Cần một giải pháp tổng thể trong kiểm soát an toàn môi trường sinh thái

Nghiên cứu - Trao đổi
Cùng với việc theo đuổi các chiến lược tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thì môi trường sinh thái trên toàn cầu đã và đang bị hủy hoại ngày càng nghiêm trọng Đặt vấn đề Cùng với việc theo đuổi...
aa

Cùng với việc theo đuổi các chiến lược tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thì môi trường sinh thái trên toàn cầu đã và đang bị hủy hoại ngày càng nghiêm trọng

Đặt vấn đề

Cùng với việc theo đuổi các chiến lược tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thì môi trường sinh thái trên toàn cầu đã và đang bị hủy hoại ngày càng nghiêm trọng, khiến sự sống trên hành tinh đang phải đối mặt với nhiều thách thức khi nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm vật chất của con người tăng thì tốc độ hủy hoại môi trường có xu hướng ngày càng lớn, đòi hỏi cần có các giải pháp ứng phó. Thực tế thì con người đã nhận thức được những nguy cơ khủng hoảng môi trường sinh thái và đề xuất các chủ trương ứng phó, tuy nhiên, tính đồng thuận giữa các quốc gia đang là rào cản trong xử lý nguyên nhân của các thảm họa.

Đối với Việt Nam, cùng với việc phát triển kinh tế thì môi trường sinh thái cũng đã và đang tiếp tục bị đe dọa, Chính phủ đã nhận thức được các mối nguy này và đưa ra nhiều chủ trương và giải pháp nhằm ngăn chặn các hoạt động đe dọa đến an toàn môi trường sinh thái, tuy vậy, cần có các giải pháp quyết liệt hơn nữa nhằm ngăn chặn hữu hiệu hơn các nguy cơ tiềm ẩn trong hệ sinh thái.

Bài viết này tập trung vào đề cập để làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với cân bằng môi trường sinh thái, từ đó, đưa ra một số giải pháp căn bản.

1. Tăng trưởng kinh tế và những tác động xấu đối với môi trường

Tăng trưởng kinh tế là nhu cầu thiết yếu đối với các quốc gia bởi qua đó giúp cải thiện mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng, củng cố quốc phòng, an ninh quốc gia. Trong điều kiện kinh tế mở, tồn tại khoảng cách lớn về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thì các nước đang phát triển phải đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế nhằm đuổi bắt kịp các nước phát triển hay nói cách khác, sự hội nhập có khả năng hay chỉ là khát vọng của các nước đang phát triển phụ thuộc vào việc có duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững hay không.

Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng qui mô sản lượng của một nền kinh tế trong một thời kỳ xác định, đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế tạo ra. Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta có thể sử dụng nhiều thước đo khác nhau, nhưng thước đo thường được sử dụng là các đại lượng: tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP bình quân đầu người. Để có tăng trưởng kinh tế, con người phải bắt đầu từ các yếu tố đầu vào là lao động (L), tài nguyên thiên nhiên (R), vốn tài chính (K) và kỹ thuật sản xuất (T) và những khả năng kết hợp giữa chúng sẽ cho những kết quả tăng trưởng kinh tế rất khác nhau. Từ hàm sản xuất:

Y = f(K, L, R, T), Cobb - Douglas (Ngô Thắng Lợi, 2013) đã biểu diễn mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào với tăng trưởng kinh tế theo phương trình sau đây :

Y = T.Kα.Lβ. Rγ. Trong đó: α, β, γ là các số lũy thừa, phản ánh các tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào K, L, R và α + β + γ = 1.

Từ hàm sản xuất này, sau khi biến đổi có thể thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số như sau:

g = t + αk + βl + γr (1)

Trong đó: g: Tốc độ tăng t;

k, l, r: Tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào K, L, R; t: Phần còn dư lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ.

Phương trình (1) cho biết:

(i) Tăng trưởng kinh tế (g) là tổng hợp của sự tăng trưởng các yếu tố đầu vào: công nghệ (t), vốn tài chính (k), lực lượng lao động (l), tài nguyên (r) được sử dụng vào quá trình sản xuất.

(ii) Có nhiều cách thức khác nhau để có thể đạt được tăng trưởng kinh tế:

1/ Với các nước có lợi thế về tài nguyên tự nhiên thì có thể đẩy mạnh các ngành công nghiệp khai thác để đạt được tăng trưởng kinh tế.

2/ Với các nước có nguồn nhân lực dồi dào thì có thể đẩy mạnh phát triển các ngành thâm dụng lao động.

3/ Với các nước có lợi thế về nguồn vốn tài chính thì có thể tăng đời sống phúc lợi vật chất thông qua xuất khẩu tư bản, nhưng để có tăng trưởng kinh tế thì họ phải tổ chức sản xuất kinh doanh thông qua việc phối hợp các yếu tố đầu vào.

4/ Với các nước có tiềm lực về kỹ thuật công nghệ thì họ sẽ đẩy mạnh công nghiệp chế tạo nhằm tạo ra các sản phẩm có ưu thế vượt trội giúp thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của con người.

Trong các yếu tố đầu vào của sản xuất thì tài nguyên tự nhiên luôn là trung tâm của quá trình sản xuất còn việc tạo ra các sản phẩm vật chất như thế nào hoàn toàn phụ thuộc và các cách kết hợp nó với các yếu tố đầu vào khác. Từ quan điểm duy vật biện chứng thì vật chất không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi, chúng chỉ chuyển từ trạng thái tồn tại này sang trạng thái khác và quá trình sản xuất chính là quá trình tổ chức kết hợp giữa các yếu tố đầu vào nhằm chuyển hóa trạng thái tồn tại của tài nguyên tự nhiên thành trạng thái tồn tại mới nhằm đáp ứng đúng nhu cầu tiêu dùng sản phẩm vật chất của con người. Khi các nhu cầu tiêu dùng sản phẩm vật chất của con người có sự thay đổi càng nhanh thì sự kết hợp giữa các yếu tố đầu vào của sản xuất phải càng khẩn trương nhằm liên tục thay đổi trạng thái tồn tại của các tài nguyên tự nhiên. Với các nhà sản xuất thì họ chỉ quan tâm đến việc làm thế nào để có thể đáp ứng tốt nhất các nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của con người và hầu như ít quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến quá trình sản xuất nên những hệ quả phát sinh thường là tiêu cực với môi trường sinh thái:

Thứ nhất, việc các nhà sản xuất liên tục sản xuất các sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người nên nhu cầu sử dụng nguồn tài nguyên tự nhiên ngày càng lớn và đòi hỏi phải tăng cường khai thác tài nguyên tự nhiên. Do nguồn tài nguyên tự nhiên luôn bị giới hạn về trữ lượng nên nó sẽ dần bị cạn kiệt và các nhà sản xuất phải nghiên cứu tìm ra các tài nguyên thay thế. Đứng từ quan điểm duy vật biện chứng thì các tài nguyên thay thế chẳng qua là cách thức con người biến đổi trạng thái tồn tại ban đầu sang trạng thái mới phù hợp với nhu cầu đã thay đổi mà thôi, chính vì vậy, nguy cơ tài nguyên tự nhiên dần bị cạn kiệt là có thực khi mà có nhiều sản phẩm vật chất được sản xuất ra và khi bị thải loại lại không có khả năng tái sử dụng. Khi các sản phẩm không có khả năng tái sử dụng khiến một bộ phận nguồn lực tài nguyên bị mất đi vĩnh viễn khả năng đáp ứng nhu cầu của con người và trở thành phế thải, các phế thải này ngày càng lớn thì sẽ trở thành gánh nặng với con người trong xử lý chúng. Khi nó không còn phù hợp với nhu cầu sử dụng của con người đồng nghĩa với việc khó khăn trong xử lý loại phế thải này và điều tệ hại diễn ra, đó là tồn tại các container hàng “định cư” lâu dài tại một số cảng của một số nước đang phát triển hay lênh đênh cùng các con tàu biển trên các đại dương xa xôi, thậm chí không loại trừ khả năng chúng thường xuyên bị “trút” xuống các vùng biển khơi gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường biển ngày càng phức tạp.

Thứ hai, quá trình tổ chức sản xuất tại các nước đang phát triển do hầu hết sử dụng các máy móc thiết bị trong sản xuất với công nghệ lạc hậu nên gây ô nhiễm môi trường cao, thường là ô nhiễm tiếng ồn, khói bụi, nhiễm độc môi trường đất, nước. Các nước tăng cường khai thác nguồn tài nguyên tự nhiên nhằm phục vụ cho nhu cầu tăng trưởng kinh tế cao cũng khiến hệ môi trường sinh thái bị hủy hoại với tình trạng đất đai bị hoang mạc hóa, rừng đầu nguồn bị hủy hoại, tình trạng sạt lún đất ở, đất canh tác diễn biến ngày càng phức tạp. Ngay tại các nước phát triển thì nguy cơ làm mất cân bằng môi trường sinh thái vẫn diễn ra mặc dù họ đã tìm cách chuyển các công nghệ sản xuất lạc hậu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao sang các nước đang phát triển, do tình trạng thải loại các sản phẩm tiêu dùng quá nhanh, nhưng nhiều trong số các sản phẩm bị thải loại này lại không có khả năng tái sử dụng nên vấn đề xử lý các sản phẩm tiêu dùng bị thải loại tại các nước phát triển cũng là vấn đề khó khăn và thách thức. Nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng tăng lên cùng với sự tăng lên của thu nhập và điều này hoàn toàn là vấn đề mang tính chất nhân văn khi các nhà sản xuất tạo ra các sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu của con người trên trái đất này. Tuy nhiên, nhằm tối đa hóa lợi nhuận nên các nhà sản xuất đã sử dụng nhiều chiêu thức khuếch trương bán hàng và tìm mọi cách làm giảm thời gian sử dụng hữu dụng của sản phẩm bằng cách liên tục cho ra đời những sản phẩm thay thế có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với sản phẩm cũ khiến cho những người có thu nhập cao không ngừng thay đổi cách tiêu dùng “thông minh” của mình. Khi nguồn tài nguyên tự nhiên là hữu hạn, đặt trong điều kiện có sự tác động của yếu tố công nghệ cao nên rất nhiều sản phẩm khó có khả năng tái sử dụng thì các nhà sản xuất càng tìm cách thay đổi trạng thái tồn tại của vật chất thì nguy cơ nguồn tài nguyên bị cạn kiệt đến càng nhanh, càng có nhiều sản phẩm bị thải loại khó xử lý - gây ra các gánh nặng to lớn lên môi trường sinh thái.

Thứ ba, tồn tại của sự vật, hiện tượng luôn trong trạng thái cân bằng cố hữu, việc con người tìm cách tác động làm thay đổi liên tục trạng thái tồn tại của vật chất sẽ làm thay đổi từng bước trạng thái cân bằng này. Nếu nó diễn ra liên tục và không có khả năng tái tạo thì sự đảo lộn trạng thái cân bằng của tự nhiên sẽ diễn ra.

Con người tổ chức quá trình sản xuất là nhằm đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng của chính con người, đây là mặt tích cực của vấn đề, nhưng nếu chỉ nhìn và ủng hộ quá trình này mà không thấy được mặt trái của sản xuất thì những ẩn họa với môi trường là khó tránh khỏi và nó cũng gây ra các hệ quả không mong đợi với con người.

2. Xử lý các nguy cơ đe dọa môi trường - Cần sự quyết liệt, đồng bộ và mang tính toàn cầu

Từ các phân tích trên đây cho thấy rằng tình trạng mất cân bằng sinh thái trên trái đất có nguồn gốc từ quá trình sản xuất và vì vậy, việc xử lý phải bắt đầu từ khâu tổ chức sản xuất của con người. Ngày nay, dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế với quá trình sản xuất được quốc tế hóa dưới bàn tay “đạo diễn” chủ yếu của TNCs nên việc xử lý phải hướng vào quá trình sản xuất của TNCs, các Chính phủ hay tổ chức quốc tế có tầm quan trọng đặc biệt và cần có sự đồng thuận cao mới xử lý tốt được nguồn gốc gây ra hậu họa.

Trong thực tế, vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường sinh thái được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế quan tâm sâu sắc. Trên góc độ quốc tế thì Nghị định thư Kyoto liên quan đến Công ước khung Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu tầm quốc tế của Liên Hiệp quốc cũng đã được hầu hết các nước ký kết với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Nhiều quốc gia không chỉ đưa ra các tiêu chuẩn khắt khe về khí thải, phế thải của các máy móc thiết bị sản xuất, các phương tiện lưu thông mà còn gây quỹ nhằm tài trợ cho các nước đang phát triển để xử lý môi trường sinh thái bị ô nhiễm. Tuy vậy, do việc xử lý ô nhiễm môi trường sinh thái diễn ra chưa có tính tập trung và quyết liệt, một số nước lớn còn chưa đồng thuận thậm chí rút khỏi Nghị định thư Kyoto nên gây rất nhiều khó khăn trong xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái. Nhưng việc xử lý không chỉ hướng tới giảm thiểu mức độ ô nhiễm của môi trường sinh thái, mà phải hướng tới xử lý nguyên nhân làm mất cân bằng trong hệ sinh thái trái đất thì lúc đó an toàn môi trường sống mới được bảo đảm.

Xuất phát từ đó, chúng tôi cho rằng để có thể xử lý tốt hơn vấn đề mất cân bằng sinh thái trên trái đất thì cần hướng vào một số trọng tâm sau đây:

Thứ nhất, do sự mất cân bằng trong hệ sinh thái trái đất có nguyên nhân từ quá trình tổ chức sản xuất của con người, cho nên phải bắt đầu từ việc kiểm soát chính các nhà sản xuất để từng bước tạo lập sự cân bằng trong hệ sinh thái. Do quá trình sản xuất mang tính chất quốc tế hóa dưới sự dẫn dắt của TNCs nên phải có tiếng nói đồng thuận của nhiều nước có liên quan trong việc kiểm soát quá trình tổ chức sản xuất của TNCs. Để tối đa hóa lợi nhuận thì TNCs sẽ tìm cách khai thác tối đa các lợi thế so sánh của từng nước và vì vậy, các nước đang phát triển bao giờ cũng bị bất lợi do TNCs thường sử dụng kỹ thuật sản xuất lạc hậu tại các nước này nhằm khai thác tối đa các lợi thế về tài nguyên và sức lao động. Nguy cơ gây ô nhiễm khói bụi, tiếng ồn, hủy hoại môi trường đất, nước vì thế sẽ luôn tiềm ẩn tại các nước đang phát triển, do vậy, để có thể khắc phục thì các nước cần có chế tài bắt buộc TNCs phải loại bỏ các kỹ thuật sản xuất gây ô nhiễm môi trường. Để thực thi tốt được yêu cầu này đòi hỏi phải có các chuyên gia môi trường có đủ kinh nghiệm thì mới có thể thẩm định các dây chuyền sản xuất.

Thứ hai, do chạy theo nhu cầu người tiêu dùng, các nhà sản xuất sẽ liên tục thay đổi tính năng, công dụng của sản phẩm sản xuất, dưới tác động của khoa học công nghệ hiện đại thì các nhà sản xuất sẽ nhanh chóng đáp ứng đúng nhu cầu người tiêu dùng và luôn tìm cách để rút ngắn thời gian sử dụng hữu dụng của sản phẩm gây nên tình trạng nguồn tài nguyên cho sản xuất ngày càng bị khai thác cạn kiệt trong khi các sản phẩm thải loại ngày càng gia tăng nhanh với nhiều loại sản phẩm không có khả năng tái sử dụng. Vì vậy, các nước phải tăng cường thẩm định về đặc tính sản phẩm sản xuất, chú trọng khả năng tái sử dụng của sản phẩm.

Thứ ba, các qui định về sản xuất cần bổ sung qui định nhà sản xuất bắt buộc phải có trách nhiệm thu hồi và xử lý các sản phẩm bị thải loại do họ sản xuất ra. Nói cách khác, những sản phẩm do nhà sản xuất nào tạo ra thì khi bị thải loại các nhà môi trường sẽ chuyển trả trực tiếp cho nhà sản xuất cho dù họ ở bất cứ nước nào và họ phải trả phí vận chuyển những rác thải này. Các qui định này phải trở thành tiêu chuẩn quốc tế về sản phẩm sản xuất. Việc xử lý phế thải của nhà sản xuất phải được minh bạch hóa trên góc độ toàn cầu.

Thứ tư, hiện nay vấn đề xử lý ô nhiễm bầu khí quyển đang là vấn đề rất cấp bách và là vấn đề mang tính quốc tế chứ không còn diễn ra đơn lẻ ở từng nước hay khu vực và do vậy, cần có sự chung tay của tất cả các nước để xử lý. Có một thực tế là các nước còn “nhìn nhau” trong xử lý vấn đề và thường soi xét hành vi ứng xử của các nước lớn và tình trạng này nếu vẫn còn tiếp diễn thì trái đất sẽ bị hủy hoại, con người và sự sống trên trái đất này sẽ bị đầu độc, hun nóng. Vấn đề lớn nhất cần phải xử lý nhanh đó là kiên quyết thu hồi tất cả các phương tiện giao thông, máy móc thiết bị sản xuất lạc hậu, đóng cửa các nhà máy có nguy cơ đầu độc môi trường (chứ không phải di chuyển địa điểm sản xuất). Đây là vấn đề thách thức mà nhiều nước đang phát triển phải đối mặt do vấn đề đời sống dân sinh cũng như áp lực dư luận khiến các nhà chức trách phải thận trọng. Nhưng càng thận trọng và xử lý kéo dài thì nguy cơ hủy hoại môi trường sống càng lớn và hệ quả càng phức tạp, bởi khi sự cố xảy ra thì chi phí xử lý thường rất lớn, gây nhiều bất an cho dân chúng. Các nước cần đưa ra tiêu chuẩn chung về môi trường và có chế tài mạnh nhằm xử lý các hành vi gây hủy hoại môi trường, muốn vậy, các nước phát triển cần có những hỗ trợ các nước khác cả về kinh nghiệm lẫn tài chính để kiểm soát môi trường.

3. Phát huy vai trò đòn bẩy tín dụng trong kiểm soát môi trường sinh thái

Mặc dù tài nguyên là yếu tố trung tâm trong mọi quá trình sản xuất, nhưng vốn tài chính là yếu tố không thể thiếu. Theo lý thuyết “cái vòng luẩn quẩn và cú huých từ bên ngoài” của P.A Samuelson (P.A Samuelson, 1989) thì các yếu tố sản xuất đầu vào như tài nguyên (đất đai) hay lao động là những nhân tố sản xuất sơ yếu (không được coi là đầu ra của sản xuất) trong khi vốn tiền tệ vừa là vốn đầu vào cũng là vốn đầu ra của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, để có tăng trưởng kinh tế thì bắt buộc phải có đủ 4 yếu tố đầu vào là nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ cấu tư bản (vốn tài chính) và kỹ thuật. Theo Samuelson thì sở dĩ các nước nghèo khó thoát nghèo bởi các “vòng luẩn quẩn”.

Để có thể phá vòng luẩn quẩn trên đây thì cần có vốn và kỹ thuật công nghệ, điều này khẳng định tầm quan trọng của vốn trong thực hiện các chiến lược tăng trưởng kinh tế của các nước. Trong cơ cấu nguồn vốn cho sản xuất ở mỗi nước thì vốn tín dụng ngân hàng luôn có tầm quan trọng đặc biệt, nó không chỉ là cứu cánh cho sản xuất kinh doanh tại các nước đang phát triển, mà ngay tại những nước phát triển thì vốn tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng, chẳng hạn tại Mỹ thì trong cơ cấu vốn tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì tài trợ từ tín dụng ngân hàng chiếm tới 61,9% (Mishkin, 1994). Với các nước khác tỷ trọng tài trợ từ tín dụng ngân hàng cũng ở mức tương tự, thậm chí còn cao hơn nữa, chẳng hạn tại Nhật Bản thì tỷ trọng này chiếm khoảng 61% còn tại Pháp thì tỷ trọng lên tới 70% (Trịnh Thị Hoa Mai, 2004). Điều này cho thấy tầm quan trọng của tín dụng ngân hàng trong kiểm soát hoạt động của các nhà sản xuất, hay nói cách khác, có thể thông qua “van” tín dụng ngân hàng nhằm kiểm soát hoạt động của các nhà sản xuất, từ đó, loại bỏ các hoạt động có nguy cơ đe dọa môi trường sinh thái. Hoạt động tín dụng ngân hàng thường phải tuân thủ quy trình tín dụng rất chặt chẽ: trên bình diện quốc tế thì Ngân hàng thanh toán quốc tế đưa ra quy trình chuẩn trong công tác thẩm định tín dụng với 7 nội dung mà các cán bộ làm công tác thẩm định tín dụng phải làm rõ, từ đó, sẽ tăng cường công tác sàng lọc khách hàng, chỉ lựa chọn cho vay những khách hàng có mức độ rủi ro “chấp nhận được”. Trong các nội dung cần thẩm định có vấn đề liên quan đến môi trường kinh doanh, nhưng chủ yếu vẫn chỉ đánh giá mức độ gây rủi ro với vốn mà ngân hàng đã cho vay trên cơ sở tham chiếu các đánh giá từ các cơ quan có chức trách liên quan. Do còn có sự coi nhẹ các đánh giá tác động môi trường cho nên các quyết định tín dụng ít nhiều vẫn còn phiến diện bởi các điều khoản trong hợp đồng tín dụng cho phép NHTM tự bảo vệ trong các tình huống khách hàng vay có rủi ro. Nếu đứng từ quan điểm kinh tế vĩ mô để xem xét thì sẽ là hợp lý hơn nếu quy trình tín dụng của các NHTM cần tăng cường hoạt động thẩm định đồng thời với phát huy vai trò của đòn bẩy tín dụng nhằm thực sự hướng dòng chảy vốn tín dụng đến đúng địa chỉ nhằm phát huy vai trò của vốn tín dụng - một nguồn lực luôn có tính khan hiếm cao tại các nước đang phát triển. Như vậy, cán bộ làm công tác thẩm định tín dụng không thể đơn giản hóa công tác thẩm định môi trường mà phải coi đây là nội dung quan trọng cần phải thẩm định kỹ, muốn vậy thì phải nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định, trong điều kiện chưa đáp ứng đúng về năng lực thì các NHTM phải thuê chuyên gia môi trường để thẩm định kỹ và nhằm giúp giảm chi phí hoạt động tín dụng của các NHTM thì thiết nghĩ Chính phủ cần chuyển các nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức quốc tế về môi trường cho các NHTM.

Từ các phân tích trên đây có thể thấy rằng, có nhiều kênh khác nhau nhằm ngăn ngừa và xử lý các hoạt động gây mất cân bằng sinh thái, trong đó kênh tín dụng nên được xem là kênh có vai trò quan trọng, không chỉ tại các nước đang phát triển, nơi mà tín dụng luôn là nhân tố hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư và kinh doanh, đặc biệt tại các nước phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Ngô Thắng Lợi (2013): Kinh tế phát triển. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân

2. Trịnh Thị Hoa Mai (2004): Giáo trình Kinh tế học tiền tệ - ngân hàng. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Mishkin (1994): Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. NXB Khoa học và Kỹ thuật.

4. P.A Samuelson (1989): Kinh tế học (Tập I). Viện Quan hệ Quốc tế.

PGS.,TS. Nguyễn Trọng Tài
ThS. Nguyễn Kim Oanh

TCNH số 21/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Từ thời điểm Luật Nhà ở năm 2005 ra đời, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế thông thoáng để huy động các nguồn vốn cho phát triển nhà ở để bán, cho thuê như: Thành lập Quỹ phát triển nhà ở của các địa phương; huy động vốn của các tổ chức tín dụng; huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính, có nhu cầu mua nhà ở; huy động vốn thông qua các hình thức hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh liên kết...
Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Xem thêm
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc