Cảnh báo của FBI về xác thực đa yếu tố và những bài học cho các ngân hàng

Công nghệ & ngân hàng số
Tháng 9 vừa qua, Cục điều tra liên bang Mỹ công bố một ghi chú cảnh báo các công ty của nước này về việc tội phạm mạng đang sử dụng nhiều biện pháp để qua mặt các kỹ thuật xác thực đa yếu tố phổ biến...
aa

Tháng 9 vừa qua, Cục điều tra liên bang Mỹ công bố một ghi chú cảnh báo các công ty của nước này về việc tội phạm mạng đang sử dụng nhiều biện pháp để qua mặt các kỹ thuật xác thực đa yếu tố phổ biến trên thị trường.

Cảnh báo của FBI

Cách đơn giản nhất và cũng phổ biến nhất là gian lận trao đổi SIM, trong đó, kẻ tấn công thuyết phục một mạng di động (hoặc mua chuộc nhân viên) để chuyển số điện thoại di động mục tiêu, cho phép chúng nhận mã bảo mật 2FA được gửi qua tin nhắn SMS. Tội phạm đã sử dụng phương pháp này để trộm tiền trong tài khoản ngân hàng, trộm tiền mã hóa từ các ví điện tử hay sàn giao dịch, tấn công các dịch vụ kiểu PayPal. Ngay tại Việt Nam, chúng ta cũng đã từng thấy một số trường hợp khách hàng bị “cướp SIM” để trộm tiền từ tài khoản ngân hàng. Từ góc độ của người dùng thì đây là kiểu tấn công rất khó chống đỡ.

Kiểu tấn công thứ hai là sử dụng kỹ thuật phishing để lừa người dùng nhập tên đăng nhập/mật khẩu và mã xác thực dùng một lần (OTP) vào một trang web giả. Tháng 9 vừa qua, một loạt các tài khoản YouTube được nhiều người theo dõi đã bị hack theo cách này.

Kiểu tấn công tinh vi hơn là cướp phiên làm việc (session hijack) khi người dùng đăng nhập vào trang web chính thức nhưng thông tin đăng nhập và mã xác thực dùng một lần bị đánh cắp trong quá trình truyền từ người dùng tới website. Theo FBI, một số trường hợp trong năm 2019, lỗ hổng bảo mật trên trang web của ngân hàng đã cho phép tin tặc bỏ qua mã PIN và câu hỏi bảo mật sau khi lừa lấy được các thông tin cơ bản của chủ tài khoản.

Những thông tin trên đây không phải là mới và đã được nhiều người đã biết tới. Vậy cảnh báo của FBI có thực sự cần thiết với các công ty? Vì dù sao thì các kỹ thuật xác thực đa yếu tố như OTP gửi qua SMS vẫn hoạt động tốt và đáp ứng yêu cầu của phần lớn người dùng (cả người dùng nội bộ lẫn khách hàng). Hơn nữa, dù có thể bị qua mặt nhưng các kỹ thuật xác thực đa yếu tố phổ biến vẫn tốt hơn là chỉ xác thực người dùng bằng mật khẩu. Vấn đề là một số người dùng quan trọng (cán bộ quản trị các hệ thống trọng yếu, khách hàng có số dư và hạn mức giao dịch cao...) - những mục tiêu “giá trị” của tin tặc cần được bảo vệ bằng những biện pháp kỹ thuật cao cấp, an toàn hơn. Họ có thể sử dụng các kỹ thuật xác thực đa yếu tố an toàn hơn như token FIDO2 để tránh bị tấn công phishing. Về lâu dài, giải pháp có thể là một tiêu chuẩn như WebAuthn. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về những công nghệ xác thực tiên tiến đó và khả năng ứng dụng của chúng.

U2F giúp bảo vệ người dùng khỏi các hình thức phishing

Dù sử dụng OTP gửi qua SMS hay OTP do ứng dụng di động sinh ra, giao dịch ngân hàng trực tuyến đều có thể bị tấn công phishing do người sử dụng không biết trang web mà họ đang truy cập có đúng là trang web của ngân hàng hay không. Các hướng dẫn phòng chống phishing thường yêu cầu người sử dụng kiểm tra địa chỉ trang web nhưng trong thực tế, đa số người sử dụng không biết hay không nhớ được cách kiểm tra (và tin tặc thì liên tục sáng tạo ra những cách lừa đảo mới). Theo một chuyên gia bảo mật, yêu cầu khách hàng tự kiểm tra địa chỉ trang web là một đòi hỏi duy ý chí.

Việc kiểm tra địa chỉ trang web cũng không có tác dụng là mấy vì có rất nhiều mẹo mà kẻ tấn công có thể sử dụng để đánh lừa cả những người chuyên nghiệp. Ngoài việc hướng dẫn khách hàng kiểm tra địa chỉ trang web, các ngân hàng có thể sử dụng chứng chỉ EV, với loại chứng chỉ này, tên ngân hàng sẽ hiển thị trên thanh địa chỉ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ở Đại học Stanford chỉ ra rằng kẻ tấn công dễ dàng lừa người dùng bằng cách tạo một thanh địa chỉ giả mạo (tấn công “hình trong hình”). Liên minh Xác thực FIDO đã đưa ra chuẩn U2F và các token tuân theo chuẩn này giúp người dùng khỏi phải kiểm tra địa chỉ trang web mà vẫn có thể giao dịch an toàn. Trình duyệt web của người dùng sẽ trực tiếp gửi địa chỉ trang web đến cho thiết bị U2F và thiết bị U2F sẽ thay người dùng kiểm tra địa chỉ có đúng hay không. Nói một cách đơn giản, với mỗi địa chỉ khác nhau thiết bị U2F sẽ trả về một mã xác thực khác nhau, do đó, nếu người dùng bị lừa truy cập địa chỉ http://phishing.com, trang web này không thể lấy cấp mã xác thực của https://banking.com vì địa chỉ https://banking.com khác với http://phishing.com. Đây là một ưu điểm nổi bật của U2F so với các kiểu xác thực bằng OTP truyền thống. Hơn thế, U2F có thể được cắm vào một máy tính nhiễm mã độc mà mã đăng nhập vẫn được đảm bảo an toàn (tuy nhiên, mã độc có thể gây ra nhiều vấn đề khác ngoài quá trình xác thực). Do U2F sử dụng kết nối qua cổng USB, sóng NFC hoặc Bluetooth nên nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến có thể tin tưởng rằng người dùng thực đang ở ngay gần địa điểm đăng nhập chứ không như trường hợp tin tặc lừa người dùng để lấy OTP và đăng nhập ở một địa điểm khác.

Khả năng chống phishing của U2F đã được chứng minh tại Google. Sau khi triển khai thiết bị token bảo mật theo tiêu chuẩn U2F cho hơn 85 nghìn nhân viên, Google không ghi nhận bất kỳ trường hợp nào bị chiếm tài khoản trong gần 2 năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian đăng nhập giảm được 2/3 vì người dùng chỉ cần nhấn vào nút bấm trên token thay cho việc nhập một đoạn mã, số lỗi đăng nhập giảm xuống là 0, thời gian hỗ trợ các vướng mắc của người dùng trong quá trình đăng nhập giảm hàng ngàn giờ, giúp Google tiết kiệm đáng kể chi phí.

Tuy giá của token U2F không rẻ nhưng một token có thể dùng chung cho nhiều dịch vụ khác nhau và các nhà cung cấp dịch vụ trên mạng sẽ không phải tốn tiền cho những khách hàng đã có token U2F. Dù có thể dùng một token U2F để xác thực cho nhiều dịch vụ khác nhau nhưng việc đánh mất token U2F không làm lộ bất kỳ tài khoản nào. Chủ tài khoản chỉ cần xóa nó khỏi danh sách thiết bị xác thực đăng ký với dịch vụ trực tuyến. Người nhặt được token U2F không thể biết nó được liên kết với các tài khoản nào và thậm chí có thể dùng ngay token đó để bảo vệ các tài khoản của mình. Hơn thế, vì U2F là chuẩn mở nên khi các công ty sản xuất token U2F ngày càng nhiều thêm thì giá cả sẽ giảm thêm. Ngay tại Việt Nam, cũng đã có đơn vị sản xuất token U2F. Tháng 8/2018, Liên minh Xác thực FIDO (FIDO Alliance) có trụ sở tại bang California, Hoa Kỳ, đã cấp chứng nhận cho sản phẩm KeyPass U2F Token của Công ty Cổ phần Tập đoàn MK (MK Group) đạt tiêu chuẩn U2F.

WebAuthn và xác thực không dùng mật khẩu

Ngày 20/11/2018, Microsoft thông báo rằng 800 triệu chủ tài khoản Microsoft có thể đăng nhập vào các dịch vụ như Outlook, Office, Skype và Xbox Live mà không cần mật khẩu. Thông báo này là một phần của quá trình tăng tốc để tiến tới một thế giới mạng không dùng mật khẩu, trong một năm mà Mozilla Firefox, Google Chrome và Microsoft Edge đều triển khai hỗ trợ công nghệ xác thực chủ chốt WebAuthn.

Một trong những lý do khiến mật khẩu tồn tại trong một thời gian rất dài là nó cực kỳ dễ hiểu. Trong khi đó, xác thực không mật khẩu hoạt động theo một cách khác, không dễ để hình dung và đi kèm với một loạt các thuật ngữ và tiêu chuẩn mới như FIDO2, WebAuthn và CTAP. Hơn thế, nó rất dễ bị hiểu nhầm, nhất là với những người đã quen với việc sử dụng mật khẩu. Họ nghĩ rằng nếu sử dụng vân tay để đăng nhập vào một trang web nghĩa là chia sẻ dữ liệu vân tay với trang web đó (trong khi điều này hoàn toàn không xảy ra). Vì thế, họ nghĩ rằng, tuy mật khẩu dễ bị lộ, nhưng ít nhất vẫn có thể thay đổi được (trong khi không thể thay đổi vân tay).

Để giải mã câu chuyện hoang đường này, hãy cùng xem xét vấn đề một cách cụ thể. Khi bạn đăng ký với một website, bạn phải báo cho nó biết bạn dùng tên đăng nhập nào và chọn mật khẩu là gì. Và một khi bạn đã chia sẻ mật khẩu với website, bạn buộc phải tin rằng nó sẽ lưu trữ mật khẩu của mình theo cách an toàn. Người dùng không có cách nào kiểm soát được cách quản lý mật khẩu của nhà cung cấp dịch vụ. Và thực tế họ thực hiện điều đó thế nào thì những ai chịu khó theo dõi tin tức đều đã biết rằng, các vụ để lộ mật khẩu của người dùng liên tiếp xảy ra, kể cả với những công ty lớn và có danh tiếng. Trong khi đó, với xác thực không dùng mật khẩu, người dùng không phải chia sẻ mật khẩu hay bất kỳ thông tin bí mật nào với các website. Vì kỹ thuật này sử dụng mã hóa khóa công khai với một cặp khóa thì khóa bí mật do người dùng giữ và các website cung cấp dịch vụ chỉ nhận được khóa công khai. Vì khóa công khai không cần giữ bí mật nên người dùng sẽ không phải lo ngại việc website có giữ nó an toàn không, không lo bị lộ do các sự cố an toàn thông tin và thậm chí có thể thoải mái mang theo nó đi bất cứ đâu. Người dùng xác thực bản thân bằng cách dùng khóa bí mật để mã hóa một số ngẫu nhiên có giá trị rất lớn do website gửi tới. Website giải mã kết quả nhận được bằng khóa công khai và nếu kết quả của quá trình giải mã trùng với giá trị nó gửi tới người dùng thì nhà cung cấp dịch vụ có thể tin rằng người dùng đăng nhập chính là chủ sở hữu của khóa bí mật.

Tất nhiên, đó mới là lý thuyết. Còn trên thực tế, chúng ta sẽ cần tới một Authenticator để tạo và lưu trữ các khóa, cùng với một tập các quy tắc cho phép máy tính, trình duyệt và các website trao đổi thông tin và thực hiện quá trình xác thực. WebAuthn chính là tập các quy tắc đó, là giao diện lập trình ứng dụng mà các website và các trình duyệt sử dụng để xác thực với mã hóa khóa công khai thay cho mật khẩu. Tất cả các trình duyệt chính trên thị trường đã biết cách làm việc với WebAuthn, việc còn lại là những người chủ các website thay đổi mã lệnh của họ. Thay vì đưa ra biểu mẫu đăng nhập với tên người dùng và mật khẩu, các website có thể xác thực người dùng bằng mã lệnh JavaScript nhúng trong các trang web. Đoạn mã đó dùng WebAuthn API để yêu cầu trình duyệt tạo thông tin đăng nhập khi người dùng muốn đăng ký dịch vụ hay nhận thông tin đăng nhập khi người dùng cần truy cập dịch vụ. Tuy mã lệnh JavaScript được tải xuống cùng với trang web và chạy trên trình duyệt của người dùng nhưng nó vẫn được coi là một phần của website nên nó không được tin cậy (cho phép truy xuất khóa bí mật hay bất kỳ thông tin bí mật nào khác của người dùng). Thay vào đó, mã lệnh JavaScript sẽ đóng vai trò đứng giữa, yêu cầu trình duyệt thực hiện các thao tác bí mật và sau đó, chuyển thông tin qua lại giữa trình duyệt và máy chủ web. Bản thân trình duyệt cũng chỉ nhận các yêu cầu chứ không thực sự xử lý các thao tác đó. Authenticator mới chính là nơi thực hiện các thao tác bí mật.

Theo thiết kế, website mà bạn đăng nhập/đăng ký sử dụng dịch vụ không cần biết và không quan tâm việc người dùng lưu giữ khóa bí mật của họ như thế nào. Người dùng có thể sử dụng bất cứ thứ gì phù hợp với mình, đó có thể là công cụ được dựng sẵn trong hệ điều hành, chẳng hạn như tính năng nhận diện khuôn mặt Microsoft Windows Hello, hay một authenticator từ xa như điện thoại di động hay một thiết bị bảo mật.

Để hỗ trợ nhiều loại hình authenticator từ xa khác nhau, những nhà cung cấp chính cần thống nhất về một tập luật cách các trình duyệt và các authenticator nói chuyện với nhau. Tập luật đó sẽ giúp các trình duyệt không phải biết hay quan tâm đến các kiểu authenticator khác nhau, các nhà sản xuất hay các phiên bản khác nhau, do đó, cho phép các công ty cung cấp các giải pháp xác thực mới tham gia vào thị trường. Tập luật đó có tên là CTAP (Client to Authenticator Protocol), định nghĩa cách một clien như trình duyệt nói chuyện với một authenticator từ xa qua cổng USB, Bluetooth hay NFC (Near-field Communication).


Authenticator cung cấp dịch vụ mật mã học cho toàn bộ giao dịch, sinh và lưu trữ khóa của người sử dụng, mã hóa dữ liệu kiểm tra mà website gửi tới cho trình duyệt. Và điều tối quan trọng là authenticator phải xin phép người dùng trước khi thực hiện các thao tác đó. Chẳng hạn như khi người dùng đăng nhập vào một website bằng dấu vân tay. Khi bạn truy cập website, trình duyệt sẽ yêu cầu trang đăng nhập. Mã lệnh của trang đăng nhập sử dụng API của WebAuthn API để yêu cầu trình duyệt ký một thông tin kiểm tra bằng khóa bí mật của người dùng. Trình duyệt chuyển thông tin đó tới authenticator và nó sẽ đề nghị người dùng cấp quyền ký, người dùng chấp thuận bằng việc đặt ngón tay vào thiết bị đọc vân tay. Authenticator kiểm tra thấy vân tay đúng là của bạn và ký thông tin kiểm tra rồi gửi lại dữ liệu mã hóa cho trình duyệt để chuyển tiếp cho mã lệnh JavaScript, từ đó, dữ liệu mã hóa lại được gửi đến máy chủ của website. Máy chủ giải mã bằng khóa công khai mà người dùng đã cung cấp khi đăng ký dịch vụ và xác nhận người dùng là hợp lệ.

Tuy các công việc hậu trường của quá trình này phức tạp hơn rất nhiều so với việc gửi mật khẩu tới cho website nhưng người dùng không cần làm gì. Họ không phải gõ hay nhớ một thứ gì. Họ chứng minh tư cách sử dụng dịch vụ của mình mà không phải lộ bất cứ thông tin bí mật nào và có thể thoải mái chuyển sang sử dụng một loại authenticator mới, an toàn hơn và thậm chí không dùng đến vân tay nữa.

Xác thực người dùng dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam

Ngay từ ngày 31/3/2017, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 630/QĐ-NHNN về kế hoạch áp dụng giải pháp về an toàn bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng. Theo đó, các giao dịch được phân loại và phải áp dụng giải pháp xác thực tối thiểu căn cứ theo phân loại; OTP gửi qua SMS chỉ có thể dùng cho các giao dịch loại B còn các giao dịch cao cấp hơn (loại C và loại D) sẽ phải xác thực bằng Soft OTP/Token OTP hoặc thiết bị U2F/UAF,...

Để tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước, ngày 01/7 vừa qua, nhiều ngân hàng như BIDV, Vietcombank, VPBank đã chuyển đổi bắt buộc phương thức xác thực chuyển khoản trực tuyến đối với khách hàng cá nhân có hạn mức lớn và với khách hàng doanh nghiệp. Soft OTP (hay Smart OTP - theo cách đặt tên của một số ngân hàng) giúp ngân hàng đảm bảo an toàn giao dịch mà không phải phụ thuộc vào khả năng kiểm soát SIM của các nhà mạng nhưng mức độ an toàn của nó có lẽ vẫn còn là một dấu hỏi. Thuật toán sinh số ngẫu nhiên của họ có tốt không, ứng dụng di động của họ đã được chống dịch ngược chưa, đã kiểm tra tính toàn vẹn của hệ điều hành di động chưa (chống root/jail break), họ lưu các thông tin quan trọng phục vụ việc sinh OTP ở đâu,... Nếu không làm tốt các khâu đó và để mã xác thực bị tin tặc đọc được một cách tự động/tìm ra cách sinh OTP, Soft OTP hoàn toàn có thể bị biến thành “No OTP” và khiến cho độ an toàn của các giao dịch ngân hàng trực tuyến giảm đi.


Để tránh việc phải tự đảm bảo/kiểm tra mức độ an toàn của Soft OTP, các ngân hàng có thể tìm hiểu và áp dụng các kỹ thuật xác thực mới như U2F hay WebAuthn từ các nhà cung cấp tin cậy. Trước đây, chủ các website còn phải đắn đo về chi phí mua token U2F cho khách hàng và lo ngại việc các nhà cung ứng dịch vụ khác có thể sử dụng token đó miễn phí. Nhưng đến nay, với việc những chiếc điện thoại Android chạy phiên bản 7.0 trở lên có thể được dùng như một token U2F độc lập thì khả năng ứng dụng U2F đã tăng lên rất nhiều, với chi phí gần như bằng không (vì hầu hết khách hàng sử dụng dịch vụ internet banking đều đã sử dụng điện thoại thông minh đời mới). Khách hàng sử dụng Windows 10 có thể dùng Windows Hello để xác thực bằng tính năng nhận diện khuôn mặt, mống mắt hoặc vân tay một cách an toàn, tiện lợi và việc cung cấp tính năng xác thực cao cấp cho khách hàng VIP sẽ giúp họ giao dịch một cách tự tin hơn đồng thời nâng cao hình ảnh của ngân hàng trong mắt những khách hàng “giá trị cao” này.

Tài liệu tham khảo:

- https://www.yubico.com

- https://krebsonsecurity.com

- https://fidoalliance.org

- https://vnhacker.blogspot.com

- https://vnexpress.net

- https://medium.com.

(Theo TCNH chuyên đề Tin học Ngân hàng số 8/2019)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn  tài chính - ngân hàng

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn tài chính - ngân hàng

Bảo mật khả dụng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, giúp cân bằng giữa an toàn và trải nghiệm người dùng. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng bảo mật Fintech tại Việt Nam, xác định những thách thức chính ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Fintech. Bài viết đề xuất bộ nguyên tắc bảo mật khả dụng gồm năm tiêu chí: Minh bạch, xác thực linh hoạt, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng dụng AI và tối ưu trải nghiệm người dùng. Các nguyên tắc này giúp xây dựng một hệ thống bảo mật an toàn nhưng vẫn bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp với hành vi người dùng Việt Nam. Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp Fintech cần áp dụng nguyên tắc này vào sản phẩm, dịch vụ; ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để nâng cao tiêu chuẩn bảo mật, còn cơ quan quản lý cần ban hành các quy định phù hợp về bảo mật khả dụng trong Fintech.
Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), là một trong “Bộ tứ chiến lược” hướng đến mang lại sản phẩm tiện tích cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế số, giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Nghị quyết 57, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là động lực, chủ thể cho sự phát triển.
Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Bài toán cấp tín dụng là một trong những vấn đề trọng yếu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính hoặc các nền tảng cho vay ngang hàng. Mục tiêu của bài toán này là đánh giá rủi ro tín dụng của từng khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra quyết định liệu có nên cấp tín dụng hay không, nếu có thì với điều kiện như thế nào. Trong thực tế, việc đưa ra quyết định cấp tín dụng không chỉ đơn thuần là lựa chọn giữa “cấp” hay “không cấp”, mà là một quá trình ra quyết định phức tạp, cần cân bằng giữa rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận kỳ vọng. Một quyết định sai lầm, ví dụ như cấp tín dụng cho khách hàng có khả năng vỡ nợ, có thể dẫn đến tổn thất tài chính nghiêm trọng. Ngược lại, từ chối một khách hàng có khả năng hoàn trả tốt cũng là bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai là xu hướng mới đầy tiềm năng, hứa hẹn tái định nghĩa trải nghiệm ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Sự xuất hiện của bản sao số khách hàng đánh dấu bước chuyển đổi căn bản trong ngành Ngân hàng, từ mô hình quản lý khách hàng phản ứng sang chiến lược chủ động dựa trên dự đoán và tương tác cá nhân hóa sâu. Bằng cách xây dựng các mô hình ảo động, bản sao số khách hàng cho phép ngân hàng mô phỏng hành vi, dự báo nhu cầu và phân tích động lực đằng sau quyết định tài chính của từng cá nhân. Giá trị cốt lõi của bản sao số khách hàng nằm ở khả năng siêu cá nhân hóa dịch vụ, thúc đẩy lòng trung thành và tối ưu hóa giá trị vòng đời khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý rủi ro và đổi mới sản phẩm.
Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Bài nghiên cứu này đã nêu rõ vai trò chuyển đổi của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận, nhấn mạnh khả năng phân tích tập dữ liệu giao dịch khổng lồ, xác định các điểm bất thường và tăng cường bảo mật ngân hàng số... Việc trí tuệ nhân tạo và học máy được áp dụng rộng rãi sẽ phụ thuộc vào cách các tổ chức tài chính điều chỉnh chiến lược của mình để thích ứng hiệu quả hơn với các mô hình đang ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn bởi các quy định. Sự thành công của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận sẽ được quyết định bởi việc đổi mới công nghệ, chia sẻ thông tin tình báo về gian lận và các biện pháp quy định nhằm cân bằng giữa đạo đức trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong ngân hàng số.
Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Bài viết đề cập đến vai trò then chốt của ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện và xu thế toàn cầu hóa. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều chiến lược thúc đẩy chuyển đổi số, hiện đại hóa hoạt động toàn ngành. Bài viết đồng thời phân tích nhiệm vụ, thành tựu, khó khăn trong quá trình này và đề xuất giải pháp giúp ngành Ngân hàng thực hiện sứ mệnh phát triển trong thời kỳ mới.
Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thương mại điện tử phát triển mạnh sau đại dịch Covid-19 nhưng kéo theo nhiều rủi ro về bảo mật thông tin và dữ liệu cá nhân, gây ra tình trạng xâm phạm, đánh cắp dữ liệu và gia tăng tội phạm mạng. Do đó, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân trở thành yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh kinh tế số. Bài viết phân tích thực trạng bảo vệ dữ liệu, chỉ ra những hạn chế và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng