Bảo tồn và sử dụng bền vững vốn tự nhiên ở Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 đề ra các ưu tiên sử dụng hiệu quả và bảo tồn nguồn vốn tự nhiên cho...
aa

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 đề ra các ưu tiên sử dụng hiệu quả và bảo tồn nguồn vốn tự nhiên cho phát triển bền vững...

Tóm tắt:

Theo đó, để đạt được các mục tiêu và định hướng phát triển mà Chiến lược đề ra, cần nghiên cứu và ban hành cơ chế chính sách kinh tế và tài chính về phục hồi, phát triển nguồn vốn tự nhiên, khuyến khích sự tham gia của mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phục hồi hệ sinh thái. Bài viết khái quát về nội hàm của vốn tự nhiên, tiềm năng và vấn đề sử dụng vốn tự nhiên của Việt Nam, từ đó, đề xuất một số giải pháp bảo tồn và sử dụng bền vững vốn tự nhiên ở Việt Nam.

Từ khóa: vốn tự nhiên, hệ sinh thái, phát triển bền vững.

THE NATURAL CAPITAL CONSERVATION AND SUSTAINABLE USE IN VIETNAM

Abstract: The National Strategy on Green Growth for the 2021 - 2030 period, with a vision to 2050 and the Socio-Economic Development Strategy 2021 - 2030 set priorities for the efficient use and conservation of natural capital for the country for sustainable development. Accordingly, in order to achieve the development goals and orientations set out by the Strategy, it is necessary to study and promulgate economic and financial mechanisms and policies on the restoration and development of natural capital, encouraging the participation of all economic sectors to invest in restoring the ecosystem. The article provides an overview of the content of natural capital, the potential and problems of using natural capital of Vietnam, from which, proposes some solutions to conserve and use natural capital sustainably in Vietnam.

Keywords: Natural capital, ecosystem, sustainable development.

1. Đặt vấn đề

Mô hình tăng trưởng của nhiều nước trên thế giới trong thời gian qua chủ yếu tập trung tích lũy nhanh vốn vật chất, tài chính mà thiếu đi sự quan tâm tới việc suy giảm và cạn kiệt của vốn tự nhiên, tạo ra những rủi ro và thách thức lớn cho thế hệ tương lai. Tổng GDP toàn cầu hiện nay tăng gấp trên hai lần so với năm 1981, nhưng 60% hệ sinh thái toàn cầu đã và đang bị suy thoái, lượng khí thải nhà kính cao hơn gấp 5 lần khả năng hấp thụ của trái đất. Ước tính đến năm 2050, nếu tăng trưởng kinh tế không thể tách rời so với mức độ tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên, mỗi năm thế giới sẽ cần khoảng 140 tỷ tấn khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch và sinh khối - gấp 3 lần mức tiêu thụ hiện nay. Nhu cầu khai thác tài nguyên của con người cao hơn khả năng cung ứng của trái đất 25%.

Để giải quyết vấn các vấn đề này, đồng thời tạo động lực phát triển bền vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng và sự thịnh vượng quốc gia, cần có các giải pháp bảo tồn và sử dụng các nguồn vốn tự nhiên hiệu quả. Phát triển kinh tế bền vững thông qua việc thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn, ít phát thải carbon, đầu tư vào vốn tự nhiên đang là xu hướng phát triển mới. Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), phát huy nguồn vốn tự nhiên là nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, sử dụng và không ngừng thúc đẩy, đầu tư phát triển nguồn vốn tự nhiên, qua đó góp phần quan trọng đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, thúc đẩy tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu tại các quốc gia và trên toàn cầu.

Tại Việt Nam, sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu dịch chuyển sang chiều sâu, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng đã tạo sức ép lớn đối với môi trường; quản lý tài nguyên thiên nhiên còn nhiều yếu kém, sử dụng chưa hiệu quả, nhất là tài nguyên đất đai, tài nguyên nước; một số loại tài nguyên bị lạm dụng, khai thác quá mức dẫn đến suy thoái, cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, nhất là tại các khu đô thị, thành phố lớn, ảnh hưởng lớn tới đời sống, sinh hoạt của người dân, trở thành vấn đề bức xúc của xã hội.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra quan điểm đảm bảo yêu cầu về môi trường cho phát triển bền vững, lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của Nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường. Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi (năm 2020) cũng đã bổ sung các nội dung về các công cụ kinh tế và nguồn lực cho bảo vệ môi trường. Trong đó, thúc đẩy việc khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên. Đồng thời, bổ sung chính sách về tín dụng xanh, trái phiếu xanh để huy động đa dạng các nguồn lực xã hội cho bảo vệ môi trường.

2. Khái niệm, nội hàm của vốn tự nhiên

Khái niệm, phân loại

Theo Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc - UNDP (2012), vốn tự nhiên theo các thành phần cụ thể bao gồm đất đai, khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch, năng lượng mặt trời, nước, quần thể sinh vật sống và các dịch vụ được tạo ra bởi quá trình tương tác giữa tất cả các yếu tố này trong các hệ sinh thái.

Theo UNEP, vốn tự nhiên là các nguồn tài nguyên thiên nhiên (bao gồm sinh vật và các cấu phần vật chất của tự nhiên, như đất, nước, khoáng sản và các nguyên liệu hóa thạch...) được sử dụng cho sản xuất và tiêu dùng, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.

Hàng hóa và dịch vụ được cung cấp từ nguồn vốn tự nhiên có giá trị quan trọng cho đời sống và sự phát triển của con người (như lương thực, nước, không khí, các dịch vụ văn hóa, chu trình sinh địa hóa...). Do đó, vốn tự nhiên là nền tảng cho triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh sinh thái nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia.

Dưới góc độ khoa học, vốn tự nhiên thường được phân chia thành bốn loại: (i) Vốn tự nhiên tái tạo; (ii) Vốn tự nhiên không thể tái tạo; (iii) Vốn tự nhiên có thể tự bổ sung; (iv) Vốn tự nhiên do con người duy trì, bổ sung.

Theo khả năng cung cấp hàng hóa và dịch vụ, vốn tự nhiên có thể chia thành: (i) Nguồn vốn vật chất: bao gồm vốn tự nhiên có tính chất và thuộc chu trình vật chất, cung cấp nguồn khoáng sản, nguyên vật liệu, nguồn năng lượng cho con người; (ii) Nguồn vốn sinh thái: bao gồm vốn tự nhiên nằm trong hệ thống và quá trình sinh thái cung cấp hàng hóa sinh thái, các dịch vụ môi trường như dịch vụ điều hòa khí hậu, cảnh quan thiên nhiên cho con người (Hình 1).

Hình 1: Phân loại vốn tự nhiên theo khả năng cung cấp hàng hóa và dịch vụ



Nguồn: UNEP, 2011

Nội hàm vốn tự nhiên

Theo các nhà nghiên cứu kinh tế sinh thái, vốn tự nhiên là khái niệm mở rộng khái niệm vốn truyền thống trong kinh tế đến hàng hóa và dịch vụ môi trường sinh thái. Như vậy, nội hàm của vốn tự nhiên bao gồm sinh vật (động vật và thực vật), các cấu phần vật chất của tự nhiên như đất, nước, khoáng sản mà khi đem sử dụng mang lại giá trị gia tăng, đồng thời bảo toàn được giá trị của chính mình (Bảng 1).

Bảng 1: Những hợp phần cấu thành của vốn tự nhiên



Nguồn: UNEP, 2011

Để đảm bảo các dịch vụ hệ sinh thái tiếp tục duy trì phúc lợi xã hội và cuộc sống của con người, tài sản vốn tự nhiên cơ bản phải được bảo tồn. Nói cách khác, nếu vốn tự nhiên được quản lý, khai thác và sử dụng phù hợp thì lượng thu nhập tự nhiên sẽ bền vững theo thời gian.

Vai trò của vốn tự nhiên trong phát triển

Vốn tự nhiên trước hết đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với phúc lợi của con người, cung cấp dịch vụ hệ sinh thái, là nguồn lực trụ cột để phát triển kinh tế. Vai trò của vốn tự nhiên thể hiện ở một số khía cạnh như sau:

- Vốn tự nhiên là nền tảng để con người xây dựng nền kinh tế, xã hội và sự thịnh vượng mà không nguồn vốn nào khác có thể thay thế.

- Vốn tự nhiên được coi là nguồn lực đầu vào cần thiết cho sản xuất.

- Một số dạng vốn tự nhiên khan hiếm cao, đặc biệt một số dạng không thể phục hồi hoặc tái tạo lại sau khi chúng bị phá hủy.

- Vốn tự nhiên là một động lực quan trọng cho tăng trưởng và phát triển, được xem là một dạng tài sản, tương tự như những tài sản khác mà con người đang có và đang sử dụng.

Tài sản thiên nhiên như rừng, đất ngập nước và lưu vực sông là các thành phần thiết yếu của vốn tự nhiên ở mỗi cấp độ hệ sinh thái. Những thành tố này có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định của chu trình nước và lợi ích đối với nông nghiệp, chu kỳ carbon và vai trò trong giảm nhẹ khí hậu, độ màu mỡ của đất và giá trị đối với sản xuất cây trồng, điều tiết khí hậu địa phương cho môi trường sống an toàn.

Việc hài hòa giữa vốn tự nhiên, vốn con người, vật chất và xã hội sẽ góp phần tăng năng lực sản xuất. Theo nghiên cứu của Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên - WWF (2012), cứ 1 USD đầu tư vào các nỗ lực bảo tồn sẽ mang lại một giá trị kinh tế - xã hội của các hệ sinh thái trị giá trên 100 USD. Do vậy, cần quản lý tốt hơn nguồn vốn tự nhiên để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững. Quản lý bền vững nguồn vốn tự nhiên là thiết yếu để đạt được mục tiêu về tăng trưởng xanh ở các lĩnh vực khác nhau. Các cấu phần của vốn tự nhiên không thể đứng riêng biệt mà cần được xem xét trong quá trình phát triển của nền kinh tế.

3. Tiềm năng và hạn chế trong sử dụng vốn tự nhiên của Việt Nam

Tiềm năng vốn tự nhiên của Việt Nam

Việt Nam có vị trí chiến lược rất quan trọng trong khu vực và trên thế giới, là cầu nối vùng kinh tế biển rộng lớn với vùng kinh tế lục địa châu Á. Tài nguyên thiên nhiên phong phú và có nhiều tiềm năng để khai thác, sử dụng như: Tài nguyên khí hậu, tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên biển và đa dạng sinh học.

Tài nguyên đất: Đất đai là bộ phận hợp thành quan trọng của môi trường. Đất không chỉ là nguồn tài nguyên mà còn là nền tảng không gian để phân bổ dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội, không chỉ là đối tượng của lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Theo thống kê đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến ngày 31/12/2019, tổng diện tích đất tự nhiên là 33.131.713 ha (xếp hạng thứ 58/200 quốc gia), bao gồm: Diện tích nhóm đất nông nghiệp: 27.986.390 ha; diện tích nhóm đất phi nông nghiệp: 3.914.508 ha; diện tích nhóm đất chưa sử dụng: 1.230.815 ha.

Tài nguyên nước: Việt Nam có 3.450 sông, suối với chiều dài từ 10 km trở lên. Các sông, suối này nằm trong 108 lưu vực sông được phân bố và trải dài trên cả nước với tổng diện tích trên 1,167 triệu km2. Trong đó, có 33 lưu vực sông lớn, liên tỉnh, với 3.140 sông (chiếm 91% số lượng sông của cả nước), tổng diện tích lưu vực khoảng 306,44 nghìn km2, bằng 92,6% diện tích đất liền của nước ta. Tổng trữ lượng động của nước dưới đất trên toàn lãnh thổ, chưa kể phần hải đảo, khoảng 2.000 m3/s (khoảng 63 tỷ m3/năm).

Tài nguyên sinh thái: Sự đa dạng về địa hình, thổ nhưỡng và khí hậu của Việt Nam đã tạo ra sự đa dạng của các hệ sinh thái tự nhiên, sự giàu có, phong phú về các loài và nguồn gen sinh vật. Việt Nam được đánh giá là một trong 16 quốc gia có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới. Việt Nam có 9 khu dự trữ sinh quyển thế giới, 2 khu Di sản thiên nhiên thế giới, 8 khu Ramsar (khu đất ngập nước có tầm quan trọng thế giới) và 5 vườn Di sản. Việt Nam cũng là một quốc gia có đa dạng sinh học cao về các loài động, thực vật và sinh vật. Thống kê đến nay trong thiên nhiên có tới 7,5 nghìn loài vi sinh vật, 16,4 nghìn loài thực vật, 10,3 nghìn loài động vật trên cạn, 2 nghìn loài thủy sinh nước ngọt, trên 11 nghìn loài sinh vật biển. Ngoài ra, còn có hàng trăm nghìn cây trồng, gia súc, gia cầm, vật nuôi. Việt Nam được xếp hạng 16 trên thế giới về đa dạng nguồn gen.

Tài nguyên không tái tạo: Theo Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Việt Nam được coi là quốc gia có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng với hơn 5.000 điểm mỏ của 60 loại khoáng sản. Trong đó, một số loại có trữ lượng quan trọng như boxit (672,1 triệu tấn), apatit (0,778 triệu tấn), titan (15,71 triệu tấn), than (3.520 triệu tấn), đất hiếm (1,1 triệu tấn) và đá granit (15 tỷ m3). Trữ lượng dầu mỏ ước tính khoảng 6 tỷ tấn và khí đốt khoảng 4.000 tỷ m3, phân bố chủ yếu ở vùng trầm tích từ Nam đến Bắc, có ý nghĩa chiến lược và là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Giá trị sản lượng ngành khai khoáng (không kể dầu khí) chiếm khoảng 4 - 5% tổng GDP hằng năm; đóng góp trực tiếp cho ngân sách từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường (không kể dầu khí) từ năm 2014 đến nay, trung bình mỗi năm từ 16.000 - 20.000 tỷ đồng, trong đó thuế tài nguyên từ 10.000 - 11.000 tỷ đồng. Có thể nói, tài nguyên khoáng sản thật sự đã trở thành một trong những nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong từng thời kỳ.

Tài nguyên tái tạo: Việt Nam có tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo sẵn có của mình. Những nguồn năng lượng này có thể khai thác và sử dụng trong thực tế đã được nhận diện đến nay gồm: thủy điện nhỏ, năng lượng gió, năng lượng sinh khối, năng lượng khí sinh học, nhiên liệu sinh học, năng lượng từ nguồn rác thải sinh hoạt, năng lượng mặt trời và năng lượng địa nhiệt. Với lợi thế đường biển dài, tốc độ gió trung bình ở Biển Đông Việt Nam hằng năm lớn hơn 6m/s ở độ cao 65m, phát triển năng lượng gió ở Việt Nam có triển vọng rất lớn, nhất là vùng Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và các đảo.

Ngoài ra, theo các kết quả điều tra của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, vùng biển, ven biển Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, bao gồm cả tài nguyên sinh vật và tài nguyên không sinh vật, tài nguyên trong khối nước, trên đáy và trong lòng đất dưới đáy biển. Hơn 20 hệ sinh thái điển hình, tiêu biểu là rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển với hơn 11.000 loài sinh vật cư trú, trong đó có khoảng 6.000 loài động vật đáy; 2.038 loài cá (có hơn 100 loài cá kinh tế); 653 loài rong biển; 657 loài động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước,... Các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển khác phân bố dọc theo bờ biển Việt Nam bao gồm cửa sông, đầm phá, bãi cát, ruộng lúa, đầm, ao nuôi trồng thủy sản.

Hạn chế trong sử dụng vốn tự nhiên ở Việt Nam

Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu vào các hiệp định thương mại thế hệ mới, tham gia sâu vào các cam kết quốc tế về môi trường, biến đổi khí hậu... đòi hỏi cần phải có cách tiếp cận phù hợp để đưa tài nguyên thiên nhiên thành động lực cho sự phát triển, giảm thiểu các nguy cơ ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất trong tăng trưởng hiện nay là nguồn lực tài nguyên chưa được sử dụng có hiệu quả cao, còn tình trạng lãng phí, thất thoát và diễn biến phức tạp do cơ chế thị trường. Nguồn vốn tự nhiên thường được xem xét là tài sản miễn phí và được định giá kinh tế không phù hợp, dẫn đến việc quản lý không bền vững.

Đất đai như tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, việc thực hiện chính sách tích tụ ruộng đất, tình trạng suy thoái tài nguyên đất diễn ra khá phổ biến; việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa bền vững, tình trạng suy giảm nước ngầm và ô nhiễm nước mặt. Tình trạng sử dụng thiếu hiệu quả, lãng phí tài nguyên nước còn phổ biến.

Xuất khẩu khoáng sản thô vẫn còn phổ biến; chưa có sự chuyển biến mạnh trong tận thu và chế biến sâu khoáng sản. Chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ về công nghệ, thiết bị khai thác, chế biến khoáng sản nhằm thu hồi tối đa khoáng sản, nâng cao giá trị khoáng sản sau khai thác.

Đa dạng sinh học tiếp tục bị suy thoái, các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển... đứng trước tình trạng suy thoái, chưa được khôi phục. Các nguồn gen, đặc biệt là nguồn gen đặc hữu tiếp tục bị suy giảm, cạn kiệt. Chưa phát huy được hết lợi thế mà tài nguyên và môi trường biển mang lại, suy thoái nghiêm trọng tài nguyên biển và vùng bờ biển, nguồn lợi thủy sản bị đánh bắt có nguy cơ cạn kiệt.

Các loại tài nguyên khoáng sản biển, tài nguyên dầu khí và những nguồn tài nguyên biển không tái tạo khác đang bị khai thác quá mức và thiếu tính bền vững như nạn phá hủy san hô, rừng ngập mặn..., ngày một gia tăng. Do đó, không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường mà còn gây lãng phí, cạn kiệt tài nguyên, tác động rất lớn đến chiến lược phát triển kinh tế biển quốc gia.

Ngoài ra, vấn nạn khai thác thủy, hải sản ven bờ theo kiểu tận diệt, đánh bắt bất hợp pháp diễn ra phổ biến... khiến nguồn lợi thủy sản bị suy giảm rõ rệt, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản ven bờ. Đồng thời, một số loại thủy, hải sản đặc trưng ở địa phương đã dần biến mất.

4. Giải pháp bảo tồn và sử dụng bền vững vốn tự nhiên ở Việt Nam

Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 đề ra các ưu tiên sử dụng hiệu quả và bảo tồn nguồn vốn tự nhiên. Theo đó, Chiến lược yêu cầu cần nghiên cứu và ban hành cơ chế, chính sách kinh tế và tài chính về phục hồi, phát triển nguồn vốn tự nhiên, khuyến khích sự tham gia của mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phục hồi hệ sinh thái.

Để thúc đẩy bảo tồn, đầu tư hiệu quả vào vốn tự nhiên, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững, tác giả kiến nghị thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và người dân về giá trị của vốn tự nhiên trong xây dựng nền kinh tế xanh và tầm quan trọng của bảo tồn, sử dụng bền vững vốn tự nhiên.

Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, xây dựng các cơ chế, chính sách thuận lợi nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư, cho vay vốn đối với các chương trình, dự án phát triển, cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên và giảm thiểu tác động tiêu cực đến vốn tự nhiên (như nuôi trồng thủy hải sản bền vững, dự án phát triển năng lượng tái tạo thay thế cho nhiệt điện, các dự án sử dụng công nghệ hiện đại, ít tiêu hao nhiêu liệu...). Các bộ, ngành tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý, tăng cường năng lực thực thi pháp luật và xây dựng cơ chế, chính sách giảm thiểu tác động tới nguồn vốn tự nhiên.

Thứ ba, Bộ Tài chính và các đơn vị liên quan xây dựng lộ trình triển khai thực hiện hạch toán vốn tự nhiên trong tài khoản quốc gia. Chú trọng đến giá trị của các dịch vụ hệ sinh thái trong việc lập và triển khai quy hoạch và các dự án phát triển, cũng như triển khai các dự án đầu tư cần cân nhắc hiệu quả khai thác, sử dụng vốn tự nhiên.

Thứ tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương... thực hiện điều tra, đánh giá và kiểm kê hiện trạng nguồn vốn tự nhiên (bao gồm các hệ sinh thái rừng, biển, đất ngập nước, các nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo, không tái tạo...) để có quy hoạch, kế hoạch quản lý phù hợp, tạo cơ sở cho việc cân đối trong việc thực hiện mục tiêu bảo tồn và phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường năng lực quản lý và đầu tư cho bảo tồn và phát triển vốn tự nhiên, phát huy kết cấu hạ tầng tự nhiên nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, tiếp cận sinh thái cảnh quan trong quản lý và phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn.

5. Kết luận

Sử dụng bền vững và phục hồi các nguồn vốn tự nhiên có vai trò quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là các mục tiêu liên quan đến tăng trưởng xanh, ứng phó biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường. Mục tiêu trong thời gian tới là chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng bền vững để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát huy lợi thế cạnh tranh và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018), Báo cáo môi trường quốc gia: Môi trường nước các lưu vực sông.

2. Chính phủ (2021), Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”.

3. Costanza R. (1997), The Value of the World's Ecosystem Services and Natural Capital. Nature, (387).

4. Fenichel E., Hashida Y. (2019), Choices and the value of natural capital, Oxford Review of Economic Policy 35(1)/2019, pp.120-137.

5. Kim Thị Thúy Ngọc (2014), Vai trò của vốn tự nhiên trong thực hiện các mục tiêu về Tăng trưởng xanh. Tạp chí Môi trường, số 9/2014.

6. Kim Thị Thúy Ngọc, Nguyễn Văn Tài (2015), Vai trò của vốn tự nhiên trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội, số 6/2015.

7. Lok M., Benson E., Gough M., Ahlroth S., Greenfield, O., Confino, J., and Wormgoor W. (2018), Natural capital for governments: why, what and how (Draft 1.0, 21 November 2018).

8. Martin O’Connoer (2015), Natural Capital. Concerted Action funded by the European Commission DG-XII and co-ordinated by Cambridge Research for the Environment, ISBN 186190 083X.

9. Minh Đăng (2020), Đầu tư vào vốn tự nhiên - bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học phục vụ xây dựng mô hình kinh tế xanh ở Việt Nam. Tạp chí Cộng sản, số 7/2020.

10. Nguyễn Hưng Thịnh, Nguyễn Trung Thuận (2021), Một số điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1/2021.

11. Nguyễn Thế Chinh (2019), Báo cáo tổng hợp dự án điều tra, khảo sát hoàn thiện chính sách thúc đẩy phục hồi và phát triển nguồn vốn tự nhiên. Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường.

12. UNEP & FAO (2021), Generation Restoration: Ecosystem Restoration for People, Nature and Climate. UN Environment Programme.

13. World Bank (2019), Việt Nam - hướng tới một hệ thống nước có tính thích ứng, sạch và an toàn.

TS. Nguyễn Thị Bích Nguyệt

Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc