùng lãnh thổ đang có dự trữ ngoại tệ và vàng lớn nhất thế giới bao gồm: Trung Quốc (3.408,736 tỷ USD, dữ liệu tháng 08/2021); Nhật Bản (1.424,284 tỷ USD, dữ liệu tháng 08/2021); Thụy Sỹ (1.087,774 tỷ USD, dữ liệu tháng 08/2021); Ấn Độ (638,646 tỷ USD, dữ liệu ngày 24/9/2021); CHLB Nga (617,90 tỷ USD, dữ liệu ngày 24/9/2021); Đài Loan (543,58 tỷ USD, dữ liệu tháng 08/2021); Hồng Kông (497 tỷ USD, dữ liệu tháng 08/2021); Hàn Quốc (463,90 tỷ USD, dữ liệu tháng 08/2021); Saudi Arabia (441,245 tỷ USD, dữ liệu tháng 07/2021); Singapore (418,146 tỷ USD, dữ liệu tháng 08/2021).

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet


Về bản chất, các ngân hàng trung ương nắm giữ các đồng tiền dự trữ quốc tế bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau, chủ yếu là nhằm: Duy trì ổn định tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ; đảm bảo thanh khoản trong trường hợp xảy ra khủng hoảng kinh tế, chính trị; duy trì niềm tin đối với các khách hàng quốc tế và nhà đầu tư nước ngoài; đáp ứng các nghĩa vụ tài chính quốc tế như hoàn trả những khoản nợ đã đến hạn thanh toán; đa dạng hóa danh mục tài sản của ngân hàng trung ương, góp phần kiềm chế rủi ro quá mức.

Đối với các ngân hàng trung ương, USD và EUR là hai đồng tiền mang lại lợi ích lớn nhất trong cơ cấu dự trữ ngoại hối quốc gia do hai đồng tiền này được chấp nhận rộng rãi trên thế giới, là trung gian thanh toán với tính thanh khoản và độ tin cậy rất cao. Mặc dù USD không còn đóng vai trò quan trọng như trong những năm sau khi hệ thống Bretton Woods được hình thành, khi mà hầu hết các đồng bản tệ trên thế giới đều neo tỷ giá với đồng tiền này nhưng đến nay, USD vẫn tiếp tục là đồng tiền quan trọng nhất trong giỏ các đồng tiền dự trữ quốc tế (chiếm 59,23%).

Bên cạnh đó, các ngân hàng trung ương cần hạn chế can thiệp để tích lũy dự trữ, không nên để dự trữ ngoại hối quốc gia tăng quá mức cần thiết. Một khi kinh tế toàn cầu ổn định trở lại và tăng trưởng bền vững trong dài hạn, các nền kinh tế chủ chốt sẽ chấp nhận chính sách thu hẹp mức độ thâm hụt hoặc thặng dư quá mức. Rủi ro tăng cao từ khó khăn kinh tế cho thấy, các chính phủ cần đẩy mạnh các yếu tố dẫn dắt kinh tế trong nước hơn là dựa vào các nền kinh tế bên ngoài, làm nền tảng vững chắc để cân bằng tăng trưởng giữa các nền kinh tế trên thế giới. Đề tránh rủi ro, về cơ cấu dự trữ cần thay đổi phù hợp tình hình xuất nhập khẩu và nghĩa vụ tài chính quốc tế của mỗi nước, không nên nắm giữ tỷ trọng lớn những đồng tiền có xu hướng giảm giá.

Tình hình dự trữ ngoại hối của Việt Nam

Trong bảng thống kê của Wikipedia, dự trữ ngoại hối của Việt Nam có xu hướng tăng dần và đạt 100,438 tỷ USD, xếp thứ 27 trong bảng thống kê, giảm 1 bậc so với báo cáo trước đó.

Đạt được kết quả đó là do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ. Mặc dù trong bối cảnh kinh tế, tài chính thế giới biến động nhanh và phức tạp do sự tàn phá của đại dịch Covid-19, tâm lý thị trường dao động mạnh, nhưng tỷ giá và thị trường ngoại tệ diễn biến ổn định, nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân được đáp ứng đầy đủ và kịp thời. Với sự ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước đã góp phần tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định cho doanh nghiệp, duy trì niềm tin của các nhà đầu tư, thu hút nguồn vốn đầu tư phục hồi nền kinh tế.

Hiện nay, giá cả hàng hóa thế giới biến động với biên độ lớn do thương mại quốc tế đình trệ, nhất là những mặt hàng thiết yếu, nhu cầu về hàng hóa và nhu yếu phẩm tăng cao, tập trung vào một số thời điểm nhất định; các giải pháp nới lỏng chính sách vĩ mô để hỗ trợ nền kinh tế có thể kéo theo những rủi ro khó lường trong việc kiểm soát lạm phát. Do vậy, mức dự trữ trên của Việt Nam là phù hợp để tiếp tục điều hành ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, đáp ứng tốt các nhu cầu thương mại và tài chính quốc tế.

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; IMF; Wikipedia

Xuân Thanh (NHNN)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Xem thêm
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc